SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tái tạo khuyết hổng là phương pháp tạo hình tiêu chuẩn, tương đối an toàn, tỷ lệ thành công đạt trên 90%, nhằm giúp bệnh nhân phục hồi chức năng của lưỡi sau điều trị ung thư, hồi phục khả năng sinh hoạt.

Ung thư lưỡi là bệnh thường gặp ở bệnh nhân trên 40 tuổi, chủ yếu do nguyên nhân hút thuốc lá và uống rượu. Bệnh diễn tiến tại chỗ tại vùng, ít khi cho di căn xa. Phẫu thuật và xạ trị vẫn là mô thức điều trị chủ yếu cho bướu nguyên phát và hạch vùng. Việc phối hợp phẫu thuật và xạ trị cho các trường hợp bệnh tiến xa là cách điều trị tiêu chuẩn. Trên lâm sàng, phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn hơn. 

Phẫu thuật cắt rộng bướu nguyên phát trong đa số các trường hợp là phẫu thuật cắt nửa lưỡi đối với bướu giai đoạn sớm, cắt gần toàn bộ hay toàn bộ lưỡi với bướu giai đoạn trễ. Khuyết hổng của phẫu thuật ung thư lưỡi thường bao gồm cả các cấu trúc lân cận như sàn miệng, đáy lưỡi, amiđan và vòm khẩu cái, sau phẫu thuật ảnh hưởng nặng đến chức năng nói và nuốt của người bệnh. Đối với các trường hợp bướu lớn hơn, lan rộng hơn thường phải cắt thêm các cơ quan lân cận chẳng hạn như xương hàm dưới. Vì thế, phục hồi chức năng của lưỡi sau phẫu thuật điều trị ung thư là rất khó khăn bởi các chức năng này được thực hiện bởi các cơ riêng của lưỡi.

kluoi1

Khuyết hổng toàn bộ lưỡi, một phần sàn miệng, amiđan và đáy lưỡi ở bệnh nhân

Tại Việt Nam, trước giai đoạn năm 2019, chưa có công trình nào được công bố về việc tạo hình khuyết hổng lưỡi lớn gần toàn bộ hay toàn bộ sau phẫu trị ung thư lưỡi. Trong khi đó, giới y khoa vẫn chưa trả lời được câu hỏi "liệu phương pháp tạo hình khuyết hổng lưỡi bằng vạt tự do hay tại vùng có an toàn về mặt ung thư không, và giúp phục hồi chức năng - thẩm mỹ của lưỡi như thế nào trong điều kiện y học Việt Nam?". 

Do đó, TS.BS Nguyễn Anh Khôi cùng các cộng sự ở Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Tái tạo khuyết hổng gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi sau phẫu thuật trị ung thư” nhằm khảo sát tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật tái tạo gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi, đánh giá chức năng nói và nuốt của người bệnh sau phẫu thuật, khảo sát tỉ lệ tái phát của bệnh sau điều trị.

Nhóm nghiên cứu đã thực hiện tạo hình khuyết hổng lưỡi bằng các loại vạt (vạt da cơ ngực lớn, vạt động mạch trên đòn, vạt cẳng tay quay, vạt đùi trước ngoài) cho 30 bệnh nhân (26 nam, 4 nữ). Có 23 bệnh nhân (77%) trên 40 tuổi, và có 7 bệnh nhân dưới 40 tuổi (23%). Bệnh nhân lớn nhất là 73 tuổi, trẻ nhất là 30 tuổi. Tất cả bệnh nhân đến khám đều là do sang thương ở lưỡi, sùi hoặc loét, không lành. Trong số đó, có 20 bệnh nhân bị đau nhiều tại vị trí của sang thương. Tất cả đều ở giai đoạn trễ (giai đoạn III và IV) của bệnh.

kluoi2

A: sang thương dạng sùi, B: sang thương dạng loét, thâm nhiễm

TS.BS. Nguyễn Anh Khôi cho biết, mục đích quan trọng nhất của tái tạo toàn bộ lưỡi là phục hồi thể tích đã mất. Vì thế, tái tạo gần toàn bộ hay toàn bộ lưỡi phải hoàn thành được 4 mục tiêu gồm: (1) phục hồi thể tích của lưỡi hốc miệng, sàn miệng và cơ hàm móng, (2) phục hồi bề mặt niêm mạc của phần lưỡi đã cắt và các cấu trúc xung quanh để bảo tồn sự di động của phần lưỡi còn lại, (3) phục hồi và duy trì hoạt động phối hợp của lưỡi đển lưỡi có thể chạm vào vòm khẩu cái, (4) phục hồi cảm giác. Trong đó, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chức năng sau tái tạo là bảo tồn được nhiều hay ít phần lưỡi còn lại và các cấu trúc hốc miệng xung quanh, đồng thời không làm hạn chế cử động của phần lưỡi còn lại và cho phép đưa khối thức ăn đến hầu.

kluoi

Phẫu trường sau khi nạo hạch cổ, bảo tồn được động mạch mặt (đầu mũi tên), tĩnh mạch mặt (mũi tên) và tĩnh mạch cảnh ngoài (ngôi sao)

Bệnh nhân sau khi trải qua phẫu thuật được tập hướng dẫn nuốt và nói (do bác sĩ vật lý trị liệu hướng dẫn cho bệnh nhân), ở 4 lĩnh vực chính gồm: hô hấp, vận động, nuốt và giao tiếp. Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, chức năng nói ở các bệnh nhân có sự cải thiện rõ rệt, thậm chí có đến 17 người có thể giao tiếp tốt. Đa số các trường hợp bệnh nhân đều có thể ăn uống được thức ăn sệt, hầu hết vẫn cảm giác khó khăn khi ăn thức ăn đặc. Chỉ có duy nhất 1 trường hợp vẫn chọn lựa nhóm thức uống lỏng do bị khô miệng.

Tạo hình khuyết hổng lưỡi sau phẫu thuật không chỉ đảm bảo chức năng nói và nuốt, mà còn đảm bảo đường thở, vị giác, và hô hấp. Động tác nuốt bắt đầu từ hốc miệng, cảm giác tại đây cung cấp tín hiệu kết hợp với cơ quan hô hấp để nói và nuốt, đưa thức ăn đến hầu, và khởi động phản xạ đóng thanh quản bảo vệ đường hô hấp. Kết quả tạo hình lưỡi lý tưởng khi đạt được kích thước, hình dạng, cảm giác, vị giác, độ di động và chức năng kết hợp phát âm và nuốt.

Tạo hình lưỡi và khuyết hổng một phần lưỡi đòi hỏi phẫu thuật viên phải hiểu rõ về giải phẫu học, sinh lý học, và chất lượng sống của bệnh nhân sau khi phẫu thuật lưỡi. Lưỡi là một cơ quan không thể tạo hình đơn giản như việc “lấp đầy hố” mà phải phục hồi được chức năng và thẩm mỹ sau điều trị. Để đạt được mục tiêu này phải có sự kết hợp giữa phẫu thuật viên, bác sĩ nha khoa, bác sĩ phục hình răng miệng, bác sĩ phát âm học, bác sĩ chẩn đoán hình ảnh, điều dưỡng và nhiều chuyên khoa khác có liên quan. Trong một số trường hợp, mặc dù đã đánh giá và lên kế hoạch tạo hình tiền phẫu, nhưng khuyết hổng thực tế lại khác biệt so với dự đoán. Đối với ung thư vùng hốc miệng và khẩu hầu, dường như mức độ phục hồi chức năng nói và nuốt sau điều trị tùy thuộc vào giai đoạn bệnh trước phẫu thuật. Do đó, phẫu thuật viên cần phải linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp tạo hình sau khi cắt rộng.

kluoi4

Kết quả thẩm mỹ sau tái tạo khuyết hổng

Trong nghiên cứu, tỷ lệ sống còn của các vạt tương đối cao với vạt da cơ ngực lớn, vạt động mạch trên đòn, vạt cẳng tay quay là 100% và vạt đùi trước ngoài là 92,3%. Tỷ lệ biến chứng hoại tử vạt toàn bộ chiếm 3,3%, hoại tử một phần vạt là 3,3%. Có 2 trường hợp chảy máu vùng cổ phải mổ lại: 1 trường hợp máu chảy từ miệng nối tĩnh mạch được khâu phục hồi, còn 1 trườn hợp máu chảy từ nhiều điểm nhỏ khắp phẫu trường, có lẽ do một phần tác động của thuốc kháng đông dùng sau phẫu thuật. 

Trong thời gian 2 năm thực hiện nghiên cứu, có 18/30 trường hợp tái phát, chiếm tỉ lệ 60% và trung vị thời gian tái phát là 7 tháng. Tỷ lệ sống còn toàn bộ sau 2 năm là 47,7% trên 30 trường hợp, phù hợp với tỷ lệ sống còn toàn bộ sau 3 năm 28,8% ở bệnh ung thư lưỡi giai đoạn III-IV. Điều này cho thấy mục tiêu chính của phẫu thuật tạo hình vi phẫu là cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân trong điều trị ung thư.

Với các kết quả thu được của nhiệm vụ, có thể thấy rằng tái tạo khuyết hổng gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi có tỷ lệ thành công cao, giúp phục hồi được chức năng của lưỡi sau tái tạo, và biến chứng phẫu thuật là không đáng kể. Quá trình thực hiện phẫu thuật có thể triển khai ứng dụng tại các cơ sở y tế có sẵn đội ngũ chuyên môn được đào tạo về kỹ thuật vi phẫu hoặc các trung tâm chuyên ngành về ung bướu.

 

Thông tin liên hệ:
Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM
Địa chỉ: Số 3 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh, TP.HCM
Điện thoại: (028) 3841 2637

Email: bvub@gmail.com

Website: http://benhvienungbuou.vn/

Việc nghiên cứu và chuyển giao quy trình sản xuất muối thảo dược ngâm chân từ muối Cần Giờ đã góp phần tạo nên một sản phẩm đảm bảo chất lượng và phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Đây còn là một giải pháp hữu ích nhằm  mở rộng đầu ra cho muối nguyên liệu, làm tăng thu nhập của diêm dân và phát triển kinh tế của địa phương. 

Trên thị trường hiện nay, ngoài các sản phẩm muối dùng trong bảo quản - chế biến thực phẩm (muối iot, muối sấy, muối hột) hoặc dùng trong công nghiệp, muối còn có thể được dùng trong các chế phẩm hỗ trợ sức khỏe, điển hình là dòng sản phẩm muối thảo dược dùng để ngâm chân. Các sản phẩm này có thành phần bao gồm chủ yếu là muối và các dược liệu (dưới dạng dược liệu xay, hoặc dịch chiết dược liệu đã được chuyển thành dạng rắn) hướng đến tác dụng kích thích tuần hoàn ngoại biên, hỗ trợ điều trị tê đầu chi, đau mỏi xương khớp, ra mồ hôi chân, hoặc tác dụng thư giãn cho người bị mất ngủ

muoicg2

Sản phẩm hoàn thiện bổ sung thêm giá trị kinh tế cho sản phẩm muối Cần Giờ 

Mặc dù một số chế phẩm đã được thương mại hóa trên thị trường, tuy nhiên các chế phẩm này tồn tại những nhược điểm đáng kể xét trên phương diện khoa học sức khỏe, bao gồm: nguồn gốc xuất xứ của thành phần công thức không rõ ràng về mặt luận cứ khoa học, tiêu chuẩn chất lượng thường không dựa trên các đánh giá đầy đủ về hàm lượng các dược chất có trong sản phẩm. Ngoài ra, người sử dụng gặp phải sự bất tiện trong phương thức sử dụng các chế phẩm này vì phương thức đóng gói đa liều hoặc người tiêu dùng phải “tự chiết xuất” bằng cách đun một lượng chế phẩm với nước nóng trong một thời gian xác định nên có thể dẫn đến sai biệt về hiệu quả sử dụng.

Với thực tế thị trường và nhu cầu cấp thiết của việc phát triển sản phẩm đầu ra cho muối nguyên liệu Cần Giờ, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Công nghệ Dược Sài Gòn (SAPHARCEN, thuộc Đại học Y Dược TP.HCM) đã xây dựng thành công 4 công thức muối thảo dược ngâm chân sử dụng hai loại nguyên liệu đầu vào là muối thành phẩm và bán thành phẩm nước ót (phần dung dịch còn lại trên ruộng muối đã kết tinh). Từ đó, nhóm điều chế 4 sản phẩm cùng với 2 bài thuốc (theo hướng hỗ trợ): (1) tăng cường tuần hoàn ngoại biên, giảm đau nhức xương khớp, tê thấp; (2) giảm nhẹ các biến chứng, rối loạn thần kinh ngoại vi đối với bệnh nhân đái tháo đường. Các sản phẩm thu được ở dạng hạt cốm, được tiêu chuẩn hóa dựa trên các tiêu chuẩn được quy định bởi Dược điển Việt Nam V, phụ lục dành cho chế phẩm dạng cốm phân liều. 

Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM đã chứng minh được tính an toàn của sản phẩm thông qua thử nghiệm kích ứng da trên chuột. đã Kết quả các mẫu muối ngâm chân không gây kích ứng da chuột ở các thời điểm quan sát là sau 1 giờ, 24 giờ, 48 giờ và 72 giờ. Đồng thời, nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát mức độ hài lòng  của 300 tình nguyện viên (từ 50 tuổi trở lên, đã/đang điều trị bệnh tại Bệnh viện Đại học Y Dược cơ sở 3 hoặc Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM) về trải nghiệm sử dụng sản phẩm với liệu trình trong 30 ngày tương ứng 10 lần ngâm chân (khoảng cách giữa hai thời điểm ngâm chân là 3 ngày). Kết quả khảo sát không ghi nhận trường hợp bị kích ứng da hoặc các phản ứng có hại khác, đạt độ hài lòng tổng thể ở mức “Rất hài lòng” (4-5/5 điểm), trong đó có 32% số người tham gia cho biết đã cải thiện đáng kể chất lượng sống (giảm đau nhức xương khớp, tê thấp, giảm nhẹ các biến chứng, rối loạn thần kinh ngoại vi với bệnh nhân đái tháo đường). 

Qua quá trình nghiên cứu, 4 sản phẩm đều là dạng chế phẩm phân liều, có bằng chứng khoa học, được sản xuất trên thiết bị công nghiệp phù hợp bằng các quy trình được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo tính ổn định về mặt chất lượngvà sự đồng nhất của các lô/mẻ. Đây chính là thành tưu đáng ghi nhận   từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm muối thảo dược ngâm chân của muối sản xuất tại Cần Giờ” do ThS. Lê Đặng Tú Nguyên làm chủ nhiệm đề tài, và cũng đã được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu vào tháng 12/2021. 

muoicg3

Sản phẩm hoàn thiện của nhiệm vụ khoa học công nghệ

Là đơn vị sát cánh cùng nhóm nghiên cứu ngay từ đầu, nhận thấy những lợi ích kinh tế thực tế có thể mang lại cho diêm dân, UBND huyện Cần Giờ cũng đã đề xuất Sở KH&CN TP.HCM chuyển giao các quy trình sản xuất chế phẩm muối thảo dược ngâm chân của muối sản xuất tại Cần Giờ để địa phương triển khai ứng dụng ngay vào sản xuất. Dự kiến, đơn vị trực tiếp tiếp nhận chuyển giao được đề xuất là Phòng Kinh tế huyện, đơn vị triển khai thương mại hóa là Hợp tác xã Muối xã Lý Nhơn. 

Hai quy trình được quan tâm là: (1) Quy trình điều chế sản phẩm gói cốm phân liều chứa muối thảo dược hướng tác dụng bổ khí, thông huyết, trừ thấp; (2) Quy trình điều chế sản phẩm gói cốm phân liều chứa muối thảo dược hướng tác dụng tiêu khát, bổ thận âm. Đối với từng quy trình, nội dung chuyển giao bao gồm: thành phần bài thuốc, quy trình chiết xuất cao đặc và điều chế chế phẩm muối, tiêu chuẩn chất lượng của chế phẩm muối với các sơ đồ, quy trình và thông số kỹ thuật.

ThS. Lê Đặng Tú Nguyên khẳng định: “Các sản phẩm của nhiệm vụ chứa thành phần muối Cần Giờ giúp làm gia tăng giá trị thương mại của muối. Quy trình điều chế sản phẩm, tiêu chuẩn của sản phẩm đã được kiểm định đạt bởi Viện kiểm nghiệm thuốc TP.HCM. Nếu quy trình sản xuất được chuyển giao cho UBND huyện Cần Giờ (TP.HCM) thì nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục hỗ trợ chuyên môn để địa phương triển khai ở quy mô công nghiệp, thương mại hóa sản phẩm.”

Theo kết quả nghiên cứu ghi nhận được, mặc dù các sản phẩm muối thảo dược ngâm chân có nguyên liệu đầu vào là muối thành phẩm hay bán thành phẩm nước ót không cho thấy sự khác biệt về mặt chất lượng, kỹ thuật hay sự hài lòng của người tiêu dùng. Tuy nhiên khi tính đến hiệu quả kinh tế, nhóm nghiên cứu đề xuất chỉ thực hiện sản xuất gói muối thảo dược sử dụng muối thành phẩm. Nguyên nhân là do quá trình bào chế sản phẩm muối ngâm chân với nguyên liệu đầu vào là bán thành phẩm nước ót cần phải thông qua quá trình cô nước ót đến thể tích nhất định, nên khi áp dụng sản xuất ở quy mô công nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn. 

Chính vì vậy, hai sản phẩm muối thảo dược “chủ lực” được nhóm nghiên cứu đề xuất chuyển giao có nguyên liệu từ thành phẩm muối Cần Giờ, bao gồm: (1) gói muối thảo dược ngâm chân tăng cường tuần hoàn ngoại biên, giảm đau nhức xương khớp, tê thấp; (2) gói muối thảo dược ngâm chân hỗ trợ giảm nhẹ các biến chứng, rối loạn thần kinh ngoại vi đối với bệnh nhân đái tháo đường. Giá thành sản phẩm ước tính vào khoảng 150.000 đồng/liệu trình 30 ngày, mỗi lần ngâm chân 20 phút ở nhiệt độ 38-420C. Ngoài ra, các sản phẩm có thể được bổ sung một lượng nhỏ tinh dầu (không làm thay đổi quy trình điều chế) tùy theo nhu cầu sử dụng để tăng mùi hương và mức độ thư giãn trong quá trình ngâm chân. 

muoicg4

Sản xuất chế phẩm muối thảo dược từ bài thuốc bổ khí, thông huyết, trừ thấp ở cỡ lô 1.000 túi chế phẩm

muoicg5

Sản xuất chế phẩm muối thảo dược từ bài thuốc tiêu khát, bổ thận âm ở cỡ lô 1.000 túi chế phẩm

Kết quả của nhiệm vụ cho thấy sự kết hợp giữa muối Cần Giờ và cao dược liệu tạo thành sản phẩm muối thảo dược ngâm chân rất được người tiêu dùng yêu thích. Sự kết hợp này cũng có thể được mở rộng sang các dạng sản phẩm tương tự khác như muối tắm thảo dược, muối chườm thảo dược... Việc nghiên cứu và chuyển giao quy trình sản xuất muối thảo dược ngâm chân từ muối Cần Giờ đã góp phần tạo nên sản phẩm tốt, vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng vừa hữu ích để phát triển kinh tế địa phương, nâng cao thu nhập cho diêm dân.

Đại diện Trung tâm Khoa học Công nghệ Dược Sài Gòn cũng đề xuất Sở KH&CN TP.HCM tiếp tục thực hiện các nghiên cứu công thức cao dược liệu, quy trình điều chế cao dược liệu quy mô công nghiệp, quy trình điều trị sản phẩm phối hợp quy mô công nghiệp, đối với các dạng sản phẩm trên nhằm mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm sau muối. Từ đó, có những những giải pháp giúp đa dạng hóa chủng loại sản phẩm làm ra từ muối sản xuất tại Cần Giờ, tạo đầu ra phù hợp cho muối, góp phần bảo tồn và phát triển nghề làm muối truyền thống của Cần Giờ.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Khoa học Công nghệ Dược Sài Gòn (SAPHARCEN)
Địa chỉ: 41 Đinh Tiên Hoàng, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028 38295641 - Email: sapharcen@ump.edu.vn

Dịch vụ xe công nghệ tại TP.HCM ngày càng phát triển và thu hút nhiều lao động tham gia. Tuy nhiên, loại hình dịch vụ trên nền tảng số này về cơ bản vẫn tồn tại một số bất cập trong quản lý, và người lao động còn phải chịu nhiều rủi ro, vì thế cần có những giải pháp cấp thiết, đồng bộ để quản lý, điều hành. 

Hiện nay, TPHCM có khoảng 200.000 người lao động tham gia thị trường xe công nghệ. Tuy nhiên, loại hình dịch vụ sử dụng nền tảng công nghệ này về cơ bản cũng đã làm nảy sinh khá nhiều vấn đề phức tạp trong công tác quản lý liên quan đến vấn đề tranh chấp trong kinh doanh, giữa mô hình kinh tế truyền thống và mô hình kinh tế chia sẻ. Cụ thể, một số cuộc tụ tập đông người nhằm phản đối cách tính thuế giá trị gia tăng (theo Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ 05/12/2020) cũng như và tỷ lệ chiết khấu doanh thu tại văn phòng công ty sở hữu phần mềm nền tảng ứng dụng gọi xe từng xảy ra trong giai đoạn 2018-2020 đã "đánh dấu" những cảnh báo đáng quan tâm về tình hình an ninh trật tự trên địa bàn TP.HCM. Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị xã hội dành cho người lao động hay thanh niên hiện nay cũng đang khá lúng túng trong việc tập hợp, liên kết người lao động vào mô hình tổ chức của mình nhằm chăm lo, hỗ trợ đời sống, góp phần đảm bảo ninh trật tự trên địa bàn.

xcn

Vấn đề này đang đặt ra nhiều thách thức cho các cơ quan quản lý xã hội, đồng thời cũng là khoảng trống trong các nghiên cứu về kinh tế - xã hội. Trước thực tế đó, Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM đã chủ trì triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ “Đánh giá thực trạng công tác quản lý và các phương thức tập hợp người lao động tham gia cung ứng dịch vụ xe sử dụng nền tảng ứng dụng công nghệ trên địa bàn TP.HCM”, và được hội đồng tư vấn nghiệm thu Sở KH&CN TP.HCM tổ chức hồi tháng 12/2021 đánh giá là đã cung cấp những số liệu, nhận định và đề xuất hết sức khách quan, sát với thực tiễn của loại hình dịch vụ này.

Có thể khẳng định rằng, đề tài đã được nghiêm túc thực hiện nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu trong việc quản lý hoạt động dịch vụ xe công nghệ và các phương thức tập hợp người lao động vào các tổ chức xã hội, để đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn TP. HCM.

 Xe công nghệ: Thách thức cho nhà quản lý

Có thể khẳng định rằng, dịch vụ xe công nghệ tại TP.HCM được xem là lĩnh vực hấp dẫn với sự ra mắt của hàng loạt các doanh nghiệp trong khoảng hơn 5 năm trở lại đây, đặc biệt sau khi Uber bán lại cổ phần cho Grab và rút khỏi Việt Nam vào năm 2018. Tính đến nay đã có hơn 10 doanh nghiệp đang vận hành mô hình kinh doanh xe công nghệ. Thị trường xe công nghệ đang diễn ra sôi nổi với sự tham gia của đa dạng loại hình doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (Grab, Gojek,…) cho đến các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước (Be, Vato,...). Sự hiện diện của nhiều dịch vụ vận chuyển dựa trên nền tảng công nghệ từ năm 2014 đến nay tạo nên một bức tranh kinh tế chia sẻ nhiều màu sắc ở TP.HCM. Dịch vụ này đã mang đến cho khách hàng thêm nhiều sự lựa chọn trong di chuyển. Mặt khác, cũng gia tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận chuyển trên nền tảng công nghệ, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh với mô hình kinh doanh vận tải truyền thống.

xcn1

Nhận định những nguy cơ của hoạt động xe công nghệ

Theo nhận định của Sở Tư Pháp TP.HCM, một thách thức mà các cơ quan Nhà nước đang phải đối mặt là việc không giới hạn số lượng tài xế tham gia vào sử dụng ứng dụng công nghệ cung cấp dịch vụ vận tải như hiện nay dẫn đến tình trạng gia tăng sử dụng phương tiện cá nhân, gây nên sự mất cân bằng quy luật cung cầu, gián tiếp cạnh tranh với phương tiện vận tải công cộng như xe buýt vì tính tiện lợi, nhanh chóng vốn có của nó, song song đó tạo ra sự bất bình đẳng trong giao kết giữa chủ sở hữu nền tảng ứng dụng và các tài xế tham gia chạy dịch vụ với tư cách là đối tác như các hợp đồng giao kết hiện hành. 

Ngoài ra, các vấn đề an ninh xã hội nảy sinh từ khi các mô hình hoạt động dịch vụ xe công nghệ xuất hiện tại Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Loại hình lao động này gây sức ép lên hệ thống pháp luật nước ta bởi vì các khuôn khổ pháp lý hiện nay dường như không có thay đổi linh hoạt để quản lý những thách thức nảy sinh từ các mô hình hoạt động xe công nghệ.

