SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chiều ngày 27/9/2023 tại Saigon Innovation Hub (Sihub) đã diễn ra sự kiện kết nối sáng tạo tháng 9 với chủ đề “Các giải pháp ứng dụng GIS trong quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng” thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công (Inno-Coffee) nhằm kết nối chia sẻ khó khăn trong khu vực công và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, startup đưa ra những sáng kiến giải quyết vấn đề đóng góp cho sự phát triển của Thành phố.

2892023HT1.jpg

Sự kiện đã thu hút được hơn 50 đại biểu là đại diện các Trường, tổ chức Khoa học và Công nghệ, các nhà khoa học, Lãnh đạo các phòng chức năng, đơn vị của Sở cùng đại diện các doanh nghiệp, Startup... tham dự

Theo bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, TP.HCM là đô thị lớn của cả nước, có diện tích tự nhiên là 2.095 km2, dân số khoảng 10 triệu người, được chia thành 22 quận huyện và TP Thủ Đức. Với vai trò đầu tàu trong đa giác chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và là Thành phố đông dân nhất cả nước (chiếm tỷ lệ 9,35%), Thành phố có tốc độ đô thị hoá nhanh, đang phải đối mặt với nhiều thách thức, bấp cập trong quản lý cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng.

"Do đó, hệ thống thông tin địa lý (GIS), viễn thám ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạch định các chính sách, chiến lược của một vùng lãnh thổ, hỗ trợ quản lý nhà nước trong rất nhiều lĩnh vực. Có thể nói đó là những công cụ không thể thiếu đối với một đô thị thông minh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát sự phát triển đô thị, kinh tế, xã hội", bà Nguyễn Thị Thu Sương nhận định.

Hiện nay, các đơn vị quản lý nhà nước trên địa bàn TP.HCM đã từng bước ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, cụ thể:

Sở Tài nguyên và Môi trường triển khai: “Chương trình xây dựng Hệ thống thông tin quản lý ngành tài nguyên và môi trường TP.HCM giai đoạn 2014-2020” theo quyết định số 1869/QĐ-UBND ngày 17/4/2014 của UBND Thành phố. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh. Đồng thời, xây dựng nền tảng dữ liệu đất đai trực tuyến gồm Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường TP.HCM https://geodata-stnmt.tphcm.gov.vn/và Hệ thống trục tích hợp các dịch vụ web ngành tài nguyên môi trường https://esb-stnmt.tphcm.gov.vn/, các nền tảng này hỗ trợ người dân, doanh nghiệp có thể xem dữ liệu phân khu, diện tích, quy hoạch, kế hoạch, mục đích sử dụng đất... toàn Thành phố trực tuyến.

Sở Xây dựng triển khai: “Chương trình xây dựng Hệ thống thông tin Quản lý xây dựng TP.HCM giai đoạn 2014-2020”  theo quyết định số 3845/QĐ-UBND ngày 08/8/2014 của UBND Thành phố. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh.

Sở Quy hoạch - Kiến trúc triển khai: Dự án “Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong công tác công bố, công khai thông tin quy hoạch” https://thongtinquyhoach.hochiminhcity.gov.vn/, nhằm hỗ trợ người dân, tổ chức tra cứu thông tin quy hoạch trực tuyến. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh.

Uỷ ban nhân dân các quận huyện và TP Thủ Đức ứng dụng GIS trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường, xây dựng, cung cấp thông tin quy hoạch.

Các hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành tại Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây dựng đã mang lại hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước của các Sở ban ngành, quận huyện và TP Thủ Đức. Từ thực tiễn cho thấy 3 lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng có sự quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi sự kết nối và chia sẻ thông tin liên tục giữa Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây dựng và Ủy ban nhân dân 22 quận huyện và TP Thủ Đức.

2892023HT.jpg

Bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM trình bày bài toán “đặt hàng”

Tuy nhiên, cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Sương, hiện nay các cơ sở dữ liệu và hệ thống quản lý chuyên ngành về quản lý đất đai ở Sở Tài nguyên và Môi trường), quy hoạch ở Sở Quy hoạch - Kiến trúc và xây dựng ở Sở Xây dựng chưa có sự liên thông, chia sẻ thông tin, dữ liệu một cách đồng bộ, thống nhất; chưa có các công cụ trực quan hóa, thống kê số liệu, tạo các báo cao nhanh phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng. Việc này gây không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các Sở ban ngành, quận huyện.

Do đó, căn cứ Kế hoạch số 752/KH-SKHCN của Sở Khoa học và Công nghệ ngày 24/3/2022 về Công tác quản lý nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ năm 2022. Cũng như, căn cứ Quyết định số 3030/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/8/ 2020 về “Phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố”, nhằm: Liên thông, đồng bộ, thống nhất các dữ liệu, ứng dụng quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng, tạo thuận lợi cho công tác quản lý đô thị của các sở ngành, quận huyện; Cung cấp thông tin trực quan, kịp thời cho lãnh đạo Thành phố, các Sở ban ngành, quận huyện về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, điều hành, ra quyết định; Công khai thông tin về đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố cho người dân, doanh nghiệp theo quy định.

Xuất phát từ thực tế nói trên trong công tác quản lý đô thị của Thành phố, đặc biệt là các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng. Đồng thời, thực hiện mục tiêu xây dựng Thành phố thành đô thị thông minh, đổi mới sáng tạo, Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao cho Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Ủy ban nhân dân các quận huyện nghiên cứu “Xây dựng các công cụ trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng”.

Mục tiêu tổng quát là nghiên cứu, xây dựng nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn TP.HCM. Cũng như, cung cấp các công cụ phân tích, thống kê và tra cứu các số liệu báo cáo nhanh về các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, hỗ trợ các cấp lãnh đạo đưa ra các hoạch định chính xác, hợp lý hỗ trợ tốt hơn cho công tác quản lý, quy hoạch, kịp thời phát hiện các sai phạm đối với các lĩnh vực đất đai, quy hoạch, xây dựng. Đồng thời, chia sẻ các thông tin về dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng cho người dân và các tổ chức cần tra cứu góp phần phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn Thành phố.

Mục tiêu cụ thể là nghiên cứu, xây dựng nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng nhằm hỗ trợ việc phân tích, thống kê, trình diễn dữ liệu (không gian và thuộc tính). Cũng như, chia sẻ thông tin phục vụ lãnh đạo Thành phố, các Sở ban ngành, quận huyện và người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triển khai vận hành thí điểm nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Nội dung chủ yếu là đề án Ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố gồm 06 nội dung như sau: (1) Xây dựng kiến trúc tổng thể, chi tiết hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng; (2) Rà soát, bổ sung, cập nhật cơ sở dữ liệu, xây dựng ứng dụng quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng; (3) Tích hợp, liên thông cơ sở dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng; (4) Xây dựng các công cụ trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng; (5) Xây dựng quy chế vận hành, liên thông dữ liệu, cập nhật; (6) Khai thác dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Sản phẩm cần đạt là nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu. Cộng với đó là, kết quả vận hành thí điểm nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu cũng như liên thông, tích hợp dữ liệu từ nền tảng tích hợp dữ liệu trong lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Dự kiến kết quả đạt được, đối với lĩnh vực Khoa học và Công nghệ có liên quan là nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng, đóng góp vào sự phát triển của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, phục vụ công tác hỗ trợ chuyển đổi số của Thành phố. Đối với kinh tế - xã hội và môi trường là hệ thống cũng cho phép chia sẻ dữ liệu, thông tin tới cộng đồng, người dân, tổ chức những thông tin về dữ liệu đất đai, quy hoạch, xây dựng trên địa bàn TP.HCM.

Được biết, sự kiện kết nối sáng tạo tháng 9 với chủ đề “Các giải pháp ứng dụng GIS trong quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng” là một sự kiện thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công (Inno-Coffee) nhằm kết nối chia sẻ khó khăn trong khu vực công và tạo điều kiện các doanh nghiệp, startup đưa ra những sáng kiến giải quyết vấn đề đóng góp cho sự phát triển của Thành phố, do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chủ trì tổ chức. 