Lao động yếu thế và nhiều rủi ro

ThS. Trương Quốc Lâm, chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học công nghệ, cho biết: sau khi khảo sát nhóm người lao động (tham gia dịch vụ xe công nghệ phân theo hai loại phương tiện tham gia chính gồm xe bốn bánh và xe hai bánh) cho thấy, thành phần tham gia vào hoạt động dịch vụ chạy xe công nghệ khá đa dạng và đang có chiều hướng biến thành một nghề chính thức với mong muốn gắn bó lâu dài với công việc này. Người lao động có thể tự do lựa chọn thời gian làm việc mà không chịu sự quản lý hoặc kiểm soát của doanh nghiệp. 

Đa số tài xế cho rằng công việc lái xe công nghệ của họ là “nghề nghiệp chính thức, ổn định” hoặc “công việc làm thêm để có thu nhập” (90%), chỉ có một số ít tài xế chưa có việc làm mới xem đây là một “công việc tạm thời trước khi tìm việc mới” (10%).

xcn2

Khó khăn của tài xế khi tham gia xe công nghệ

Tuy nhiên, việc định danh mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp chưa rõ ràng, việc gọi tên mối quan hệ “đối tác” nhưng quyền lợi và trách nhiệm không cân bằng, dẫn đến nhiều thiệt thòi cho người lao động. Người lao động là tài xế luôn ở thế yếu, phải chịu sự quản lý một chiều từ phía đơn vị vận hành ứng dụng công nghệ (app) như những người lệ thuộc. Bên cạnh đó, tình trạng, mức sống lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực chạy xe công nghệ khá bấp bênh. Công việc mưu sinh của họ nảy sinh các hệ luỵ khác đối với người lao động như thời gian làm việc quá mức, không có chế độ an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, …) và tình trạng nợ tài chính cá nhân tăng cao.

XCN3

Đánh giá mức thu nhập của tài xế so với công việc trước đây theo từng nhóm nghề

"Khó khăn lớn nhất của họ là không có phúc lợi xã hội và các chế độ đãi ngộ như những người lao động làm công hưởng lương. Các chế độ an sinh xã hội căn bản thực sự rất cần thiết đối với bất kể một ngành nghề nào, đặc biệt là đối với nhóm người lao động chạy xe công nghệ chuyên nghiệp", báo cáo của Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM nêu rõ, "Để tham gia vào công việc chạy xe công nghệ, người lao động đã phải sử dụng các nguồn vốn kinh tế để đầu tư trang bị phương tiện và phần lớn thời gian để chạy xe kiếm tiền". 

Ngoài ra, khi chạy xe công nghệ, người tài xế gặp 5 vấn đề rủi ro chính. Rủi ro lớn nhất là họ luôn phải đối mặt thường ngày là rủi ro về sức khỏe, thân thể và tính mạng. Ngoài ra, họ còn bị mức chiết khấu quá cao so với sức lao động của họ và họ không có các khoản trợ cấp, phụ cấp cần thiết ; tài xế không được đàm phán về các điều khoản trong hợp đồng hay không được bảo vệ quyền lợi trước khách hàng . 

xcn4

Các loại bảo hiểm của người lao động trong lĩnh vực xe công nghệ

Giải pháp ứng dụng thực tiễn mang tính chất cấp thiết

Qua khảo sát, nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất, kiến nghị Chính phủ cần sớm đưa ra các nhiệm vụ hoạch định chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho những người lao động tự do. Trong đó, các chính sách ban hành thời gian tới cần tính toán các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo mức sống của người lao động luôn ở ngưỡng đảm bảo sinh tồn với 3 chỉ báo quan trọng. Đó là, (1) Đảm bảo sự bình ổn mức thu nhập trong ngưỡng sinh tồn; (2) Trong lĩnh vực xe công nghệ, cơ quan quản lý nhà nước phải giám sát việc các doanh nghiệp thu phí, cước phải dựa vào mức sống cơ bản của người lao động. Tránh để tình trạng để doanh nghiệp độc quyền ban hành giá cước có lợi cho doanh nghiệp; (3) Quản lý, giám sát việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động.

xcn5

Mức độ gắn bó với công việc chạy xe công nghệ theo trình độ

Từ kết quả nghiên cứu nói trên, đại diện Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM cũng đã có báo cáo tham vấn chính sách gửi lãnh đạo Thành ủy TP.HCM. Theo đó, đối với giải pháp trước mắt, nhóm tác giả đề xuất Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM chỉ đạo Ban cán sự đảng UBND TP.HCM chỉ đạo UBND Thành phố giao  Sở LĐ-TB&XH sớm xây dựng Bộ tiêu chuẩn đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và công bố thường niên. Sở GT-VT nghiên cứu, tham mưu giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động dịch vụ vận tải hành khách ở đô thị. Sở TT&TT nghiên cứu căn cứ pháp lý để quản lý và phương thức chế tài các ứng dụng trong trường hợp vi phạm pháp luật trên địa bàn TP.HCM, nhất là các trường hợp tác động hay đe dọa tác động đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. 

Ngoài ra, LĐLĐ TP.HCM cần tăng cường chỉ đạo thành lập các nghiệp đoàn xe công nghệ và đánh giá hiệu quả nghiệp đoàn của người lao động trên địa bàn TP.HCM; khuyến kích thành lập các tổ chức phi lợi nhuận (NPOs) theo các dạng thức Doanh nghiệp xã hội hay Quỹ phúc lợi xã hội tập hợp người lao động tự do; hay hành lập Trung tâm Thông tin và hỗ trợ người lao động tự do;… 

Bên cạnh đó, theo đề xuất của nhóm nghiên cứu, các tổ chức chính trị - xã hội của TP.HCM cũng có thể tham gia hình thành Mạng lưới các tổ chức hỗ trợ phúc lợi cho người lao động  (có thể tích hợp với  ứng dụng hỗ trợ người lao động (app)  thông của  Trung tâm thông tin và hỗ trợ người lao động). Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng cần chủ động tăng cường phát huy các mô hình đội nhóm tự lập, tự quản trong lực lượng lao động khá phong phú; song song đó cần sớm có chiến lược tập các nhóm xã hội này theo quan điểm hiệp lực thay vì tiếp cận theo hướng cạnh tranh tập hợp từng cá nhân đơn lẻ như hiện nay.  

Còn một tỷ lệ khá lớn người lao động trong lĩnh vực xe công nghệ chưa tham gia vào các nghiệp đoàn. Các nghiệp đoàn nên có chính sách thu hút và tăng cường công tác vận động những đối tượng này tham gia vào nghiệp đoàn. Phương thức tập hợp người lao động vào nghiệp đoàn là một cách thức mà các nhà quản lý có thể cân nhắc để tập hợp người lao động trong lĩnh vực xe công nghệ ở TP.HCM trong thời gian sắp tới nhằm thuận lợi cho công tác quản lý và đảm bảo quyền lợi cho tài xế xe công nghệ.

(*): số liệu được khảo sát trong năm 2020.

Tận dụng nguồn nguyên liệu là phế phẩm bã nấm men bia, chế phẩm SeNPs/β-glucan có nhiều tiềm năng ứng dụng trợ giúp cho bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, hỗ trợ chống oxy hóa và điều trị ung thư.

Selen là nguyên tố rất cần thiết cho người và động vật, giúp tăng cường khả năng sinh trưởng và phát triển, chống các tác nhân oxy hóa và đặc biệt là tăng cường hệ miễn dịch. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh selen dạng nano (SeNPs) có tính khả dụng sinh học cao và độc tính thấp hơn các dạng selen vô cơ và hữu cơ. Ngoài khả năng kháng oxy hóa cao, SeNPs còn có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư thông qua việc cản trở sự tổng hợp DNA, làm thay đổi các đặc tính cơ học của tế bào ung thư, ức chế tăng sinh tế bào ung thư. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã nghiên cứu tổng hợp SeNPs bằng phương pháp chiếu xạ tia gamma Co-60 ổn định trong 1% dung dịch dextran, hoặc chiếu xạ γ sử dụng oligochitosan làm chất ổn định. Đến tại thời điểm 2019-2020, vẫn chưa có một công bố nào (kể cả trong nước và nước ngoài) sử dụng β-glucan làm chất ổn định. 

PGS.TS. Lê Quang Luân (Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM, chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học công nghệ “Ứng dụng bức xạ chế tạo nano selen ổn định trong β-glucan và xác định khả năng tăng cường miễn dịch của chế phẩm”) khẳng định: “Việc nghiên cứu chế tạo chế phẩm nano selen sử dụng β-glucan làm chất ổn định bằng phương pháp chiếu xạ là hoàn toàn mới, hứa hẹn nhiều triển vọng thương mại hóa vì sẽ có hiệu ứng kết hợp giữa selen và polysaccharide trong hướng ứng dụng trong chống oxy hóa và miễn dịch.”. 

nano1

Mẫu SeNPs/β-glucan ở các nồng độ khác nhau (từ 40-120 ppm)

Là những polysaccharide có trong tự nhiên được sản xuất bởi vi khuẩn, nấm men và nhiều loại thực vật khác, β-glucan có tác dụng điều chỉnh phản ứng sinh học, giúp tăng cường hoạt động của các đại thực bào và kích thích tăng tiết nhiều cytokines (chất hoạt hóa tế bào) nhằm tiêu diệt các mầm bệnh xâm nhập từ bên ngoài, giúp giảm hệ số chuyển đổi thức ăn, kích thích tiêu hóa, phòng các bệnh đường ruột, nhiễm trùng do vi khuẩn, virus. Ngoài ra, β-glucan cũng ngăn ngừa ung thư hay ung thư đang tiến triển cũng như có tác dụng hiệp đồng chống khối u với kháng thể đơn dòng và hóa trị liệu ung thư. 

Tận dụng nguồn bã nấm men bia để làm nguyên liệu, nhóm nghiên cứu ở Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM thu được 1,3kg β-glucan từ 8,12kg thành tế bào nấm men khô. Mẫu β-glucan sau tách chiết có độ tinh khiết khá cao, vì độ tạp nhiễm chitin và protein thấp. Sau đó, nhóm tiến hành chế tạo β-glucan có khối lượng phân tử (Mw) ~ 25 kDa và tan nước bằng phương pháp chiếu xạ, thu được β-glucan tan nước có đặc trưng, cấu trúc không thay đổi so với β-glucan ban đầu, sử dụng làm chất ổn định trong chế tạo dung dịch SeNPs.

nano2

Mẫu β-glucan sau tách chiết

Theo PGS.TS. Lê Quang Luân, thành tế bào bã nấm men bia có thành phần chính là β-glucan không tan trong kiềm, có nhiều thuận lợi cho việc tách chiết và tinh sạch β-glucan. Mặt khác, xử lý bằng kiềm trong điều kiện thích hợp có thể thu được phần lớn cấu trúc 3 chiều của thành tế bào. Nhờ vậy, β-glucan trong thành tế bào không bị biến đổi về cấu trúc không gian, vẫn giữ đặc tính sinh học sau khi thu nhận. Chế phẩm SeNPs/β-glucan được chế tạo thành công bằng phương pháp chiếu xạ ở dạng dung dịch keo, có nồng độ selen đạt 80ppm và kích thước hạt 92nm. 

Nano3

Tổng hợp SeNPs/β-glucan bằng phương pháp chiếu xạ

Thông qua các bước kiểm định, nhóm nghiên cứu xác định chế phẩm SeNPs/β-glucan có hoạt tính chống oxy hóa cao, bền hơn nhiều so với acid ascorbic theo thời gian. Đây là một trong các ưu điểm của chế phẩm cần được quan tâm, để dùng làm nguyên liệu sản xuất ra các sản phẩm chống oxy hóa ứng dụng vào các lĩnh vực mỹ phẩm, thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Chế phẩm còn có khả năng ức chế mạnh đối với sự phát triển tế bào ung thư gan HepG2 nhưng không gây độc trên nguyên bào sợi L929 ở các nồng độ dưới 20 ppm, cho thấy SeNPs/β-glucan có tính chọn lọc đối với dòng tế bào ung thư và tế bào thường. Do đó cũng có thể xem xét hướng ứng dụng chế phẩm SeNPs/β-glucan trong các sản phẩm phòng và chữa trị ung thư trong tương lai.

Chế phẩm thể hiện hoạt tính kích thích cường miễn các yếu tố miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể trong máu ngoại vi (WBC, bạch cầu trung tính, bạch cầu lympho, tế bào B, tế bào NK, tế bào bạch cầu CD4, IgG, IgM, IL-2, IFN-γ và TFN-α), trong tủy xương (WBC, bạch cầu trung tính, bạch cầu lympho và tế bào bạch cầu CD34) và trong lách (chỉ số lách, IgG, IgM, IL-2, IFN-γ và TFN-α) ở chuột gây suy giảm miễn dịch bằng cytoxan. Liều cho uống bổ sung với nồng độ 6 mg/kg thể trọng đã có tác dụng phục hồi các chỉ số miễn dịch gần tương đương so với chuột bình thường không gây suy giảm miễn dịch. Điều này cho thấy chế phẩm SeNPs/β-glucan có tiềm năng ứng dụng hỗ trợ cho các bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch mắc phải hoặc các bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch trong quá trình điều trị.