Nhật Linh (CESTI)

Các nhà khoa học TP.HCM vừa hoàn thiện quy trình tổng hợp và chế tạo một loại vật liệu có khả năng hấp thụ đáng kể không khí chứa các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi và vi sinh, phù hợp để ứng dụng nhanh trong ngành y tế và một số lĩnh vực cần tức thời lọc không khí và kháng khuẩn trong môi trường.

Phòng khám nha khoa là những khu vực tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm cao do sự hiện diện của một lượng lớn các sol khí (aerosol) chứa các vi sinh vật sống (còn được gọi là sol khí sinh học  bioaerosol) được phát tán từ các khoang miệng của bệnh nhân đang được điều trị nha khoa.

Các báo cáo cho thấy mật độ của các hạt sol khí và giọt chất lỏng (giọt nước lỏng) bắn tung tóe là cao nhất trong một số công đoạn điều trị nha khoa như công đoạn cạo vôi răng hoặc công đoạn khoan trám răng. Những vi sinh vật sống được tìm thấy rất phổ biến trong phòng khám nha khoa là trực khuẩn mủ xanh, khuẩn tụ cầu vàng; và chúng là thủ phạm gây nhiễm khuẩn các cơ sở y tế và có khả năng gây tử vong cao.

Bên cạnh đó các vật tư tiêu hao, vật tư sát khuẩn nhanh thường phát thải một lượng các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) nhất định như ethanol, formaldehyde. Tuy nhiên, việc làm sạch không khí trong phòng khám và điều trị nha khoa ở TP.HCM chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các sol khí và VOCs phát tán ra môi trường ngoài phòng khám thông qua hệ thống thông gió. Việc xử lý tại chỗ các nguồn ô nhiễm này cần được quan tâm đúng mức khi mật đô dân cư thành phố cùng với vấn đề ô nhiễm không khí đang ở mức báo động.

Từ thực tế này, các nhà khoa học tại Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Chế tạo màng lọc đa chức năng ứng dụng làm sạch không khí chứa VOCs và vi sinh".

H-1-ghep.jpg

GS.TSKH. Lưu Cẩm Lộc - Chủ tịch Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ thị phạm sản phẩm của nghiên cứu

TS. Trần Thụy Tuyết Mai - chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết, nhóm đã thiết kết vật liệu co-doping Ag và Ni trên nền cryptomelane có khả năng oxy hóa hoàn toàn formaldehyde (~57% HCHO đã được xử lý) ở nhiệt độ phòng 30 độ C, độ ẩm 62 %. Hơn nữa vật liệu Ag/Ni-OMS-2 còn có khả năng kháng trực khuẩn mủ xanh và khuẩn tụ cầu vàng với đường kính vòng ức chế sự phát triển của vi khuẩn đạt 13 mm khi nồng độ Ag/Ni-OMS-2 phân tán 2g/L.

H-2.jpg

TS. Trần Thụy Tuyết Mai tại buổi báo cáo nghiệm thu nhiệm vụ

Những kết quả đạt được cho thấy Ag/Ni-OMS-2 là vật liệu tiềm năng cho màng lọc đa chức năng ứng dụng làm sạch không khí chứa VOCs và vi sinh. Trên cơ sở vật liệu Ag/Ni-OMS-2,  TS. Trần Thụy Tuyết Mai và cộng sự đã biến tính vật liệu cryptomelane với graphite bằng phương pháp đồng kết tủa. Kết quả vật liệu sau biến tính (Ng4) chứa 44,44% Mn; 1,62% K; 6,55% Ag; 0,05% Ni (% khối lượng, theo phân tích ICP-MS). Màng chế tạo từ vật liệu Ng4 có ứng suất Young 298 N/mm2.

Kết quả đánh giá hoạt tính xử lý hơi ethanol và hơi formaldehyde ở vùng nhiệt độ thấp (< 100 độ C) cho thấy ở nhiệt độ phản ứng 50 độ C, độ ẩm 65%, độ chuyển hóa tổng cộng formaldehyde tương ứng là 70 %. Ở nhiệt độ 50 độ C, màng chế tạo có khả năng xử lý ~25% ethanol trong suốt 56 giờ thử nghiệm. Màng Ng4 cũng có khả năng xử lý ~80% formaldehyde ở nhiệt độ phản ứng là 60 độ C.

Đáng chú ý, màng cryptomelane có khả năng kháng khuẩn tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh với đường kính vòng kháng khuẩn tương ứng là 11,2 ± 2,0 mm và 8,3 ± 0,2 mm. Ngoài ra màng chế tạo còn có khả năng kháng khuẩn Streptococci mutans với đường kính vòng kháng khuẩn là 8,1 ± 0,3 mm.

Kết quả thử nghiệm tại Viện vệ sinh y tế công cộng ghi nhận màng chế tạo có khả năng khuẩn  Shigella sonnei với độ rộng vùng ức chế là 2,2 mm và khả năng kháng Staphyl (tụ cầu vàng) với độ rộng vùng ức chế là 2,6 mm (theo phương pháp AATCC TM147-2011 (2016e)).

Kết quả đánh giá khả năng diệt khuẩn trên màng cryptomelane biến tính ghi nhận tỷ lệ suy giảm khuẩn sau 24 giờ là 100% (theo  phương pháp AATCC TM100-2019).

H-4.jpg

Sản phẩm màng/tấm lọc Mdoped cryptomelane kích thước 25x25 cm

Những kết quả bên trên cho thấy màng cryptomelane là màng đa chức năng có khả năng xử lý các hợp chất hữu cơ (ethanol và formaldehyde) ở nhiệt độ thấp (<100 độ C) và có khả năng kháng chủng loại vi sinh gram âm, gram dương điển hình như khuẩn tụ cầu vàng và trực khuẩn mủ xanh. Hơn nữa màng chế tạo còn có khả năng kháng khuẩn lỵ Shigella sonnei và khuẩn gây bệnh sâu răng Streptococci mutans. Có thể nói, màng cryptomelane chế tạo có nhiều tiềm năng ứng dụng trong xử lý không khí cơ sở y tế, đồng thời bột cryptomelane chế tạo có thể ứng dụng làm vật liệu sơn phủ chứa lớp kháng khuẩn và xử lý không khí ô nhiễm trong môi trường y tế.

Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được tổ chức, TS. Trần Thụy Tuyết Mai cho biết: các báo cáo liên quan cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện đang là một trong những vấn đề nghiệm trong khi tỷ lệ bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện và tử vong ngày càng tăng cao. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do các loại vi khuẩn, chẳng hạn như Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), Escherichia coli, Staphylococcus aureus (khuẩn tụ cầu vàng),

Trong môi trường bệnh viện, trực khuẩn mủ xanh thường tìm thấy ở đầu các ống thông, máy khí dung, máy hô hấp nhân tạo, máy hút ẩm, bình chứa nước, thậm chí ở trong cả một số dung dịch sát khuẩn dùng để rửa vết thương. Trong khi đó, tụ cầu vàng được tìm thấy nhiều nhất ở các cơ sở y tế, đặc biệt là các cơ sở nha khoa. Tụ cầu vàng tồn tại trong cơ thể người và có nhiều trong dịch nhầy. Tại các cơ sở nha khoa, một số quy trình như cạo vôi răng có sử dụng siêu âm hoặc khoan tốc độ cao tạo điều kiện cho vi khuẩn này phát tán vào không khí và môi trường. Từ đó, nguy cơ nhiễm khuẩn của nhân viên y tế và bệnh nhân là rất cao.

Hệ thống lọc không khí ứng dụng bộ lọc hiệu suất cao (High Efficiency Particulate Air filter – HEPA) được sử dụng nhiều trong các cơ sở nha khoa, y tế, phòng sạch. Các nghiên cứu trước đây trên thế giới đã chỉ ra rằng thiết bị lọc không khí IQAir Cleanroom H13 với trang bị HEPA có thể làm giảm từ 75-93% lượng S.aureus kháng methicillin (MRSA) có trong môi trường không khí đối với phòng dành cho bệnh nhân dương tính với MRSA. Các bộ lọc HEPA hoạt động dựa trên nguyên tắc rây, tức các sợi vật liệu của HEPA sẽ tạo thành rây có kích thước đủ nhỏ, phối hợp với sự lưu chuyển của dòng không khí để lưu giữ bụi mịn, vi sinh vật hay thậm chí VOCs trên màng lọc.