Nano4

Biểu đồ hạt tiêu biểu của các tế bào miễn dịch trong tủy xương

Kết quả thử nghiệm độc tính cấp của chế phẩm SeNPs/β-glucan chế tạo được ở chuột với liều uống từ 160 - 960 mg/kg thể trọng cho thấy chế phẩm SeNPs/β-glucan hầu như không gây độc tính cấp và liều tối đa cho uống không gây chết (LD0) là 480 mg/kg thể trọng.

Nhóm nghiên cứu cũng đã tìm hiểu và xác định sấy phun là phương pháp phù hợp để tạo sản phẩm SeNPs/β-glucan dạng bột do không làm tăng đáng kể kích thước hạt trong sản phẩm và có thể bảo quản lâu dài cũng như tiện lợi trong vận chuyển. Sản phẩm đảm bảo hoạt tính kháng oxy hóa cao, có khả năng ức chế mạnh tế bào ung thư gan đồng thời có hoạt tính kích thích tăng cường hệ miễn dịch không đặc hiệu cao, do đó có thể ứng dụng làm thực phẩm bảo vệ sức khỏe hiệu quả trong bảo vệ gan. Nhóm cũng đề xuất triển khai nghiên cứu thêm về hoạt tính ức chế tế bào ung thư trên các dòng tế bào ung thư vú (MCF-7), ung thư cổ tử cung (Hela), ung thư phổi A549… để tăng hiệu quả hỗ trợ điều trị ung thư, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

nano5

Quy trình chế tạo SeNPs/β-glucan bằng phương pháp chiếu xạ

Từ việc làm chủ được công nghệ chế tạo β-glucan khối lượng phân tử thấp và tan nước bằng phương pháp chiếu xạ từ nguồn β-glucan chiết xuất từ thành tế bào nấm men trong bã men bia, nhóm nghiên cứu đã làm chủ được quy trình chế tạo dung dịch keo nano selen bằng phương pháp chiếu xạ quy mô 3 lít/mẻ, đồng thời chế tạo thành công sản phẩm nano selen/β-glucan khối lượng phân thấp dạng bột có độ ổn định cao, tạo ra nhiều lợi thế trong quá trình lưu trữ, vận chuyển và ứng dụng cho doanh nghiệp tiếp nhận. 

Việc sử dụng nguồn bã nấm men bia để tách chiết tạo β-glucan làm nguyên liệu, chế tạo chế phẩm SeNPs/β-glucan có hoạt tính sinh học cao là rất hiệu quả và vô cùng thiết thực, không chỉ tận dụng được nguồn nguyên liệu bị xem là phế thải để tạo sản phẩm có chất lượng cao, mà còn góp phần giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm môi trường. 

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM
Địa chỉ: 2374 Quốc lộ 1, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, TP.HCM
Điện thoại: 028 37153792

Email: ttcnsh.snn@tphcm.gov.vn

Website: hcmbiotech.com.vn

Từ trái ớt quen thuộc của người dân Việt, nhóm tác giả Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng đã nghiên cứu, điều chế ra sản phẩm giảm đau, góp phần nâng cao chất thuốc sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu điều trị thay thế thuốc ngoại nhập.

Ớt là một loại trái thuộc chi Capsicum của họ Cà (Solanaceae). Đây là một loại gia vị phổ biển trên thế giới, được trồng khắp nơi nước ta. Trong ớt, có chứa Capsaicin là một alkaloid chiếm tỷ lệ khoảng 0,05-2%. Capsaicin là hoạt chất gây đỏ, nóng, được sử dụng để giảm đau tại chỗ, do capsaicin có khả năng làm giảm chất P-một neuropeptid chủ yếu tham gia dẫn truyền các xung động từ ngoại vi tới hệ thống thần kinh trung ương. Hợp chất capsaicin đã được nhiều tác giả ngoài nước chứng minh có tác dụng giảm đau giảm viêm. 

caoot1

(ảnh minh họa)

Capsaicin hiện đang được sử dụng như một thuốc giảm đau dưới dạng thuốc mỡ bôi, thuốc xịt mũi để giảm đau, thường nồng độ giữa 0,025% tới 0,1%. Capsaicin được áp dụng theo hình thức kem làm giảm đau tạm thời của đau cơ bắp và khớp liên quan tới viêm khớp, đau lưng, bong gân. Ngoài ra, capsaicin còn được sử dụng để làm giảm các triệu chứng bệnh lý thần kinh do herpes (bệnh zona thần kinh).

Tuy nhiên, capsaicin kém tan, khó thẩm thấu qua da nên gây các dụng phụ nóng rát trên da. Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, khi nang hóa capsaicin trong một số hệ mang nano là tăng khả năng thẩu thấu vào da, từ đó làm giảm tác dụng phụ (đỏ, nóng) và tăng hiệu quả của capsaicin.

Nhân thấy những tác dụng quan trọng của capsaicin có trong trái ớt, nhóm các nhà khoa học đang công tác tại Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng đã thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu bào chế sản phẩm giảm đau chứa nano cao ớt”, với mục tiêu bào chế gel giảm đau chứa nano capsaicinoid có hiệu quả tương đương hoặc tốt hơn sản phẩm đối chiếu trên thị trường, đáp ứng được độ an toàn và giá thành phù hợp. 

caoot2

Sản phẩm gel nano cao ớt sau khi đóng tuýp và dán nhãn

Tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước

Ớt hiểm được thu hái ở TP.HCM và TP.Đà Lạt (Lâm Đồng) được nhóm sơ chế rửa sạch, xay nhỏ thành bột để điều chế cao ớt. Từ đó, nhóm khảo sát tỷ lệ cao ớt nhằm chọn tỷ lệ phù hợp nhất có thể tạo được hệ tiểu phân nano ổn định, kích thước nhỏ. Với quy mô 5 kg nguyên liệu/mẻ, thu được 117 g cao ớt, chứa 11,03% capsaicin. Ngoài ra, cao chiết còn chứa một số thành phần hóa học khác như chất béo, carotenoid, triterpenoid tự do, alkaloid, saponin, các hợp chất khử và acid hữu cơ. 

Sau khi điều chế được cao ớt nano, nhóm phát triển sản phẩm gel giảm đau với một số thành phần như nano cao ớt (0,15% capsaicin), tá dược tạo gel, Propylene glycol (5%), Glycerin (1%), Menthol (0,5%) , Camphor (0,5%), nước cất,…  Trong đó, hỗn hợp menthol - camphor được nhóm nghiên cứu thêm vào công thức với tỷ lệ nhỏ, nhằm mục đích tăng hiệu quả trị liệu của sản phẩm, giúp làm dịu cảm giác nóng rát, mùi hăng cay gây ra bởi capsaicin, tạo cảm giác dễ chịu cho sản phẩm khi thoa lên da. 

caoot3

Quy trình chiết xuất cao ớt

Khi thử nghiệm trên thỏ trắng và chuột, nhóm nghiên cứu cho biết, gel nano cao ớt kích ứng không đáng kể trên da thỏ. Ngoài ra, gel nano cao ớt thể hiện tác động giảm đau trung ương trên mô hình nhúng đuôi chuột tương đương với thuốc giảm đau thương mại paracetamol/codein và cao hơn so với sản phẩm thương mại capzacin. Đồng thời, sản phẩm cũng thể hiện tác động giảm đau ngoại biên trên mô hình nhúng đuôi chuột gây đau quặn bằng acetic acid, thấp hơn thuốc giảm đau thương mại voltaren và tương đương với sản phẩm thương mại capzacin ở giai đoạn 35-40 phút sau khi bôi.

“Gel chứa nano cao ớt còn có khả năng kháng viêm tương đương thuốc thương mại diclofenac, cao hơn kem bôi capzacin”, nhóm nghiên cứu khẳng định. 

Về mặt cảm quan, gel nano cao ớt mềm, mịn, đồng nhất, không vón cục, có màu đỏ cam và mùi đặc trưng, bắt dính được trên da hay niêm mạc khi bôi, không tách lớp, không chảy lỏng. Thời gian sử dụng của sản phẩm ít nhất là 12 tháng. Các chỉ tiêu an toàn gel thuốc đạt TCVN 6972-2001.

Có thể thay thế thuốc hóa học 

Theo lời TS Võ Đỗ Minh Hoàng, chủ nhiệm đề tài, hiện nay trên thị trường có rất nhiều nhóm thuốc giảm đau - kháng viêm và được sử dụng rộng rãi ở nhiều dạng khác nhau như uống, dán, kem bôi ngoài da, xịt. Trong đó, thuốc kháng viêm, giảm đau được sử dụng dưới dạng tiêm hoặc uống, là biện pháp được áp dụng phổ biến nhất hiện nay để giảm đau một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, do việc sử dụng quá nhiều thuốc giảm đau có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng thuốc, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cơ thể như tiêu chảy, nôn, rối loạn tiêu hóa và mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, dị ứng, suy gan, suy thận, sốc phản vệ… Vì vậy, các sản phẩm giảm đau - kháng viêm dưới dạng thuốc dán, kem bôi ngoài da được ưa chuộng hơn cả vì độ an toàn cao, hiệu quả nhanh chóng và ít gây ra tác dụng phụ cho người sử dụng. 

Cũng theo nhóm nghiên cứu, ở nước ta, với một nền y học cổ truyền phong phú, nhưng nhiều thuốc giảm đau - chống viêm chưa được chứng minh khoa học và bào chế thành chế phẩm, nên việc sử dụng còn hạn chế. Trong vài thập niên gần đây, xu hướng giảm đau được quan tâm nhiều nhất chính là việc sử dụng một số gia vị và thảo dược có khả năng giảm đau, kháng viêm như một liệu pháp tự nhiên để thay thế cho một số loại thuốc cũng như hoạt chất kích thích giảm đau, kháng viêm. Bên cạnh đó, do rất nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng khi lạm dụng thuốc giảm đau có nguồn gốc hóa học nên, việc nghiên cứu tìm ra các thuốc giảm đau - chống viêm mới có nguồn gốc tự nhiên, an toàn và hiệu quả hơn để thay thế một số loại thuốc giảm đau thông thường là nhu cầu bức thiết hiện nay. 

Vì vậy, việc bào chế thành công sản phẩm giảm đau chứa nano cao ớt, góp phần tạo ra những sản phẩm phục vụ cuộc sống với giá cả hợp lý cho nhân dân lao động và góp phần nâng cao chất lượng thuốc sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu điều trị thay thế thuốc ngoại nhập. Đồng thời, tạo ra vùng nguyên liệu, nâng cao giá trị của cây ớt, cũng như tăng thu nhập cho người dân trồng ớt. 

caoot4

Gel chiết xuất từ ớt (các hình D,E và F) có đặc tính vật lý tương tự nhiều loại gel sinh học khác

Qua việc thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu cũng đã xây dựng tiêu chuẩn cơ sở của nguyên liệu, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Đồng thời, làm chủ được quy trình công nghệ bào chế gel chứa nano cao ớt  ở quy mô 1.000 đơn vị sản phẩm/mẻ, dễ dàng nâng quy mô, phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước, với sản phẩm đầu ra đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn cơ sở, có thể chuyển giao công nghệ cho những đơn vị có nhu cầu. 

Thông tin liên hệ:

Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng

Địa chỉ: 1B TL29, Thạnh Lộc, Quận 12, TP.HCM

Điện thoại: 028-3838919992 - Email: vanthu@iams.vast.vn

Kết quả theo dõi và thống kê trong 12 tháng trên 150 bệnh nhân được can thiệp đặt Vstent - stent mạch vành phủ thuốc Sirolimus sản xuất tại Việt Nam bởi USM Healthcare, cho thấy tính an toàn về y học với 99,3% thành công về thủ thuật và không có tai biến, trong khi tỷ lệ tái hẹp chỉ ở mức 3,5% tương đương nhiều loại stent được sử dụng trên thế giới. 

Cuối tháng 12/2021 vừa qua, Sở KH&CN TP.HCM đã tổ chức hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ "Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của VSTENT (sản xuất tại Việt Nam) trong can thiệp động mạch vành: nghiên cứu đa trung tâm, tiến cứu theo dõi 12 tháng" do Đại học Y Dược TP.HCM là đơn vị chủ trì thực hiện. Chủ nhiệm triển khai nghiên cứu khoa học này là GS.TS.BS Trương Quang Bình và đồng chủ nhiệm là PGS.TS.BS Hồ Thượng Dũng.

vsent

Bác sỹ Trần Hòa, thành viên nhóm nghiên cứu báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Đây là một nghiên cứu ứng dụng, mô tả, tiến cứu, đa trung tâm, theo dõi dọc với thời gian theo dõi trong nghiên cứu là 12 tháng, được thực hiện tại 5 cơ sở bệnh viện gồm Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang, và Bệnh viện Bà Rịa.

Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, từ tháng 2/2019, VSTENT - là stent động mạch vành phủ thuốc đầu tiên sản xuất tại Việt Nam - đã được Bộ Y tế cấp giấy phép lưu hành, tuy thành công bước đầu và mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc điều trị nhưng dữ liệu thu thập để đánh giá còn hạn chế (cụ thể là chỉ trên 40 bệnh nhân và thời gian theo dõi 6 tháng tại Bệnh viện Chợ Rẫy). Vì thế, rất cần thêm một nghiên cứu để giúp ngành y tế TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung có thêm đầy đủ dữ liệu mang tính khách quan, từ đó thực hiện các đánh giá tính an toàn và hiệu quả của sản phẩm VSTENT trong can thiệp động mạch vành. 

vsent1

Phân bổ 150 bệnh nhân tại 5 điểm/cơ sở tham gia nghiên cứu

Trên tinh thần đó, nhóm y bác sỹ tại Đại học Y dược TP.HCM đã đặt ra các mục tiêu để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của VSTENT; đó là (1) Đánh giá tỷ lệ thành công về mặt thủ thuật và lâm sàng của các bệnh nhân được đặt VSTENT; (2) Đánh giá tỷ lệ mất lòng muộn, tái hẹp trong stent và ở các đoạn gần đó (2 đầu) trên hình ảnh chụp mạch vành bằng máy kỹ thuật số xóa nền (DSA), hình ảnh siêu âm nội mạch - hay còn gọi là siêu âm trong lòng mạch (IVUS), phương pháp chụp cắt lớp quang học (OCT) tại thời điểm 6 tháng sau xuất viện; và (3) Đánh giá các biến cố bất lợi và biến cố bất lợi nghiêm trọng trong nghiên cứu như các biến cố tim mạch chính (MACE); huyết khối trong stent; tỷ lệ tử vong do tim mạch; tỷ lệ nhồi máu cơ tim liên quan thủ thuật; và tỷ lệ tái thông lại tại tổn thương đích đã đặt stent trước đó. 

Được biết, hệ thống stent mạch vành phủ thuốc Sirolimus được sử dụng để điều trị chứng tắc/hẹp động mạch do các mảng xơ vữa, chủ yếu hình thành từ cholesterol bám trên thành mạch, đồng thời làm giảm đáng kể biến chứng tái hẹp bằng cách phóng thích thuốc chống tăng sinh.

Theo đó, 150 bệnh nhân được tuyển chọn tại 5 điểm nghiên cứu đã được yêu cầu nhập viện để thực hiện thủ thuật để tái thông mạch vành qua da với sản phẩm VSTENT, sau đó được theo dõi trong bệnh viện theo thường quy là 1 ngày hoặc cho đến khi tình trạng bệnh ổn định. Bệnh nhân sau khi xuất viện được hẹn đến khám sau mỗi 30 ngày, và đến tháng thứ 12 tính từ thời điểm tham gia nghiên cứu. Sau thời gian nghiên cứu 12 tháng, bệnh nhân sẽ vẫn được theo dõi.

vsent2

Tiến trình thực hiện nghiên cứu lâm sàng thực tế

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, qua đánh giá an toàn và hiệu quả của VSTENT với thời gian theo dõi 12 tháng trên 150 bệnh nhân được tuyển chọn ở 5 điểm nghiên cứu, thì các kết quả nghiên cứu trước và sau can thiệp mạch vành qua da đặt stent cho thấy tỷ lệ thành công 100% về thiết bị, 99,3% về thủ thuật và không có tai biến. 

vsent3

Tất cả 150 bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều được đặt 1- 2 VSTENT, với kết quả sau can thiệp là 100% thành công về mặt thiết bị và 99,3% thành công về thủ thuật theo đánh giá lâm sàng và qua chụp mạch vành

Trong thời gian theo dõi 12 tháng cho thấy hiệu quả của VSTENT với tỷ lệ tái hẹp trong stent hoặc trong đoạn bao gồm 5 mm bên ngoài hai đầu của stent tại thời điểm đánh giá ở mức rất thấp (tỷ lệ tái hẹp 3,5%) với mức mất lòng muộn trung bình tương ứng trên QCA là 0,08 mm (trong stent) và 0,07 mm (trong đoạn bao gồm 5 mm bên ngoài hai đầu stent). Nghiên cứu cũng ghi nhận mức độ an toàn cao sau 12 tháng theo dõi với tỷ lệ biến cố tim mạch gộp (MACE) là 4,7% (với 7 trường hợp), trong đó 0,7% tử vong liên quan tim mạch và 4,0% tái thông lại tổn thương đích đã đặt stent trước đó, và không có trường hợp nào bị huyết khối trong stent

vsent4

So với một số nghiên cứu lâm sàng tương tự trên thế giới, tỷ lệ biến cố tim mạch gộp (MACE) của VSTENT là tương đối thấp, ở mức dưới 5%

"Thành công về lâm sàng trong 12 tháng theo dõi, có 94,6% bệnh nhân không có biến cố tim mạch chính/tổng hợp (MACE) hay tử vong tim mạch; và hiệu quả của VSTENT  sau can thiệp được thể hiện qua mức độ đau thắt ngực giảm đáng kể từ 100% trước can thiệp còn 17,3% ngay sau khi can thiệp, và không còn tình trạng đau thắt ngực đến thời điểm D360 (12 tháng)", báo cáo nêu rõ cho biết, "100% bệnh nhân đều phục hồi sức khỏe trong thời gian nằm viện với tình trạng ổn định và sau đó xuất viện bình thường".

Vsent5

Phân bố chiều dài và đường kính stent sử dụng trong nghiên cứu

Trong nghiên cứu, nhóm cũng ghi nhận nhiều trường hợp đặc trưng, và có các đề xuất y khoa phù hợp. Đơn cử sau khi can thiệp đặt stent, qua OCT có phát hiện 1 tổn thương (tỷ lệ 3,8%) với tình trạng vỡ mảng xơ vữa ở mức độ nhẹ, và 1 tổn thương (3,8%) bị bóc tách do nong stent tại đầu xa hơi lớn so với lòng mạch, cũng ở mức độ nhẹ. Hai trường hợp này được theo dõi kỹ trong thời gian nằm viện thấy tình trạng sức khỏe được phục hồi và xuất viện bình thường. Ngoài ra, nhờ khả năng chụp ảnh lòng mạch chi tiết nên OCT đánh giá được mức độ stent áp sát thành mạch sau can thiệp một cách rõ ràng, với 92,3% trường hợp stent áp sát hoàn toàn. Qua đó, nhóm nghiên cứu ghi nhận có 2 tổn thương chưa được stent áp sát thành mạch hoàn toàn, được nghiên cứu viên đánh giá là do vôi hóa cứng, tuy nhiên mức độ áp sát vẫn tương đối đảm bảo và thủ thuật đạt mức cận tối ưu.

Nghiên cứu cũng ghi nhận 6 trường hợp tái hẹp in-segment tại thời điểm theo dõi D180 (6 tháng) trên QCA, trong đó 2 trường hợp đã có tổn thương hẹp ở mức độ tương đối đến đáng kể tại các vị trí ngay bên ngoài hai đầu stent tại D0/D1 nhưng chưa được xử lý phù hợp; và 2 trường hợp có tổn thương không đáng kể ở các vị trí ngay bên ngoài hai đầu stent tại D0/D1; và chỉ có 1 trường hợp tái hẹp trong stent (in stent). 

"Tuy nhiên, tỷ lệ các biến cố trên nằm trong giới hạn cho phép và tương đồng với kết quả của các loại stent khác trên thế giới", báo cáo được trình bày trước hội đồng nêu rõ.

Hướng ra thế giới

Nhận định về công trình nghiên cứu này, PGS.TS. BS Phạm Nguyễn Vinh, Chủ tịch Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học, một trong những người của thế hệ đầu tiên tại Việt Nam về chuyên ngành tim mạch học can thiệp, hồ hởi cho biết "mạch vành là một trong những mạch máu quan trọng nhất của cơ thể, vì thế nếu kỹ thuật đặt stent và chất lượng sản phẩm không tốt có thể gây tai biến; và kết quả nghiên cứu đã được chứng minh thông qua đội ngũ y bác sỹ của 5 Bệnh viện, gồm Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang, Bệnh viện Bà Rịa, rằng 150 bệnh nhân đã đạt kết quả thành công trên 99% và được theo dõi trong 12 tháng, tôi nghĩ đó là một niềm hãnh diện cho kỹ thuật của nước nhà và bản thân tôi tin đây rằng chúng ta có thể giới thiệu VSTENT cho các bệnh nhân của Việt Nam, và chúng tôi cũng hy vọng là stent này có thể vươn ra thế giới".

GS.TS. BS Trương Quang Bình, Phó Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, Giám đốc Trung tâm tim mạch Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, Giảng viên cao cấp Đại học Y Dược TP.HCM và cũng là chủ nhiệm nhóm thực hiện đề tài khẳng định, kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ này đã cho thấy VSTENT sản xuất tại Việt Nam bởi một công ty chuyển giao công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế, không chỉ an toàn về y học mà còn mang lại nhiều lợi ích về kinh tế do giá thành rẻ hơn đáng kể so với một số sản phẩm stent nhập ngoại. "Tựu trung, VSTENT sản xuất bởi USM Healthcare tại Việt Nam là loại stent an toàn, hiệu quả trong can thiệp động mạch vành qua da", GS. Trương Quang Bình nhận xét.

Đại diện công ty USM Healthcare cho biết, giá VSTENT trung bình ở mức dưới 30 triệu/cái, thấp hơn 30% so với stent nhập ngoại, do đó sản phẩm kỳ vọng sẽ giúp nhiều bệnh nhân trong nước có cơ hội tiếp cận điều trị.

Tại buổi báo cáo nghiệm thu, đại diện các y bác sỹ trực tiếp tham gia công trình nghiên cứu này thuộc Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM cũng chủ động kiến nghị ngành y tế có thể sử dụng rộng rãi VSTENT trong thực hành can thiệp các sang thương động mạch vành cho bệnh nhân hội chứng vành cấp và hội chứng vành mạn vì tính an toàn và hiệu quả như được nêu trong kết quả của nghiên cứu này; đồng thời xem xét đặt stent dài hơn để bao phủ trọn vẹn sang thương để có thể hạn chế hiện tượng tái hẹp trong stent.

stent6

 Ông Nguyễn Xuân Dũng - Phó tổng giám đốc USM Healthcare tặng hoa chúc mừng nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ Đại học Y Dược TP.HCM và các thành viên hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức

Thông tin liên hệ:

Đại học Y Dược TPHCM

Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, P.11, Q. 5, TP.HCM

Điện thoại: 02838558411 - Email: daihocyduoc@ump.edu.vn; binh.tq@umc.edu.vn

Công ty USM Healthcare 

Địa chỉ: Lô I-4b -1.3, Đường N3, Khu Công Nghệ Cao, Phường Long Thạnh Mỹ, Tp. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh

Điện thoại: +84 28 730 44 888 | Fax: +84 28 730 43 888

Email: info@usm.com.vn | Website: www.usm.com.vn

Nhóm các nhà khoa học tại TP.HCM đã thành công trong việc biến phế thải vốn gây ô nhiễm môi trường thành vật liệu xây dựng, mang lại hiệu quả kinh tế, và kỳ vọng thu hút được nhiều sự đầu tư từ các doanh nghiệp.

Tro bay là bụi khí thải dạng hạt mịn thu được từ quá trình đốt cháy than đá trong các lò hơi của nhà máy nhiệt điện, lò quay của nhà máy xi măng, lò cao của nhà máy luyện kim, lò tunel của các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, lò của hệ thống xử lý rác bằng công nghệ đốt… Thành phần của tro bay thường chứa các silic oxit, nhôm oxit, canxi oxit, sắt oxit, magie oxit và lưu huỳnh oxit, ngoài ra có thể chứa một lượng than chưa cháy. Tro bay gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

troxi

(hình minh họa)

Đã có nhiều nghiên cứu trước tổng hợp aerogel từ silica được trích ly và thu hồi từ tro bay bằng phương pháp sol-gel truyền thống, nhưng quy trình tổng hợp còn phức tạp, sử dụng nhiều hóa chất không thân thiện với môi trường để tiền xử lý tro bay và tổng hợp aerogel, hoặc sử dụng dung môi và hóa chất đắt tiền. Bên cạnh đó, các thông số kỹ thuật của vật liệu chế tạo từ tro bay vẫn chưa phù hợp với thực tiễn, ví dụ như độ dẫn nhiệt cao hơn so với các chất cách nhiệt truyền thống. Phần lớn các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở bước phát triển công nghệ ở quy mô phòng thí nghiệm, chưa tính toán chi phí năng lượng và năng lực sản xuất vật liệu trong thực tiễn, kém hiệu quả về mặt kinh tế.