Tuy nhiên, HEPA chỉ thể hiện tác dụng “bắt giữ” các vi sinh vật nhưng chưa có tác dụng tiêu diệt hoàn toàn chúng. Cụ thể, chủng khuẩn cùng giống với tụ cầu vàng là tụ cầu da (Staphylococcus epidermidis) có thể tồn tại 5 ngày sau khi bị “bắt giữ” bằng màng lọc HEPA. Ngoài ra, khuẩn MS-2 coliphageAspergillus brasiliensis có thể sống đến ngày thứ sáu, thậm chí trường hợp của khuẩn Bacillus atrophaeus là hơn 210 ngày trên màng lọc HEPA.

"Vì vậy việc nghiên cứu ứng vật liệu có khả năng kháng S.aureus, kháng trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa nhằm áp dụng trong màng lọc làm sạch không khí hoặc làm phụ gia cho các vật liệu tiêu hao dùng trong các phòng khám y tế, nha khoa rất đáng được quan tâm", TS. Trần Thụy Tuyết Mai thông tin.

H-3.jpg

Các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ trao đổi với đại diện nhóm nghiên cứu về kết quả của sản phẩm

Là một phần của nhiệm vụ, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Bách Khoa (TP.HCM) cũng đã hoàn thiện Quy trình tổng hợp vật liệu đa chức năng với các minh chứng về định danh vật liệu và khả năng oxy hóa hoàn toàn VOCs ở nhiệt độ thấp, cũng như khả năng kháng khuẩn tốt; và Quy trình chế tạo màng lọc không khí đa chức năng Mdoped cryptomelane.

Thông tin liên hệ:
Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM)
Địa chỉ: 268 Lý Thường Kiệt, Phường 14, Quận 10, TP.HCM
Điện thoại: 028.38636856 -  0903156004

E-mail: tuyetmai@hcmut.edu.vn - khcn@hcmut.edu.vn

Website: www.hcmut.edu.vn
Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM có chức năng hỗ trợ theo dõi tiến độ triển khai các nhóm nhiệm vụ và số lượng nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025.

Ngày 19/9/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, Trung tâm Dữ liệu ĐHQG TP.HCM tổ chức Hội nghị phổ biến, hướng dẫn sử dụng Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM.

Đại biểu tham dự Hội nghị là đại diện các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giữa UBND TP.HCM với ĐHQG TP.HCM giai đoạn 2022 – 2025, cùng thành viên Tổ công tác liên ngành triển khai thực hiện Chương trình hợp tác giữa UBND TP.HCM với ĐHQG TP.HCM giai đoạn 2022 – 2025.

Tại Hội nghị, ông Bùi Quốc Anh (Giám đốc Trung tâm Dữ liệu ĐHQG TP.HCM) đã giới thiệu về Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM cùng các bước thao tác, thực hiện trên Cổng.

congnhiemvu2.jpg

Theo đó, Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM có chức năng hỗ trợ theo dõi tiến độ triển khai các nhóm nhiệm vụ và số lượng nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025. Cổng có biểu đồ phân bố nhiệm vụ của đơn vị phía UBND TP.HCM và biểu đồ phân bố nhiệm vụ của đơn vị phía ĐHQG TP.HCM. Các nhiệm vụ được chia thành từng nhóm nhiệm vụ cụ thể, ví dụ như: Nhóm #1 – Tiếp tục triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm 2022; Nhóm #1 – Các nhiệm vụ trọng tâm năm 2023… Từng nhiệm vụ được cập nhật, bổ sung thông tin chi tiết như đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, thành viên, tiến độ, lộ trình…

Trong khuôn khổ Hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, trao đổi, đóng góp ý kiến để hoàn thiện Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM. Dự kiến Cổng sẽ chính thức ra mắt trong tháng 11/2023.

Trước đó, ngày 2/7/2023, UBND TP.HCM và ĐHQG TP.HCM đã ký kết Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025. Nội dung ký kết hợp tác giữa hai đơn vị gồm 4 lĩnh vực chính: Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM; Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; và Phát triển hạ tầng Khu Đô thị ĐHQG TP.HCM. Chương trình hợp tác nhằm phục vụ mục tiêu phát triển và hội nhập kinh tế - xã hội của TPHCM, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong giai đoạn 2022-2025; thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ĐHQG TPHCM trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.

Hoàng Kim (CESTI)

Kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ do nhóm chuyên gia, nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) thực hiện giúp các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị thuận tiện hơn trong việc chế bản sách giáo khoa dạng chữ nổi.

Thực tế cho thấy, từ đầu năm học 2020-2021, các cơ sở giáo dục, trung tâm và mái ấm nuôi dạy trẻ em khiếm thị tại TP.HCM đã và đang gặp phải nhiều khó khăn trong việc thực hiện các bộ sách giáo khoa hình và chữ nổi trên nền tảng các bộ sách biên soạn theo chương trình mới, đặc biệt đối với các môn học như Toán, Tự nhiên và Xã hội (TNXH), Khoa học và Tự nhiên (KHTN).

Các bộ sách giáo khoa mới được đầu tư biên soạn rất công phu, tích hợp đa dạng các nội dung với nhiều hình ảnh sinh động mô tả đặc điểm, tính chất và chuyển động của vật thể. Điều này hỗ trợ tốt cho việc dạy và học theo định hướng giáo dục mới đối với học sinh bình thường, nhưng dẫn đến yêu cầu cao về việc nghiên cứu, thay đổi hình ảnh cho phù hợp mà không làm ảnh hưởng đến nội dung các môn học cần chế bản để in sách cho học sinh khiếm thị. Đây là thử thách lớn cho đội ngũ chuyển đổi sách giáo khoa ở các trường chuyên biệt nói chung.

H-1A.jpg

Đại diện hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ trực tiếp xem một mẫu chế bản hoàn thiện

Trên tinh thần đó, nhằm kịp hỗ trợ cho giáo viên và học sinh khiếm thị có sách giáo khoa để dạy và học trong các năm học tiếp theo, trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM đã tiến hành làm sách giáo khoa lớp 1 theo bộ sách Chân trời sáng tạo. Tuy nhiên, vẫn như mọi lần, đội ngũ giáo viên của nhà trường lại gặp khó khăn trong việc thực hiện sách giáo khoa hình và chữ nổi cho các môn Toán, TNXH và KHTN. Dự đoán được những khó khăn này sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai, đại diện nhà trường đã đặt hàng các nhà khoa học trên địa bàn TP.HCM về việc xây dựng hệ thống chế bản hình và chữ nổi Braille để in sách giáo khoa Toán, TNXH và KHTN theo bộ sách Chân trời sáng tạo nhằm phục vụ việc giảng dạy cho học sinh khiếm thị.

Hiện tại, trường phổ thông đặc biệt chỉ có thể chọn một số hình ảnh đơn giản để làm bởi vì trường không có chuyên viên hỗ trợ thiết kế đồ họa, hạn chế về nguyên vật liệu, dụng cụ và trang thiết bị máy móc để chuyển hình. Mọi thao tác vẽ, cắt, tỉa, dán… đều được làm bằng tay. Vì thế, quá trình thực hiện chế bản của đơn vị này vẫn tập trung chủ yếu vào việc chuyển ngữ, dẫn đến việc tiếp nhận thông tin hình ảnh thông qua kênh xúc giác của học sinh khiếm thị còn nhiều hạn chế. Trong thời gian vừa qua, nhà trường đã tiến hành chuyển đổi sách Tiếng Việt lớp 1 và 2 bộ sách Chân trời sáng tạo sang chữ nổi Braille để phục vụ công tác dạy và học của học sinh khiếm thị tại trường, đồng thời hỗ trợ các đơn vị cần sách Tiếng Việt trên toàn quốc. Đội ngũ làm sách của trường Nguyễn Đình Chiểu với khoảng 20 giáo viên và nhân viên phải dành 30 ngày mỗi tháng, làm việc xuyên suốt từ tháng 3-5/2020 để thực hiện công tác chuyển đổi hai cuốn sách giáo khoa môn Tiếng Việt nói trên.

Bên cạnh đó, hiện có một số đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị có thói quen làm hình ảnh bằng máy in chấm nổi gây nhiều khó khăn cho học sinh trong lúc nhận diện hình (sờ các đường viền chấm nổi để hình dung những dáng người, hình dạng các loài động, thực vật, vi sinh vật, nhà cửa, trường học,…), thì đa số các đơn vị làm sách đều cắt hình và kết nối với chữ để tạo thành chế bản rồi dùng máy in chữ nổi kết hợp với máy in nhiệt để in sách. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực, trang thiết bị và năng lực thiết kế đồ họa hạn chế nên đội ngũ làm sách chủ yếu làm hình một cách thủ công (dùng dao và kéo để tạo hình). Điều này dẫn đến việc chỉ có một số hình đơn giản trong sách giáo khoa được chuyển đổi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận kiến thức cũng như phát triển năng lực tri giác xúc giác.

 

Từ "đặt hàng" này cùng sự hỗ trợ kinh phí từ Sở KHCN TP.HCM, nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Xây dựng quy trình thực hiện và hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị" đã được triển khai thực hiện.

Đơn vị chủ trì nhiệm vụ là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) và thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi là chủ nhiệm nhiệm vụ.

Nhu cầu cấp thiết

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ, thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi cho biết, hai lý do chính dẫn đến tình trạng khan hiếm sách chữ nổi là do thiếu nguồn nhân lực có kỹ thuật tốt và chi phí nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc chuyên dụng quá cao (5.500-7.500 đồng/tờ giấy ép nhiệt và khoảng 700 triệu đồng cho máy ép nhiệt và máy in chữ Braille).

"Hiện tại cả nước chỉ có trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM, trường phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu TP.Hà Nội và và Mái ấm Nhật Hồng (TP.HCM) là có đủ máy móc, trang thiết bị để in sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị của đơn vị mình và hỗ trợ vài nơi trong khả năng có thể", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ phân tích, "Tuy nhiên, hệ thống sách giáo khoa được sản xuất vẫn tập trung chủ yếu vào sự mô tả bằng ngôn ngữ hơn là minh họa hình nổi. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tri thức của học sinh khiếm thị, đặc biệt là ở các môn Toán, TNXH, KHTN vốn dĩ luôn đòi hỏi phải có hình ảnh minh họa cho khái niệm, tính chất, nguyên lý và các bài tập ứng dụng".

H-2.jpg

Thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi trình bày kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Cũng theo lời thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi, nhiệm vụ bắt đầu được triển khai bằng việc tổng quan tài liệu để xác định các phần mềm và trang thiết bị máy móc cần thiết hỗ trợ in sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị. Cơ sở lý thuyết về quy trình thực hiện chế bản ở một số quốc gia trên thế giới, quy trình làm sách hình và chữ nổi chung ở Việt Nam sẽ được nghiên cứu nhằm đánh giá tình hình và các quy trình làm sách hiện có, làm cơ sở để xây dựng quy trình thực hiện hệ thống chế bản cho đề tài.

Việc khảo sát đánh giá nhu cầu, trang thiết bị hiện có của các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị cũng được triển khai. Song song đó là quá trình học hỏi, đúc kết kinh nghiệm từ các đơn vị đã thực hiện chuyển đổi sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị ở Việt Nam. Từ đây, một quy trình chuẩn phù hợp với điều kiện của Việt Nam sẽ được xây dựng, làm cơ sở để thiết kế, xây dựng, thử nghiệm, và hiệu chỉnh hệ thống chế bản theo đúng quy trình chuẩn đã đề xuất. Cuối cùng, nguyên lý gia nhiệt điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sẽ được nghiên cứu để in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị.

Sau thời gian nghiêm túc nghiên cứu và triển khai, nhiệm vụ đã hoàn thành các nội dung chính yếu, đó là:

1) Điều tra, khảo sát và đánh giá thực trạng cũng như nhu cầu sử dụng sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille tại các trường, trung tâm, mái ấm… đang nuôi dạy học sinh khiến thị;

2) Thiết kế hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6 theo bộ sách giáo khoa Chân trời Sáng tạo;

3) Xây dựng hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6 theo quy trình và thiết kế;

4) Thực hiện in sách giáo khoa theo nguyên lý gia nhiệt điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa hình và chữ nổ Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6;

5) Biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên về quy trình, cách làm hệ thống chế bản và điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa.

Là một phần của nhiệm vụ, nhóm triển khai cũng đã thực hiện video hướng dẫn quy trình, cách làm hệ thống chế bản và điều khiển ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille. Video được đăng tải công khai cho mọi người có thể thuận tiện tham khảo tại địa chỉ www.youtube.com/watch?v=7QmXizTxHkQ.

H-3-Quy trinh.jpgQuy trình đề xuất

Công phu

Theo quy trình được đề xuất, hoạt động nghiên cứu sách giáo khoa và sách giáo viên sẽ giúp đội ngũ chuyển đổi sách hiểu rõ nội dung, tư duy của các tác giả cũng như việc định hướng giảng dạy cho giáo viên theo sách giáo khoa đã được biên soạn. Bên cạnh đó, việc xác định tư duy, trải nghiệm xúc giác của học sinh khiếm thị nói chung và đặc biệt là năng lực tri giác xúc giác đối với sách giáo khoa ở cấp lớp mà các em chuẩn bị được tiếp cận là rất quan trọng. Từ đây, những người tham gia công tác chuyển đổi sẽ phải xác định những nội dung chữ và hình ảnh nào cần được thực hiện. Việc xác định nguồn lực rất quan trọng trong hoạt động cần sự đầu tư rất lớn về cả nhân lực, vật lực và thời gian. Vì vậy, đội ngũ làm sách cần xác định số lượng và phân chia nhân sự phù hợp với kinh nghiệm và năng lực vốn có (chuyển ngữ, thiết kế, kỹ thuật, công nghệ…), trang thiết bị và máy móc bổ trợ cho quá trình làm sách, các nguồn nguyên vật liệu dễ tìm, giá thành thấp nhưng vẫn đảm bảo chất  lượng sản phẩm đầu ra…

Trước khi bắt tay vào thực hiện chế bản, đội ngũ làm sách sẽ lựa chọn một số hình ảnh từ đơn giản đến phức tạp trong sách giáo khoa để thiết kế và xây dựng mẫu thử. Nếu thực hiện theo quy trình chuyển đổi sách của Mái ấm Nhật Hồng, ở bước này chỉ cần chọn hình, scan hình và dùng phần mềm PictureBraille để chuyển đổi hình ảnh thành những chấm nổi hỗ trợ nhận diện hình và dùng máy in chữ nổi để đồng thời tập tin chữ và hình ảnh. Theo cách thông thường của trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM, trường phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu TP.Hà Nội và nhiều đơn vị làm sách trên thế giới, đội ngũ chuyển đổi sẽ chọn hình và thiết kế thử nghiệm bằng phần mềm CorelDRAW 12 (hoặc một số phần mềm chuyên dụng có cùng chức năng), sau đó cài đặt phần mềm CorelLASER 2013.02 kết nối với máy CNC để cắt và tạo hình trên các nguyên vật liệu khác nhau theo những mẫu thiết kế. Dán các hình vừa được cắt lên những tờ giấy in liên tục (giấy dùng để dập chữ Braille) tạo thành các tờ chế bản mẫu và sử dụng máy Thermoform cùng giấy in nhiệt Braillon để in thành các bảng mẫu.

H-3B.jpg

Chế bản được hoàn thiện

Tất cả hình ảnh cùng tập tin dàn trang hoàn thiện sẽ được cắt và in bằng máy cắt CNC và máy in chuyên dụng. Các hình ảnh sẽ được dán lên tập tin dàn trang (ở chỗ những khung hình đang để trống) để tạo thành chế bản mẫu. Sau đó, in và thử nghiệm bản mẫu tại cộng đồng và hiệu chỉnh theo yêu cầu.

Cuối cùng, theo thiết kế đã được thống nhất từ đơn vị đặt hàng, đội ngũ thực hiện đề tài dưới sự hỗ trợ của phần mềm CorelLASER 2013.02 sẽ dùng máy CNC để cắt và sau đó dán hình vào từng trang chữ Braille đã được in ra và duyệt trước đó để tạo thành chế bản. Hệ thống chế bản được xây dựng gồm 42 quyển (Toán 1: 6 quyển, TNXH 1: 6 quyển, Toán 2: 8 quyển, TNXH 2: 6 quyển, Toán 6: 9 quyển, KHTN 6: 7 quyển).