Trước thực tế đó, nhóm các nhà khoa học tại Đại học Bách Khoa TP.HCM đã nghiên cứu, chế tạo và sản xuất thử nghiệm thành công vật liệu aerogel và aerogel composite từ tro bay sử dụng công nghệ sấy thăng hoa và dung môi xanh, cùng chất kết dính thân thiện với môi trường nhằm ứng dụng vào vật liệu cách nhiệt và cách âm. Chi phí sản xuất tro bay aerogel composite (FA aerogel composite) rất thấp, chỉ khoảng 59.000 đồng/m2. Nhóm cũng đã xây dựng quy trình tổng hợp vật liệu cao cấp từ tro bay nhằm tận dụng nguồn phế phẩm công nghiệp dồi dào, giải quyết vấn đề ô nhiễm của tro bay tại các bãi chứa, có hiệu quả kinh tế cao, sẵn sàng chuyển giao ngay cho doanh nghiệp trong nước. 

Đáng chú ý, đây chính là "quả ngọt" từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Phát triển công nghệ sản xuất vật liệu aerogel composite từ tro bay định hướng ứng dụng làm vật liệu siêu nhẹ, cách âm, cách nhiệt” do PGS.TS Lê Thị Kim Phụng làm chủ nhiệm đề tài, vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu hồi cuối tháng 12/2021.

troxi1

Thành phẩm aerogel composite (hàng trên) được đúc thành dạng tấm chữ nhật; và silica aerogel (hàng trên, ảnh nhỏ) nguyên mẫu

Vật liệu tro bay aerogel composite có tính siêu nhẹ (0,026-0,062 g/cm3), độ rỗng (96,59-98,42%), mô-đun nén thấp (3,98-20,61 kPa), cách nhiệt tốt (0,034-0,039 W/mK), và hệ số hấp thụ âm thành từ 0,40 đến 1,0 trong khoảng tần số từ 1.400 đến 6.000Hz. Điều kiện phù hợp để tổng hợp FA aerogel composite cách nhiệt, cách âm là hàm lượng FA 1,0%KL và sợi rPET 2,0%KL. Tấm tro bay aerogel composite có tính chất cách nhiệt đồng đều ở mọi điểm trên tấm với độ dẫn nhiệt trung bình là 0,036W/mK.

Hướng đến sản xuất quy mô lớn

Để tổng hợp nên vật liệu FA aerogel composite, nhóm thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ đã tìm hiểu và xác định các hạt tro bay thô có đường kính hạt lớn với kích thước phân bố không đồng đều, có hiện tượng dính vào nhau và một số hạt không có dạng hình cầu, kích thước dao động từ 2,5-15 µm, tập trung nhiều nhất ở kích thước 2,5-5µm. Sau khi phân riêng bằng cyclone, các hạt tro bay có kích thước nhỏ hơn, nằm rời rạc và đa số có dạng hình cầu, phân bố kích thước hạt trong khoảng nhỏ hơn từ 0,5-2µm (nhỏ hơn tro bay thô 2,5 lần). Aerogel được tổng hợp trực tiếp từ tro bay (FA aerogel) có tính siêu nhẹ (0,072 – 0,093 g/cm3), độ rỗng cao (94,94 – 95,78%) và chịu nén tốt (67,73 – 254,75 kPa).

troxi2

Tổng hợp aerogel từ tro bay

So với silica aerogel từ tro bay được tổng hợp theo quy trình sol-gel truyền thống, silica aerogel từ tro bay aerogel (FA aerogel) tổng hợp theo quy trình mới được đề xuất trong nhiệm vụ có diện tích bề mặt (293,947 m2/g), thể tích lỗ rỗng (0,30-0,032 cm3/g) thấp hơn. Đó là vì các hạt vật chất được sử dụng để tổng hợp aerogel có kích thước ban đầu chỉ từ 0,5-2 mm, nên diện tích bề mặt của aerogel sẽ thấp. Đồng thời, để chống sa lắng các hạt tro bay và định hình khối vật liệu, các chất kết dính PVA và CMC được sử dụng. Điều này khiến cho thể tích lỗ xốp của vật liệu giảm vì mật độ các thành phần nguyên liệu trong khối vật liệu cao hơn so với silica aerogel. Ưu điểm ở tro bay aerogel sử dụng trực tiếp nguyên liệu tro bay so với silica aerogel chính là về độ bền cơ học và tính nguyên vẹn hình dạng của khối vật liệu xuyên suốt quá trình tổng hợp. Về tính chất vật lý và cơ tính, tro bay aerogel là vật liệu siêu nhẹ với độ rỗng lớn, có khả năng chịu nén tốt gấp 3 lần aerogel từ bã mía (88 kPa), gấp 1,5 lần silica-cellulose aerogel (169 kPa). Do đó, khối vật liệu tro bay aerogel có thể được sử dụng ngay mà không cần thêm quá trình trung gian phối trộn silica aerogel với các thành phần khác.

troxi2

 Thành phẩm tro bay aerogel composite

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ cho biết, “bí quyết” để tổng hợp vật liệu aerogel composite từ tro bay là sử dụng sợi nhựa PET tái chế (rPET). Sợi rPET có đường kính 30µm và chiều dài 64mm được trải trên khuôn, còn hỗn hợp tro bay và dung dịch xanthan gum được đổ vào khuôn và tạo thành hệ gel. Hỗn hợp tro bay/rPET/xanthan gum được gel hóa để hóa rắn toàn bộ chất lỏng (nước) và tiếp tục được sấy thăng hoa ở để tạo thành aerogel composite có cấu trúc rỗng xốp.

troxi3

 Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay và sợi rPET đến tính chất của FA aerogel composite

Do vậy, việc nghiên cứu, đánh giá và xây dựng quy trình sản xuất vật liệu aerogel từ tro bay, là nguồn nguyên liệu chính, kết hợp với các chất hóa học xanh nhằm tạo liên kết bền vững trong cấu trúc 3D của vật liệu bằng phương pháp hiệu quả nhưng chi phí vận hành thấp là một nhu cầu thực sự bức thiết. Với tình hình chất đống tro bay trong các bãi chứa của nhà máy nhiệt điện, kèm với sự ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước và không khí xung quanh, một quy trình chuyển đổi nguồn tro bay dồi dào thành vật liệu có giá trị kỹ thuật cao và có nhiều ứng dụng sẽ giải quyết được vấn đề nêu trên, mang lại lợi ích kinh tế rất lớn.

Quy trình tổng hợp hướng dẫn phương pháp chế tạo vật liệu tro bay aerogel composite siêu nhẹ, cách âm và cách nhiệt cũng được nhóm nghiên cứu trình bày chi tiết để hướng dẫn doanh nghiệp tiếp nhận chuyển giao công nghệ dễ dàng tổng hợp sản phẩm tro bay aerogel composite, nhanh chóng ứng dụng trong sản xuất ở quy mô công nghiệp. 

troxi4

 Sản xuất vật liệu aerogel composite ở quy mô pilot (quy mô sản xuất 15 tấm aerogel composite 1,8x1x0,02m)

Quy trình tổng hợp gồm 3 giai đoạn. Ở giai đoạn 1, khuấy trộn bột Xanthan gum với nước bằng máy khuấy đũa để thu được dung dịch XG. Tiếp theo, tro bay được phân tán vào dung dịch XG và khuấy đều để phân tán hạt tro bay vào dung dịch XG. Ở giai đoạn 2, hỗn hợp tro bay và XG được đổ vào khuôn chứa sợi rPET. Để tăng cường khả năng phân tán tro bay vào khung sợi có sẵn, toàn bộ hỗn hợp tro bay/rPET/XG được già hóa ở nhiệt độ phòng (25°C) trong 1 giờ trước khi sấy thăng hoa. Ở giai đoạn 3, hỗn hợp tro bay/rPET/XG được cấp đông ở -50oC trong 4 giờ để hóa rắn toàn bộ chất lỏng (nước) và tiếp tục được sấy thăng hoa trong 44 giờ tiếp theo để tạo thành aerogel composite có cấu trúc rỗng xốp. Nước thăng hoa được ngưng tụ và hoàn nguyên làm dung môi pha chế dung dịch XG.

troxi5

Hệ thống máy móc và dụng cụ phục vụ sản xuất

Với việc không sử dụng hóa chất độc hại, thay vào đó là các nguyên liệu có giá thành thấp như tro bay và sợi rPET, nhóm các chuyên gia tại Đại học Bách Khoa TP.HCM hy vọng quy trình tổng hợp được phát triển trong nhiệm vụ khoa học công nghệ vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu, và vật liệu tro bay aerogel composite là thành phẩm của nhiệm vụ nói trên có thể được các nhà khoa học trong nước tham khảo, tiếp tục tìm hiểu và mở rộng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác.

 

Từ hai loại dược liệu là dâm dương hoắc và mật nhân, nhóm tác giả công tác tại Bệnh viện Y học cổ truyền TPHCM đã bào chế thành công viên nén bao phim, có tác dụng tăng cường sinh dục nam, tạo ra sản phẩm mới chất lượng, thuận tiện cho người sử dụng, đồng thời nâng cao giá trị của những dược liệu trong nước.

Tạo sản phẩm chất lượng cao từ dược liệu quý

Dâm dương hoắc và Mật nhân là hai trong những dược liệu qua nghiên cứu cho thấy có hiệu quả tốt trong việc hỗ trợ và điều trị tình trạng suy giảm chức năng sinh dục ở nam giới. Trong đó, dâm dương hoắc có vị ngọt tính ôn, quy vào kinh can, thận, có tác dụng bổ thận, tráng dương, khu phong, trừ thấp, cường gân cốt. 

Mật nhân có tác dụng bồi bổ khí huyết, chủ trị khí huyết lưỡng hư, cơ thể yếu mệt, thiếu máu, ăn uống kém, khó tiêu, trường hợp sinh dục yếu, dương suy,… Các nghiên cứu khác cũng cho thấy các dược liệu này có tác dụng tăng hàm lượng testosteron, ức chế phosphodiesterase-5, cải thiện số lượng cũng như chất lượng tinh trùng. Đây là một trong những cơ chế quan trọng để điều trị chứng suy giảm chức năng sinh dụng ở nam giới. 

Theo các nghiên cứu y khoa trước đó, Icariin và epimedin C là những hoạt chất sinh học chính có trong dâm dương hoắc với nhiều tác dụng quý như tăng testosteron, bảo vệ thần kinh, điều trị loãng xương. Mật nhân có thành phần hóa học đặc trưng là quassinoid, trong đó nổi bật với hợp chất eurycomanon với tác dụng tăng tổng hợp testosteron ở tế bào Leydig. 


matnhan

Các bộ phận của cây Mật nhân

Dược sỹ chuyên khoa 2 Nguyễn Phương Nam (công tác tại Bệnh viện y học cổ truyền), là chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học công nghệ “Nghiên cứu bào chế viên nén bao phim từ cao chiết Dâm dương hoắc (Extractum Herba Epimedii) và cao chiết Mật nhân (Herba Radix Eurycomae longifoliae) có tác dụng tăng cường sinh dục nam” được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu trong năm 2021, cho biết việc phối hợp giữa hai dược liệu Dâm dương hoắc và Mật nhân trong điều trị suy giảm chức năng sinh dục nam đã được các y bác sỹ tại Bệnh viện y học cổ truyền TP.HCM sử dụng từ lâu và cho hiệu quả điều trị tốt. 

damhoacduong

Cây Dâm dương hoắc

Từ hai dược liệu ban đầu là Dâm dương hoắc và Mật nhân, nhóm tác giả đã chiết xuất hai loại cao tương ứng, đồng thời phân lập được 3 hợp chất EUR (241 mg), EPI (304 mg), ICA (235 mg) lần lượt được xác định cấu trúc là eurycomanone, epimedin C và icariin. 

"Các hợp chất eurycomanone, epimedin C và icariin phân lập được có độ tinh khiết lớn hơn 95% và hàm lượng lần lượt là 96,9%, 90,3%, 97,2 % tính trên nguyên trạng. Cao có dạng bột mịn, đồng nhất, màu nâu, với mùi dược liệu, dễ hút ẩm", báo cáo nghiệm thu nêu rõ. 