Toàn bộ chế bản đã được quay video giới thiệu và nộp đính kèm cho Sở KHCN TP.HCM tại hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ.

H-4A.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK Toán 1 – hình 2 lớp mật độ vừa

H-4B.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK TNXH 1 – hình 4 lớp mật độ nhiều

H-4C.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK KHTN 6 – hình 2 lớp mật độ nhiều

Thiết thực

Từ những kết quả đạt được, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ khẳng định, việc ứng dụng mô hình dạy học tích hợp STEM thông qua dự án làm sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille vào môi trường đại học là cần thiết. Bởi lẽ, nếu như giáo viên tại các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị vừa dạy, vừa chuyển đổi sách giáo khoa sẽ tốn nhiều thời gian lẫn công sức, nhưng rốt cuộc chỉ có thể tập trung hỗ trợ cho học sinh tại đơn vị mình.

"Vì thế, khi các môi trường giáo dục khác nhau đều triển khai những dự án STEM phục vụ cộng đồng, như sản xuất sách chữ nổi, thì việc tạo ra một nguồn nhân lực khổng lồ với tri thức cao, có thể giúp giải quyết rất nhiều vấn đề cấp thiết trong cuộc sống, cho những cộng đồng cần đến", thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi chia sẻ thêm.

Nhận định về hiệu quả về khoa học - công nghệ của nhiệm vụ vừa được Sở KHCN TP.HCM nghiệm thu, thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi khẳng định giáo dục STEM đang phát triển khắp thế giới và được Bộ GDĐT định hướng triển khai tại các trường phổ thông trên toàn quốc. Bên cạnh đó, các hoạt động giáo dục gắn kết cộng đồng nhằm tạo điều kiện cho việc ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn cuộc sống, kích thích tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề và đặc biệt phát triển ý thức phục vụ cộng đồng của người học luôn được Việt Nam và thế giới quan tâm trong nhiều thập kỷ.

"Nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên là một trong những ứng dụng của quá trình nghiên cứu và thử nghiệm mô hình giáo dục STEM kết nối cộng đồng. Từ đây, định hướng sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh dấn thân vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giáo dục khuyết tật, làm sách giáo khoa và giáo cụ học tập cho học sinh khiếm thị, phương pháp học tập phục vụ cộng đồng…; thúc đẩy các kỹ sư, nhà giáo dục, nhà khoa học nghiên cứu và tạo ra những sản phẩm hỗ trợ cho quá trình sống và học tập của người khuyết tật nói chung và khiếm thị nói riêng. Đồng thời, giúp đội ngũ giáo viên cũng như các nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm hơn đến các định hướng giáo dục mới không tách rời khỏi nhu cầu cộng đồng và thực tế cuộc sống.

Nhận định về hiệu quả xã hội, theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, trong bối cảnh Bộ GDĐT thúc đẩy triển khai giáo dục hòa nhập, thì việc có sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille kịp thời sẽ giúp quá trình học tập của học sinh khiếm thị tham gia hòa nhập trở nên thuận lợi hơn. Từ đây, thúc đẩy các học sinh khuyết tật nói chung và học sinh khiếm thị nói riêng tiếp tục vươn lên ở những bậc học cao hơn, tích cực khám phá năng lực của bản thân trong trong học tập, công việc và cuộc sống ổn định sau này. Điều này góp phần xóa bỏ áp lực xã hội đối với nhóm đối tượng chuyên biệt đôi khi vẫn bị xem là “gánh nặng”, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong giáo dục đến với mọi đối tượng học sinh tại Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. 

Về cơ bản, có thể hiểu chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị là hệ thống các phôi, khuôn hay mẫu in gồm nhiều hình ảnh và chữ nổi được chuyển đổi trực tiếp từ sách giáo khoa, làm cơ sở tạo thành những cuốn sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille hỗ trợ việc học cho học sinh khiếm thị qua các quá trình đúc, thổi, in, ép… bằng nhiều kỹ thuật khác nhau.
Trong khuôn khổ của nội dung nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được nghiệm thu, những cuốn sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille này sẽ được tạo thành theo công năng của máy ép nhiệt Thermoform (loại máy đặc thù được dùng để sản xuất sách cho học sinh khiếm thị với loại giấy Brailon chuyên dụng) bằng kỹ thuật tạo hình chân không. Do đó, các nguyên vật liệu được dùng để làm chế bản chủ yếu là giấy carton, bìa cứng và một số loại nguyên vật liệu không nóng chảy khác để đảm bảo độ bền và độ phân lớp rõ nét của hình ảnh trên chế bản.

 

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM)

Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, Phường 4, Quận 5, TP.HCM

Điện thoại: (028) 38350098

Email: pnainhi@hcmus.edu.vn

Website: www.hcmus.edu.vn

Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp đáp ứng tốt các yêu cầu chuyên môn của dịch tễ học, dự báo tình hình dịch bệnh, đồng thời đáp ứng yêu cầu theo dõi tiến độ của việc xử lý dịch, có thể áp dụng ngay vào công tác phòng chống dịch tay chân miệng trên địa bàn TP.HCM.

Là vùng trọng điểm kinh tế thu hút đông đảo nguồn nhân lực từ nhiều tỉnh thành trên cả nước, cũng như có sự giao thương quốc tế mạnh mẽ, TP.HCM rất dễ bùng phát các bệnh lây truyền trực tiếp (như cúm, sởi, tay chân miệng,…).
Mỗi năm, TP.HCM ghi nhận hàng chục ngàn trường hợp bệnh tay chân miệng, và cao điểm của bệnh thường xuất hiện vào tháng 9 với nhiều ổ dịch trong các trường học, từ đó tiếp tục lây lan sang các cụm dân cư khác. Trong khi đó, bệnh sởi dù đã có vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng, nhưng vẫn xảy ra dịch với tuần suất sau mỗi 3-4 năm.
"Hằng năm, các bệnh lây truyền trực tiếp khác như thủy đậu, quai bị, rubella,… vẫn gây ra những ổ dịch, từ đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân. Những bài học lịch sử và thực tiễn đòi hỏi ngành y tế TP.HCM phải chủ động xây dựng một hệ thống kiểm soát bệnh truyền nhiễm hiện đại, được vận hành và quản lý chặt chẽ thông tin để kịp thời đáp ứng với từng dịch bệnh", đại diện và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) cho biết.
Trong kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp, nguyên tắc chung là phát hiện ca bệnh sớm, áp dụng kỹ thuật điều tra “theo vết” (tracking) để tìm kiếm và theo dõi các ca tiếp xúc, qua đó xác định được chuỗi ca bệnh lây truyền nhau để có biện pháp xử lý đúng, hiệu quả, ngăn chặn được sự lây truyền của bệnh. Do đó, từ tháng 4/2017, TP.HCM đã triển khai hoạt động giám sát bệnh truyền nhiễm theo Thông tư số 54/2015/TT-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 28/12/2015 về hướng dẫn chế độ thông tin, báo cáo và khai báo bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm đến tất cả các trạm y tế phường xã, Trung tâm Y tế quận/huyện và 68 bệnh viện công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thành phố. Theo đó, cơ sở y tế phải thực hiện báo cáo thông tin từng ca bệnh của 35 bệnh truyền nhiễm vào phần mềm trực tuyến được gọi là Hệ thống quản lý, giám sát bệnh truyền nhiễm (HTQLGSBTN). Nhờ vậy mà trong nhiều năm qua, hoạt động kiểm soát bệnh truyền nhiễm trên địa bàn TP.HCM đã đạt được những thành quả nhất định.
Tuy nhiên, các quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vẫn còn được vận hành theo cách thủ công. Hoạt động điều tra, xử lý ca bệnh, giám sát người tiếp xúc, xử lý ổ dịch được theo dõi, lưu vết qua hồ sơ giấy; việc thu thập, chuyển gửi, trao đổi thông tin giữa các tuyến chủ yếu qua email có thể dẫn đến thất lạc hồ sơ lưu, chia sẻ thông tin chậm trễ ảnh hưởng lớn đến việc kiểm soát dịch, không đánh giá được diễn tiến thực của dịch.
Thực tế cho thấy, một ca bệnh được báo cáo lên HTQLGSBTN được xem là "ca chỉ điểm" để khởi động các hoạt động điều tra nguồn lây, lập danh sách người tiếp xúc với bệnh nhân trong thời gian lây nhiễm, từ đó theo dõi và tổ chức các biện pháp phòng chống dịch. Trong đó, việc điều tra, lập danh sách nguồn lây, lập danh sách người tiếp xúc và và theo dõi họ chủ yếu được trạm y tế nơi có ca bệnh chỉ điểm thực hiện. Phiếu điều tra và các danh sách được lập trên giấy và chuyển bản scan về Trung tâm Y tế quận/huyện và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) bằng email, chủ yếu để báo cáo.
Việc theo dõi người tiếp xúc và điều tra nguồn lây hầu như chỉ được thực hiện khi những đối tượng này ở cùng phường xã với ca chỉ điểm (nếu ca bệnh bị lây nhiễm ở phường xã hoặc quận huyện khác thì việc theo dõi xác định chuỗi lây truyền thường rất trễ, hết thời gian can thiệp tốt nhất). Vì thế mà các tính năng của HTQLGSBTN chỉ đáp ứng được việc thông tin ca bệnh một chiều từ bệnh viện đến Trung tâm Y tế quận/huyện, không đáp ứng được việc trao đổi thông tin trong quá trình điều tra, xử lý và đánh giá tình hình dịch bệnh trên địa bàn theo không gian, thời gian.
Do đó, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) đã triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao năng lực và hiệu quả Hệ thống kiểm soát các bệnh lây truyền trực tiếp tại Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả của HTQLGSBTN. Mục tiêu của nhiệm vụ là xây dựng bộ quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp có ứng dụng công nghệ thông tin, kịp thời phân tích và đánh giá tình hình dịch bệnh, theo dõi được diễn tiến thực của dịch. Qua đó, ngành y tế TP.HCM có thể dễ dàng theo dõi sự hình thành và phát triển của chuỗi lây truyền ca bệnh từ một ca chỉ điểm, theo dõi sự hình thành và phát triển của chuỗi lây truyền ca bệnh từ một ca chỉ điểm, triển khai nhanh các hoạt động kiểm soát dịch bệnh.

NV-33-H1.jpg

BSCKII. Nguyễn Trí Dũng trình diễn thao tác vận hành trên HTTT KSBLTTT

BSCKII. Nguyễn Trí Dũng (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, nhóm thực hiện đã đánh giá toàn bộ HTQLGSBTN hiện hành, từ đó triển khai thiết kế, xây dựng quy trình tổ chức vận hành hoạt động của Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp (HTTT KSBLTTT) trên cơ sở kết hợp giữa cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý GIS và công nghệ Blockchain để đánh giá diễn biến dịch theo không gian, thời gian và ứng dụng Blockchain để đảm bảo tính bảo mật, an toàn của cả hệ thống. Cụ thể, HTTT KSBLTTT có phần nền tảng quản lý và kiểm soát dịch bệnh được phát triển theo kiến trúc Microservices để phù hợp và hữu ích cho hoạt động kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp - vốn có rất nhiều chức năng riêng biệt, nhiều đối tượng người dùng và nhiều loại dịch bệnh khác nhau.
Quy trình HTTT KSBLTTT được xây dựng trên nền tảng BPM (Business Process Management) nhằm cho phép tùy chỉnh, tự động hóa và tối ưu hóa các quy trình, linh hoạt nhập liệu bằng biểu mẫu (không cần sử dụng biểu mẫu giấy), xâu chuỗi đối tượng, trích xuất dữ liệu phục vụ thống kê - báo cáo, phù hợp với hệ thống kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vốn có rất nhiều quy trình được thiết lập và những quy trình này cũng thay đổi liên tục để phù hợp với tình hình ứng phó dịch bệnh.

NV-33-H2.jpg
Kiến trúc tổng quan hệ thống

Điểm quan trọng ở HTTT KSBLTTT là nhóm thực hiện đã triển khai ứng dụng hệ thống thông tin địa lý GIS tích hợp với phần mềm quản lý và kiểm soát bệnh để nhận thông tin, dữ liệu đầu vào. Sau đó, thể hiện dữ liệu không gian địa lý trên các lớp và mô hình thực tế để giúp người dùng nhìn rõ số liệu về dịch bệnh trên bản đồ số, tạo nhiều thuận lợi trong công tác điều tra, truy vết, hình thành góc nhìn toàn cảnh về diễn biến dịch bệnh. Bên cạnh chức năng thể hiện bản đồ chuyên đề ca bệnh, ứng dụng GIS còn đóng vai trò làm công cụ thực hiện cập nhật không gian về tiêm chủng tại mỗi hộ dân, công cụ thực hiện cập nhật không gian về ổ dịch, tìm kiếm và mô tả ca bệnh theo các tiêu chí không gian, thống kê và phân tích số liệu về ổ dịch theo vùng không gian được chọn. Cùng với đó, nhóm thực hiện cũng ứng dụng công nghệ Blockchain để quản lý các vùng dữ liệu được tạo dựng, đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu, đảm bảo hệ thống hoạt động liên tục (24/7), lưu vết tác vụ của người dùng, đảm bảo tính trách nhiệm và pháp lý. Thông tin (ca bệnh, địa điểm, mốc dịch tễ, ca tiếp xúc, ổ dịch…) còn được xâu chuỗi thành những mối liên kết, mối quan hệ giữa các đối tượng.
Nhờ đó, vai trò quan trọng của nguồn dữ liệu, thông tin được thể hiện rõ nét trong suốt quá trình phát hiện, thông báo, điều tra truy vết, can thiệp, xử lý ca bệnh, ca tiếp xúc, ổ dịch của toàn mạng lưới y tế cơ sở, đồng thời hỗ trợ tính thời sự của việc giám sát dịch bệnh trong thời gian thực. Phương thức quản lý các bệnh lây truyền trực tiếp chuyển từ cách quản lý dựa vào số ca bệnh trong từng phạm vi hành chính sang quản lý theo chuỗi lây nhiễm, nên phù hợp hơn với phương thức lây truyền bệnh và đặc trưng giao lưu, di chuyển mạnh của người dân đô thị. Phương thức quản lý theo chuỗi lây nhiễm cũng hỗ trợ theo dõi ca bệnh chính xác hơn, đánh giá đúng diễn tiến của bệnh và từ đó có biện pháp can thiệp phù hợp.

NV-33-H3.jpg

Truy vấn, tìm kiếm ca bệnh trên bản đồ và dạng bảng

Cũng theo lời bác sỹ Nguyễn Trí Dũng, nhóm thực hiện đã xây dựng bộ quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp, dự kiến áp dụng cho 28 bệnh, có những hoạt động can thiệp khác nhau đối với ca bệnh, ổ dịch và người tiếp xúc ở từng loại bệnh. Bên cạnh đó, nhóm cũng thử nghiệm mô hình bảo đảm sự liên thông, kết nối, chia sẻ và tích hợp dữ liệu không gian bằng cách tiến hành điều tra và nhập liệu 61 trường hợp bệnh tay chân miệng (được chọn làm đại diện cho bệnh lây truyền trực tiếp ở TP.HCM) và 30 trường hợp ca tiếp xúc, qua đó mô tả tổng quan hệ thống giám sát; mô tả thực trạng nhân lực y tế tham gia vào hệ thống và đánh giá chất lượng dữ liệu, tính kịp thời của HTTT KSBLTTT. Cùng với đó, nhóm thực hiện còn triển khai tập huấn vận hành thực nghiệm HTTT KSBLTTT trong công tác phòng chống dịch tay chân miệng cho ba Trung tâm Y tế (cụ thể là Trung tâm Y tế quận 3, Trung tâm Y tế quận Tân Bình, Trung tâm Y tế quận Tân Phú), thực hiện điều tra và nhập dữ liệu 202 ca bệnh và 1.058 ca tiếp xúc, diễn tập 3 kịch bản thường xảy ra trong thực tiễn.