Đại diện nhóm nghiên cứu cũng khẳng định, thử nghiệm trên chuột nhắt cho thấy, cao Dâm dương hoắc và Mật nhân không thể hiện độc tính cấp đường uống trên chuột nhắt ở liều 16g cao/kg. Ngoài ra, trên chuột nhắt đực trước đó được gây suy sinh dục nam bằng cách cắt bỏ tinh hoàn và phối hợp sử dụng hai loại cao trên, kết quả ghi nhận cho thấy đã làm tăng hàm lượng testosteron và trọng lượng tương đối của túi tinh - tuyến tiền liệt sau 2 tuần điều trị tương tự testosteron 2 mg/kg.

caomndhd

Cao Mật nhân (trái) và cao chiết Dâm dương hoắc

Để cân bằng giữa hiệu quả tác động hướng sinh dục nam, tính an toàn của sản phẩm và khả năng tiết kiệm về mặt kinh tế, nhóm đã chọn tỷ lệ phối hợp khối lượng cao Dâm dương hoắc và cao Mật nhân là 8-1 để phát triển sản phẩm viên nén bao phim Dâm dương hoắc - Mật nhân (MD). Đồng thời, nhóm cũng đã xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho viên nén bao phim MD. 

Viên nén MD cũng được thử độc tính cấp đường uống trên chuột nhắt, cho thấy sản phẩm không thể hiện độc tính cấp đường uống và không gây chết chuột nhắt thử nghiệm với liều tối đa cho uống được qua kim (Dmax) là 50 g/kg. Thử nghiệm tác dụng hướng sinh dục nam của viên nén MD trên chuột nhắt đực gây suy sinh dục bằng cách cho uống natri valproat 500 mg/kg trong 5 tuần liên tiếp với liều cho uống 300 mg/kg và 600 mg/kg. Kết quả, viên nén MD liều 300 mg/kg thể hiện tác dụng hướng sinh dục nam sau 2 tuần điều trị, giúp tăng nồng độ protein huyết tương, testosteron huyết tương, tỷ lệ tinh trùng di động và mật độ tinh trùng của chuột thử nghiệm tương tự testosteron 2 mg/kg.

Về mặt cảm quan, viên bao phim có lớp bao đạt về hình thức viên trơn, láng, màu sắc viên đồng nhất, hoàn toàn che đi màu sắc ban đầu của viên nhân. Viên nhân sau hút ẩm có màu sậm hơn so với ban đầu, viên bao phim không thay đổi đáng kể về màu sắc, với hạn sử dụng 18 tháng.

Sẵn sàng chuyển giao kết quả nghiên cứu 

Suy giảm chức năng sinh dục nam là một trong những căn bệnh khá phổ biên về nội tiết ở nam giới, đặc biệt ở người cao tuổi. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh tăng mạnh theo độ tuổi, tuy nhiên hiện nay đang trở thành một căn bệnh của thời đại và ngày càng trẻ hóa. Vì vậy, nhu cầu cũng như thị trường cho sản phẩm này là rất lớn. Trong khi đó, các thuốc tây y điều trị bệnh này chỉ mang tính tức thời, chứ không trị căn nguyên mà còn thường kèm theo nhiều tác dụng phụ. Do vậy, người tiêu dùng thường tìm đến các sản phẩm từ dược liệu bởi độ an toàn khi sử dụng lâu dài. 

Dược sỹ Nguyễn Phương Nam cho biết, hiện Bệnh viện Y học cổ truyền TP.HCM đang sử dụng hai dược liệu Dâm dương hoắc và Mật nhân trong việc điều trị bệnh suy giảm chức năng sinh dục nam. Tuy nhiên, đơn vị này vẫn đang dùng dưới dạng thuốc sắc, và điều này gây nhiều bất tiện cho việc sử dụng cũng như tuân thủ điều trị của người bệnh. 

"Trong khi đó, viên nén bao phim là một dạng bào chế khá phổ biến và thuận tiện cho sử dụng đặc biệt cho các chế phẩm từ dược liệu", dược sỹ Nguyễn Phương Nam cho biết thêm, "Dạng bào chế này với ưu điểm là có khả năng chống hút ẩm tốt cho các viên từ cao với lớp màng phim bên ngoài. Bên cạnh đó, đơn vị sản xuất có thể chủ động trong việc lựa chọn và điều chỉnh màu sắc của viên thông qua lớp màng bao từ đó dễ dàng tạo được nét đặc trưng riêng cho từng sản phẩm.". 

viennenmn

Viên nhân (trái) và các viên nén bao phim MD

Vẫn theo lời dược sỹ Nguyễn Phương Nam và nhóm nghiên cứu, viên nén bao phim từ cao chiết Dâm dương hoắc và cao chiết Mật nhân là sản phẩm là kết hợp giữa kinh nghiệm thực tiễn điều trị và y học hiện đại. Sản phẩm của đề tài có đầy đủ quy trình sản xuất, tiêu chuẩn, hiệu quả và cơ sở khoa học cần thiết. Đây là điểm mạnh vượt trội so với hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước hiện nay. Đồng thời, so với các sản phẩm có chất lượng tương tự từ nước ngoài, thì MD có giá thành rẻ hơn rất nhiều do được sản xuất trong nước. Ngoài ra, đề tài xây dựng các quy trình chiết xuất cao, sản xuất dựa trên các dung môi thân thiện với môi trường và hệ thống trang thiết bị phù hợp với điều kiện xử lý trong nước. Vì vây, quá trình sản xuất sản phẩm đảm bảo được tính phổ biến, an toàn cũng như không gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. 

"Với nguồn dược liệu sẵn có trong nước, việc tạo ra sản phẩm viên nén MD chất lượng cao, thuận tiện cho người sử dụng, cùng với quy trình phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước, kết quả nghiên cứu có thể chuyển giao ngay cho các công ty sản xuất để đăng ký và sản xuất dược phẩm bảo vệ sức khỏe", đại diện nhóm nghiên cứu khẳng định.

Thông tin liên hệ:

Bệnh viện Y học cổ truyền

Địa chỉ: 179-187 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TPHCM

Điện thoại: 028 39326579 - 028 39326004 

Email: phnam1966@yahoo.com.vn - Website: www.yhct.vn

Giải pháp do thạc sỹ Cao Xuân Vũ và nhóm cộng sự tại Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM triển khai thành công không chỉ giúp rút ngắn thời gian hoàn thiện sản phẩm in offset trên các loại vật liệu không thấm hút, mà còn giúp doanh nghiệp giảm đến 1/5 chi phí đầu tư so với khi sử dụng giải pháp tương tự nhập ngoại.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, ngành in ấn nói chung và in bao bì, tài liệu quảng cáo nói riêng cũng đang bước vào giai đoạn phải liên tục cải thiện chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng. Tuy nhiên, hiện đa số công ty gia công in đều sử dụng loại mực in tự khô, cần khoảng 5-6 giờ để khô mực; và điều này khiến thời gian hoàn thành đơn hàng chậm, thậm chí không kịp đáp ứng tiến độ với các đơn hàng khẩn cấp. 

Để giải quyết nút thắt này, thời gian qua, phương pháp làm khô mực in sử dụng tia cực tím UV đã được nhiều đơn vị in ấn sử dụng, bởi có nhiều ưu điểm hơn hẳn các phương pháp còn lại.

ledmh

(Ảnh minh họa)

"Một trong những yêu cầu từ doanh nghiệp sản xuất là nguồn nguyên vật liệu phải phong phú và đa dạng để không bị động trong kế hoạch sản xuất. Vì vậy đa số các doanh nghiệp sản xuất in bao bì trên vật liệu không thấm hút đều chọn phương pháp làm khô mực in bằng tia cực tím UV vì phù hợp với quy mô sản xuất tại Việt Nam", thạc sỹ Cao Xuân Vũ, chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ "Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo hệ thống UV LED làm khô mực in trong ngành in bao bì" thông tin.

Một số doanh nghiệp in có vốn đầu tư lớn đã mạnh dạn đầu tư hệ thống làm khô mực in bằng đèn phóng điện tia cực tím UV, tuy nhiên phương pháp này vẫn ghi nhận vài hạn chế, chẳng hạn phát sinh ra lượng nhiệt quá lớn làm ảnh hưởng tính chất bề mặt vật liệu in (nhãn decal bị hỏng lớp keo..), tiêu hao năng lượng điện lớn, phát sinh ra lượng lớn khí ozone vốn ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động. 

Trong khi đó, hệ thống UV LED có rất nhiều ưu điểm và là công nghệ của tương lai, công nghệ xanh - thân thiện với môi trường. Hay nói cách khác, ứng dụng công nghệ UV LED trong quá trình làm khô mực in là một yêu cầu bắt buộc đối với các công ty sản xuất in, vừa tiết kiệm năng lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm in, tăng năng suất vừa an toàn với môi trường và người lao động. Đây là định hướng phát triển của tất cả các ngành công nghiệp là thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng.

Cũng theo lời thạc sỹ Cao Xuân Vũ, thì UV LED một trong những công nghệ mới được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực trong đó có ngành in ấn và bao bì, chủ yếu được ứng dụng trong các sản phẩm in đặc biệt là sản phẩm giấy không thấm hút như những màng nhựa hay màng metalized hoặc là những giấy mỹ thuật, giấy cao cấp độ thấm hút thấp. Đáng chú ý, so với công nghệ làm khô bằng đèn UV truyền thống, thì công nghệ UV LED giúp tiết kiệm đến 80% năng lượng tiêu thụ điện.

Sau 18 tháng nghiêm túc nghiên cứu, nhóm thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM đã hoàn thiện và láp ráp hoàn chỉnh, đưa vào vận hành thử nghiệm giải pháp UV LED với các thông số ban đầu được tính toán cho khổ máy in offset tờ rời 52x72cm. Cụ thể, đó là cụm đèn sấy sử dụng chip UV LED (của hãng Nichia, Nhật Bản) bao gồm 286 chip LED (tương ứng 3x96 chip LED). Cụm mô-đun UV LED được thiết kế gồm 3 hàng 4 cột để thuận lợi cho bảo trì bảo dưỡng; và được giải nhiệt bằng hệ thống làm mát sử dụng chất lỏng tuần hoàn.

ledht

Cụm đèn sấy UV LED hoàn thiện được trang bị và vận hành thực tế trên máy in offset 5 màu tại công ty Trúc My

Kết quả của nhiệm vụ là hệ thống UV LED làm khô mực in trên các vật liệu in không thấm hút như nhựa, decal PVC, giấy ghép màng metalized…. Trọn bộ giải pháp gồm cụm đèn sấy, và cụm điều khiển, giám sát hoạt động và đồng bộ với máy in offset nhiều màu; và tủ điều khiển gồm bo mạch và màn hình cảm ứng HMI (9 inch) tích hợp.

lednhom

Các mô-đun UV LED được gia công lên khối nhôm

Hệ thống UV LED hoàn thiện được triển khai thử nghiệm tại công ty in Trúc My (quận Tân Phú, TP.HCM) cho kết quả vượt trội, đáp ứng tốc độ làm khô từ 6.400 -7.200 tờ/giờ đối với các vật liệu không thấm hút như nhựa, metalized, decal. Chất lượng sản phẩm in đạt yêu cầu về độ khô và có thể chuyển sang công đoạn thành phẩm ngay sau khi in giúp doanh nghiệp có thể giao hàng nhanh chóng.

Theo nhận xét khách quan của một số chuyên gia trong ngành in và kể cả các cơ sở, công ty trong lĩnh vực in ấn thì tốc độ làm khô 7.200 tờ/giờ là con số ấn tượng, có thể sánh ngang với các giải pháp hiện đại nhập khẩu từ Đức, Mỹ.

Về cơ bản, hệ thống UV LED làm khô mực in do nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ hoàn thiện và được nghiệm thu gồm 2 đơn vị có thông số kỹ thuật, như sau: Bước sóng 396nm; Giải nhiệt nước lạnh; Công suất quang 18W; và Tốc độ khô 7.200-7.300 tờ/giờ và vùng làm khô tối đa 720mm (tức 72cm).

Là một phần trong kết quả nghiên cứu, nhóm cũng xây dựng các tiêu chuẩn kiểm soát vật liệu in và kiểm soát chất lượng sản phẩm in.

led2a

Phương án bố trí UV LED và kiểm soát bức xạ UV

Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, từ yêu cầu thiết kế bộ nguồn cấp cho chip UV LED là đơn vị nguồn cung cấp được thiết kế nhỏ gọn, khởi động thông minh, dễ dàng mở rộng nên hệ thống UV LED hoàn thiện được triển khai theo phương châm tự động đồng bộ theo chế độ hoạt động của máy in offset tờ rời 5 màu.

Với đặc điểm tắt mở không cần thời gian chờ như đèn UV truyền thống, hệ thống UV LED đảm bảo năng lượng UV ngay sau khi được cấp nguồn. Do đó, nhóm nghiên cứu quyết định chọn tín hiệu "ép in" là tín hiệu đồng bộ khởi động đèn UV LED. Để đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động của máy in, nhóm nghiên cứu sử dụng 1 rơ le phụ để copy tín hiệu ép in của máy in offset. Ngoài ra, với đặc điểm bàn ra giấy cách xa đơn vị cuối cùng nên đối với tín hiệu "tắt đèn" thì nhóm nghiên cứu từ thực nghiệm cho kết quả thời gian trễ từ lúc ngưng ép in đến lúc đèn UV LED tắt hoàn toàn tùy thuộc vào tốc độ đang vận hành máy in.

ledtquan

Tổng quan mô hình hoạt động của hệ thống đèn sấy UV LED

Đa số sản phẩm ứng dụng công nghệ làm khô UV LED đều là các dòng sản phẩm bao bì cao cấp. Nếu các lỗi như không khô mực xảy ra sẽ gây thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp. Vì vậy, việc đo bức xạ UV của đèn UV LED để đảm bảo quá trình khô mực phù hợp với nhiều loại vật liệu khác nhau và phát hiện lỗi cụm đèn sớm nhất là một vấn đề rất quan trọng. Nhóm nghiên cứu đã thiết kế mô-đun đo bức xạ UV LED và tính toán xử lý để điều khiển và cảnh báo mức bức xạ UV.

Ở mức hoàn thiện, báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức trong năm 2021, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết hệ thống UV LED làm khô mực in được thiết kế và chế tạo có nguyên tắc hoạt động: hệ thống có cấu tạo gồm 2 cụm đèn đặt ở đơn vị in số 1 và đơn vị in số 5 của máy in offset tờ rời khổ 52x72cm. Tín hiệu điều khiển đèn UV LED có 2 cách: có thể điều khiển bằng tay thao tác trên màn hình HMI hoặc tự động theo tín hiệu ép in của máy in offset. Ngoài ra, năng lượng bức xạ UV được đo bởi cảm biến VEML6075 và dòng điện đầu ra của bộ nguồn cũng được đo để kiểm soát năng lượng bức xạ của cụm UV LED. Điều này giúp tránh được các lỗi ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm in.

Leduv

Vị trí bố trí 2 cụm đèn sấy UV LED được nhóm nghiên cứu đề xuất

Nhận định về hiệu quả kinh tế, thạc sỹ Cao Xuân Vũ khẳng định, so với hệ thống UV LED làm khô mực in lắp đặt cho máy in 5 màu của Mỹ hiện có giá tham khảo khoảng 5 tỷ đồng (bao gồm thiết bị, chi phí lắp đặt, chi phí chuyên gia chuyển giao công nghệ), thì kết quả nhiệm vụ sau khi hoàn thiện có giá dao động khoảng 1 tỷ đồng. Do đó, nhóm nghiên cứu dự kiến kết hợp với Hiệp hội in Việt Nam và Hội in TP.HCM để giới thiệu công nghệ UV LED này đến các nhà in cũng như thương mại hóa sản phẩm.

Có thể khẳng định rằng, tại Việt Nam, mặc dù còn gặp khó khăn trong việc triển khai ứng dụng UV LED do giá thành vẫn còn ở mức cao so với mặt bằng chung, tuy nhiên ngành in ấn Việt Nam không thể phủ nhận những lợi ích và những ưu điểm vượt trội mà UV LED, mang lại, đặc biệt ở tiêu chí thân thiện với môi trường trong khi vẫn đảm bảo khả năng nâng cao năng suất - chất lượng cho sản phẩm in ấn. 

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM

Địa chỉ: 01 Võ Văn Ngân, P. Linh Chiểu, TP. Thủ Đức, TPHCM.

Số điện thoại:  0909043689 - Email: xuanvu.cao@gmail.com

Các sản phẩm tận dụng vật liệu phế thải nên giảm được chi phí sản xuất, giảm ảnh hưởng xấu đến môi trường, nhưng vẫn mang tính mới về công nghệ, đáp ứng các tiêu chí khắt khe hơn trong điều kiện kỹ thuật khắc nghiệt. 

Trong 10 năm trở lại đây, với nhiều ưu điểm như có độ bền cơ học cao, dễ thi công, chịu ăn mòn tốt… nên ống gân xoắn HDPE (polyetylen tỷ trọng cao) được thị trường ưa chuộng hơn ống thép, ống PVC, đã được ứng dụng trong xây dựng hạ tầng hệ thống truyền tải điện lực, viễn thông và các hệ thống thoát nước, phân phối khí. Tuy nhiên, tác động của thời tiết, khí hậu nhiệt đới, nhựa HDPE thông thường dễ bị phân hủy quang-nhiệt-ẩm dẫn tới sự suy giảm nhanh và rõ rệt tới chất lượng sản phẩm. Một hạn chế nữa là nhựa HDPE có nhiệt độ bắt cháy tương đối thấp nên dễ bắt cháy, làm ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng trong một số lĩnh vực đòi hỏi điều kiện kỹ thuật khắc nghiệt. Thực trạng này chính là cơ hội để các nhà khoa học phối hợp với doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu, phát triển các dòng sản phẩm ống gân xoắn HDPE chất lượng cao, có tính năng ưu việt hơn như khả năng chống bắt cháy tốt hơn, bền hơn khi để ở điều kiện ngoài trời.

Dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường đối với sản phẩm ống gân xoắn, nhóm nghiên cứu tại Viện Kỹ thuật nhiệt đới (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã phối hợp cùng một số doanh nghiệp triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu, chế tạo vật liệu tổ hợp HDPE/EVA/gypsum biến tính ứng dụng chế tạo ống gân xoắn chất lượng cao chống cháy, bền thời tiết phục vụ ngành điện lực và viễn thông”. Từ nguồn vật liệu tổ hợp HDPE/EVA/gypsum biến tính và một số phụ gia, nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công các loại ống gân xoắn chất lượng cao, có khả năng chống cháy, bền thời tiết đáp ứng chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 7997:2009.

HDPE1

Sản phẩm ống gân xoắn

Sản phẩm ống gân xoắn chống cháy có đường kính 25/32 mm và đường kính 55/65 mm, được sản xuất bằng thành phần nguyên liệu chủ yếu gồm hạt chất chủ HDPE/EVA/gypsum/phụ gia chống cháy và hạt HDPE. Ống có tỷ lệ khối lượng 0,18-0,32 kg/m, thời gian tắt cháy dưới 15-17 giây, độ bền nén 2,89%, độ bền kéo đứt là 22,4-22,67MPa, độ ngấm nước trong 24 giờ là 0,15%.

HDPE2

Thử khả năng chống cháy của sản phẩm ống gân xoắn HDPE/EVA/gypsum chống cháy theo tiêu chuẩn TCVN 7997:2009.

Sản phẩm ống gân xoắn bền thời tiết có đường kính 55/65 mm được sản xuất bằng thành phần nguyên liệu chủ yếu gồm hạt chất chủ HDPE/EVA/gypsum/phụ gia bền thời tiết và hạt HDPE. Sau thử nghiệm gia tốc thời tiết (được tiến hành theo tiêu chuẩn ASTM G154 trong điều kiện 8 giờ chiếu bức xạ tử ngoại ở 60oC và 4 giờ ngưng hơi ẩm ở 50oC là 1 chu kỳ; mẫu được phơi trong tủ thời tiết với thời gian tương đương với 56 chu kỳ), mẫu có độ bền cơ học và độ bền màu sắc vẫn đảm bảo, không có sự thay đổi đáng kể so với mẫu trước thử nghiệm.

HDPE3

Thử nghiệm sản phẩm ống gân xoắn HDPE/EVA/Gypsum trong tủ gia tốc thời tiết UV-CON

Điểm đặc biệt ở nhiệm vụ là các nhà khoa học đưa gypsum (thạch cao phế thải) vào thành phần vật liệu tổ hợp (HDPE/EVA/gypsum biến tính) chế tạo ống gân xoắn. Gypsum là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất phân lân, được nhóm nghiên cứu sử dụng làm chất độn, do có các tính năng nổi bật như khả năng chống cháy và bền thời tiết. Trong đó, để nâng cao hàm lượng độn sử dụng, gypsum được biến tính với natri dodecyl sulfat (SDS), hoặc etylen bis stearamide (EBS), để có khả năng tương tác với gypsum tốt hơn (so với axit stearic). Bên cạnh đó, để cải thiện độ bền va đập và độ dẻo dai của sản phẩm, EVA (nhựa copolyme etylen vinylaxetat) được sử dụng đóng vai trò làm chất tương hợp giữa các cấu phần của vật liệu.

PGS.TS. Nguyễn Vũ Giang (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết: “Gypsum có nhiều ưu điểm như độ bền nhiệt cao, khả năng chống cháy, chịu mài mòn và bền thời tiết nên được nghiên cứu và ứng dụng như một chất độn vô cơ thông thường để tăng tính cơ học, khả năng chống cháy cải thiện độ bền nhiệt của pha nền. So với các loại chất độn và các chất gia cường nhập ngoại, gypsum có nguồn gốc trong nước có giá thành thấp hơn, chỉ khoảng 50 – 75%, góp phần tiết kiệm chi phí sản xuất và giảm tỷ lệ nhập khẩu nguyên vật liệu. Việc nghiên cứu xử lý gypsum phế thải thành các sản phẩm chất độn cho nhựa nhiệt dẻo còn mang tính bảo vệ môi trường cao.”.

HDPE4

Sơ đồ công nghệ chế tạo ống gân xoắn có sử dụng phụ gia chống cháy và bền thời tiết

Về hiệu quả kinh tế, chi phí sản xuất 2 sản phẩm ống gân xoắn chống cháy và bền thời tiết thấp hơn ống truyền thống từ 1-2 triệu đồng/1.000 mét ống. Đó là nhờ sử dụng gypsum nên hạ được chi phí sản xuất trong khi vẫn đảm bảo cải thiện tính chất cơ học, khả năng chống cháy, bền thời tiết. Các sản phẩm cũng mang tính mới, đáp ứng các tiêu chí cao hơn trong lĩnh vực kỹ thuật và đời sống, gia tăng mạnh tính cạnh tranh và làm phong phú thị trường. 

HDPE5

Phơi thử nghiệm sản phẩm ống gân xoắn HDPE/EVA/gypsum bền thời tiết tại trạm thử nghiệm Hạ Long

Về mặt môi trường, việc xử lý và biến tính gypsum mở ra hướng mới trong việc ứng dụng sản phẩm này trong lĩnh vực nhựa compozit. Theo đó, sẽ góp phần làm giảm lượng rác thải công nghiệp cũng như diện tích bãi chứa gypsum phế thải, giảm ô nhiễm không khí, nguồn nước ở các khu vực xung quanh. Mặt khác, lượng gypsum nếu được biến tính tăng tương hợp tham gia vào thành phần các loại nhựa và cao su compozit từ vài phần trăm đến vài chục phần trăm khối lượng cũng sẽ góp phần làm giảm đáng kể giá thành sản xuất các sản phẩm nhựa compozit, đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho doanh nghiệp. 

Theo PGS.TS. Nguyễn Vũ Giang, quy trình tạo gypsum biến tính mà nhóm nghiên cứu đã xây dựng có công suất dự kiến vào khoảng 2.500 tấn/năm. Nhóm cũng xây dựng thành công quy trình sản xuất ống gân xoắn chống cháy và ống gân xoắn bền thời tiết từ vật liệu tổ hợp HDPE/EVA/gypsum biến tính đáp ứng tiêu chuẩn TCVN 7997:2009, sản xuất được 525 mét ống mỗi loại. Việc xử lý và biến tính gypsum còn có khả năng mở rộng, ứng dụng để làm chất độn cho nhiều sản phẩm khác nhau như: xi măng, bê tông, gạch không nung… 

Từ kết quả của nhiệm vụ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho 2 giải pháp hữu ích là “Phương pháp sản xuất vật liệu nhựa compozit HDPE/EVA chống cháy và vật liệu thu được từ phương pháp này” và “Vật liệu compozit bền thời tiết chứa hỗn hợp nhựa nhiệt dẻo và thạch cao phế thải biến tính”. Được biết, doanh nghiệp tham gia phối hợp thực hiện triển khai nhiệm vụ cùng Viện Kỹ thuật nhiệt đới cũng rất muốn sớm được nhận chuyển giao công nghệ để tiến hành sản xuất, chế tạo các sản phẩm ống nhựa gân xoắn mới. 

Có thể thấy rằng, nếu được tiếp tục mở rộng quy mô ứng dụng và hoàn thiện công nghệ chế tạo các sản phẩm kỹ thuật từ vật liệu compozit HDPE/EVA/gypsum trong năm tiếp theo, thành quả nghiên cứu từ nhiệm vụ sẽ góp phần rất lớn trong việc thúc đẩy và nâng cao giá trị các sản phẩm hàng hóa sản xuất trong nước, đồng thời khẳng định vai trò của nghiên cứu khoa học trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. 

Thông tin liên hệ:
Viện Kỹ thuật nhiệt đới
Địa chỉ: Nhà A12-A13, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 

Website: https://itt.vast.vn/


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537378