NV-33-H4.jpg

Theo dõi ổ dịch tay chân miệng, mô tả mối liên hệ theo không gian và thời gian giữa các ca bệnh

Kết quả cho thấy, nhờ sự trao đổi thông tin nhanh chóng và đến đúng nơi cần đến, HTTT KSBLTTT giúp giảm thiểu thời gian thao tác cho từng vị trí vì các thông tin về ca bệnh/ổ dịch cần theo dõi luôn được chia sẻ đến những cá nhân cần sử dụng và được phân quyền, có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ theo thời gian và không gian, thông tin điều tra – xử lý được lưu trữ đầy đủ và trình bày trực quan giúp việc ra quyết định được thuận lợi. Hệ thống đáp ứng tốt các yêu cầu chuyên môn của dịch tễ học như thể hiện trực quan sự hình thành chuỗi lây nhiễm, khả năng lây lan bệnh theo từng đặc điểm địa lý - kinh tế - xã hội, phân tích, dự báo tình hình dịch bệnh đồng thời đáp ứng được yêu cầu của cơ quan quản lý trong theo dõi tiến độ của việc xử lý dịch tại 1 địa điểm bất kỳ trên toàn Thành phố. Đồng thời, hệ thống cũng hỗ trợ đánh giá việc tuân thủ quy trình trong điều tra, xử lý ca bệnh/ổ dịch bệnh của tất cả thành viên, đảm bảo thông tin được chia sẻ ngay lập tức đến các bộ phận liên quan liên quan trong điều kiện đảm bảo tính bảo mật.
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức, nhóm thực hiện kiến nghị Sở KHCN cùng Sở Y tế TP.HCM tiếp tục hỗ trợ kết nối, đào tạo chuyển giao để sớm đưa Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vào hoạt động, khẩn trương phục vụ công tác phòng chống dịch tay chân miệng trên địa bàn Thành phố. Việc sớm triển khai cũng sẽ góp phần thu thập thêm thông tin phản hồi, góp ý để hoàn thiện quy trình, nguồn nhân lực và trang thiết bị phòng chống các bệnh lây truyền trực tiếp khác, tham mưu Sở Y tế TP.HCM triển khai các kế hoạch nâng cao năng lực kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp ở các cơ sở y tế. Hơn thế, Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp cũng có thể được chia sẻ cho các tỉnh thành khác có nhu cầu nhằm phối hợp tăng cường chất lượng công tác phòng chống dịch bệnh.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM
Địa chỉ: 366A Âu Dương Lân, Phường 3, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh,

Điện thoại: (028) 39234629

E-mail: ttksbttp.syt@tphcm.gov.vn

Website: https://hcdc.vn/

Gà Hắc Phong có năng suất cũng như chất lượng thịt và trứng cao, đáp ứng tốt nhu cầu chăn nuôi quy mô công nghiệp trong bối cảnh nhiều địa phương chú trọng phát triển nông nghiệp đô thị, giúp các hộ gia đình nâng cao thu nhập.

Tại Việt Nam, ngành chăn nuôi nói chung hay chăn nuôi gia cầm nói riêng vẫn là nguồn sinh kế quan trọng của người nông dân. Bên cạnh sự phát triển của các giống gà công nghiệp, Việt Nam chú trọng phát triển đàn gà lông màu thả vườn, kể cả giống gà bản địa hay nhập nội.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam là một trong những nước có tổng đàn gia cầm lớn nhất thế giới, riêng đàn thủy cầm lớn thứ hai thế giới. Giai đoạn từ năm 2018-2022, đàn gia cầm tăng nhanh từ 435,9 triệu con lên 557,3 triệu con. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,3%/năm. Trong quý 1 năm 2023, chăn nuôi gia cầm trên cả nước phát triển ổn định. Đàn gia cầm ước khoảng 551,4 triệu con, tăng 2,4%; sản lượng thịt gia cầm ước đạt 563.200 tấn, tăng 4,2%; trứng ước đạt 4,7 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Nhiều giải pháp đã được triển khai, trong đó việc chọn lọc để cải tiến các giống vật nuôi hiện hữu và chọn tạo các dòng/giống mới có năng suất cao hơn là giải pháp được ưu tiên và mang lại nhiều thành công.
Bên cạnh giống gà Ác khu vực Nam Bộ hay gà H’Mông khu vực Tây Bắc thì gà Hắc Phong được các nhà khoa học của Viện Chăn nuôi (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đưa về nuôi bảo tồn và phát triển nguồn genne không những là nhóm gà có thịt thơm ngon, da giòn, tỷ lệ lòng đỏ cao mà còn được xem như là vị thuốc để bồi bổ sức khỏe cho con người.
Gà Hắc Phong là nhóm gà có thịt và xương đen như gà Ác và H’Mông của Việt Nam, đặc điểm ngoại hình, khả năng sinh trưởng của gà Hắc Phong bước đầu đã được nghiên cứu và báo cáo, tuy nhiên các nghiên cứu liên quan đến di truyền phân tử ở nhóm gà này hầu như chưa được thực hiện.
Đa phần các nghiên cứu chọn tạo chủ yếu dựa vào các tính trạng số lượng thông qua sử dụng các mô hình toán (REML, BLUP) để đánh giá. Những năm gần đây đã bắt đầu có một số nghiên cứu ứng dụng kết hợp di truyền phân tử với di truyền số lượng nhằm giúp hỗ trợ chọn lọc đã được thực hiện trên thế giới.
Từ những thành tựu nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy đã có nhiều genne được tìm hiểu và một số genne ứng cử có liên kết chặt chẽ với các tính trạng sinh trưởng hay sinh sản đã được khám phá. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã chứng minh có thể cải thiện nhanh một số tính trạng sinh trưởng và sinh sản dựa trên các genne GH, IGF-I, PIT1 và PRL, NPY. Tuy nhiên, đặc điểm di truyền của các tính trạng năng suất tuân theo quy luật di truyền đa genne (một tính trạng do nhiều genne tác động) và tính đa hiệu của genne (một genne có thể ảnh hưởng cùng lúc lên nhiều tính trạng). Vì vậy, kết quả chọn lọc có thể có các ảnh hưởng không mong muốn đến các tính trạng khác hoặc đến mục tiêu chung của chương trình giống nếu chỉ sử dụng phương pháp chọn lọc dựa vào một vài genne chính (genne ứng viên).

H-1.jpg

Đại diện Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ giới thiệu giống gà Hắc Phong

Nhằm giải quyết mục tiêu "tạo ra 2 dòng gà Hắc Phong có khối lượng cơ thể và năng suất trứng cao để cung cấp gà bố mẹ và thương phẩm cho TP.HCM và các tỉnh Nam Bộ", nhóm các nhà khoa học công tác tại Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Kết hợp phương pháp BLUP với một số kiểu gene có lợi để chọn tạo hai dòng gà Hắc Phong".
TS. Hoàng Tuấn Thành, chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ cho biết "trong nghiên cứu này, nhóm tập trung vào hướng chọn lọc tạo dòng trống có khả năng tăng khối lượng cơ thể nhanh, dòng mái có khả năng đẻ trứng cao trên cơ sở sử dụng kết hợp dữ liệu từ phương pháp đánh giá di truyền BLUP và phân tích tính đa hình kiểu genne GH, IGF-I, PIT1, PRL và NPY để hướng đến kết hợp được các ưu điểm của hai phương pháp nhằm tăng nhanh tiến bộ di truyền.
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ, đại diện Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ khẳng định, dựa vào kết quả phân tích BLUP và đa hình genne liên quan sinh trưởng, bước đầu đã chọn tạo được dòng trống theo hướng tăng khối lượng cơ thể 8 tuần tuổi. Đàn gà có tỷ lệ nuôi sống cao, hệ số di truyền khối lượng cơ thể 8 tuần tuổi là 0,23; tiến bộ di truyền khối lượng cơ thể 8 tuần tuổi của gà trống và mái đạt 30,2 và 29,7 gam/thế hệ. Khối lượng cơ thể 8 tuần tuổi ở thế hệ 3 của gà trống và mái đạt 774,2 và 656,7 gam/con. Năng suất trứng/mái/72 tuần tuổi bình ổn qua các thế hệ đạt 144,0-147,7 quả với tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng 2,49-2,53 kg. Tỷ lệ trứng có phôi 93,6-93,7% và tỷ lệ gà nở/tổng số trứng ấp đạt 82,0-82,2%.
H-2.jpg
Trại gà giống Hắc Phong đang nuôi thực tế tại Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ

Đối với dòng mái, đã chọn tạo dược dòng mái theo hướng tăng năng suất trứng 38 tuần tuổi. Đàn gà có tỷ lệ nuôi sống cao, hệ số di truyền năng suất trứng 38 tuần tuổi 0,15; tiến bộ di truyền 1,7 quả/thế hệ. Năng suất trứng 38 tuần tuổi thế hệ 3 đạt 59,4 quả tăng 10,5 quả so với thế hệ 1. Năng suất trứng/mái/72 tuần tuổi thế hệ 3 đạt 162,4 quả với tiêu tốn thức ăn/10 trứng là 2,38kg. Tỷ lệ trứng có phôi 93,7-94,3% và tỷ lệ gà nở/tổng số trứng ấp đạt 81,3-82,8%.
Ngoài ra, kết quả khảo sát gà bố mẹ và thương phẩm từ 2 dòng gà mới chọn tạo và chất lượng trứng và thịt của dòng trống và dòng mái qua các thế hệ. Các chỉ tiêu về chất lượng trứng, thịt cùa gà Hắc Phong dòng trống và dòng mái đều đạt chất lượng tốt và trong tiêu chuẩn cho phép.
Đáng chú ý, là một phần của nhiệm vụ, nhóm đã chuyển giao gà giống xây dựng mô hình đàn gà bố mẹ và thương phẩm nuôi tại Bình Dương và Đồng Nai cho kết quả tốt và hiệu quả kinh tế cao.
Chia sẻ thêm về hiệu quả của gà Hắc Phong triển khai nuôi thử nghiệm, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ cho biết thêm, tỷ lệ nuôi sống của gà Hắc Phong nuôi ở cả 2 hộ thực hiện mô hình đều đạt khá cao ở cả 2 giai đoạn và ở 2 thế hệ. Ở thế hệ 3, tỷ lệ nuôi sống gà nuôi của hộ 1 giai đoạn 0-8 tuần tuổi là 94,2%, giai đoạn 9-16 tuần tuổi là 97,2%. Tỷ lệ nuôi sống gà nuôi của hộ 2 giai đoạn 0-8 tuần tuổi là 94,8%, giai đoạn 9-16 tuần tuổi là 98,1%. Hộ 2 có tỷ lệ nuôi sống cao hơn hộ 1 nhưng mức chênh lệch là không lớn (P>0,05). Kết quả này tương đương so với gà thương phẩm nuôi tại trại giống Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi gia cầm Vigova (thuộc Phân viện Chăn nuôi Nam bộ). Tỷ lệ nuôi sống cao tại mô hình là nhờ việc chuyển giao con giống đồng bộ cùng quy trình chăn nuôi đã được hoàn thiện từ cơ sở giống là một trong những điều kiện giúp cho đàn giống phát triển tốt, tỷ lệ nuôi sống đạt cao. Thêm nữa là việc chọn hộ có kinh nghiệm nuôi gà, có đủ điều kiện chuồng trại và trang thiết bị cùng với sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật có trình độ từ Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ. Kết quả tỷ lệ nuôi sống gà cao từ 2 nông hộ khẳng định gà Hắc Phong từ 2 dòng gà mới chọn tạo có khả năng thích nghi cao, sức sống tốt là cơ sở thuận lợi khi chuyển giao con giống ra sản xuất đại trà.

H-3.jpg

Gà Hắc Phong dễ nuôi, chăm sóc và cho chất lượng thịt, trứng ở mức tốt
TS. Hoàng Tuấn Thành khẳng định, về hiệu quả về khoa học và công nghệ, kết quả của đề tài là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về chọn lọc giống dựa trên nền tảng kỹ thuật di truyền phân tử kết hợp di truyền số lượng, là dữ liệu cơ bản giúp các cơ sở chọn giống gia cầm định hướng nghiên cứu ứng dụng. Dữ liệu thu thập được của đề tài là nguồn thông tin có giá trị tin cậy cao và sử dụng như nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy.
Về hiệu quả về kinh tế xã hội, theo TS. Hoàng Tuấn Thành, việc chọn lọc tạo ra 2 dòng gà Hắc Phong có năng suất, chất lượng cao là sản phẩm hàng hóa mới phù hợp với chĕn nuôi tập trung và/hoặc bán chăn thả tại TP.HCM cǜng như các tỉnh Nam Bộ, góp phần quan trọng thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi sang các sản phẩm đặc sản có giá trị kinh tế cao và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ các dòng gà được chọn tạo sẽ sản xuất được gà bố mẹ và thương phẩm có năng suất và chất lượng cao hơn, giá thành hợp lý hơn so với đàn giống cũ, tiết kiệm được chi phí. Từ đó làm tăng hiệu quả kinh tế nông nghiệp nông thôn, tăng sản phẩm thịt chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, tăng thu nhập cho người chăn nuôi, góp phần giải quyết an sinh cho xã hội. Các dòng gà có năng suất cao giúp nâng cao hiệu quả cho người chăn nuôi, đồng thời cǜng gián tiếp giúp làm giảm ô nhiễm môi trường từ ngành chăn nuôi.

Phương pháp khảo sát đánh giá chất lượng thịt và trứng gà Hắc Phong

Gà Hắc Phong được tiến hành mổ khảo sát để đánh giá năng suất và chất lượng thịt lúc 16 tuần tuổi ở 3 thế hệ, số lượng gà mổ khảo sát 60 con (10 con/dòng x 2 dòng x 3 thế  hệ). Phương pháp mổ khảo sát, thu nhận mẫu và phương thức đánh giá dựa theo khuyến cáo của Bùi Hữu Đoàn và cộng sự (2011), một số chỉ tiêu cụ thể như sau:

Một số chỉ tiêu liên quan thành phần thân thịt:

- Khối lượng cơ thể, thành phần và tỷ lệ thân thịt;

- Khối lượng thịt ức và tỷ lệ thịt ức;

- Khối lượng thịt đùi và tỷ lệ thịt đùi;

- Khối lượng mỡ nội tạng và tỷ lệ mỡ nội tạng.

Một số chỉ tiêu liên quan đến thành phần hóa học thịt:

- Hàm lượng vật chất khô (Dry matter - DM): được xác định theo TCVN 4326-2007

- Hàm lượng protein thô (Crude protein - CP): được phân tích bằng phương pháp Kjeldahl theo TCVN 4328-2007

- Hàm lượng khoáng tổng số (Ash): được xác định theo TCVN 4327-2007

- Hàm lượng chất béo (ether extract - EE): được xác định bằng phương pháp Soxlhet theo TCVN 4331-2007

 

Thông tin liên hệ:
Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ (Viện Chăn nuôi, Bộ NN&PT-NT)
Địa chỉ: Khu phố Hiệp Thắng, P.Bình Thắng, TP Dĩ An, tỉnh Bình Dưong
Điện thoại: 0274 3739899 - 0903355003

E-mail: iasvn@iasvn.vn - thanhvigova@yahoo.com

Website: iasvn.vn
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ là nguồn kinh phí phù hợp để doanh nghiệp dịch vụ công ích đặt hàng, đề xuất, thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới, đổi mới sáng tạo nâng cao năng suất chất lượng, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng lực hoạt động, chất lượng dịch vụ.

Ngày 31/8/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM tổ chức Hội nghị "Kết nối doanh nghiệp dịch vụ công ích với Nhà cung ứng giải pháp công nghệ - thiết bị, hướng đến sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp hiệu quả". Hội nghị nhằm hướng dẫn quy trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cho nhóm đối tượng là doanh nghiệp dịch vụ công ích trên địa bàn TPHCM, hướng dẫn về nghĩa vụ thuế khi doanh nghiệp dịch vụ công ích trích lập và sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Đồng thời, kết nối đơn vị cung cấp công nghệ - thiết bị mới, công nghệ xanh, sử dụng hiệu quả năng lượng với doanh nghiệp dịch vụ công ích.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, bà Chu Vân Hải (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) bày tỏ mong muốn nội dung được chia sẻ tại Hội nghị sẽ góp phần giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp dịch vụ công ích chủ động hơn trong việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ chi đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp dịch vụ công ích có điều kiện đổi mới thiết bị - giải pháp công nghệ để nâng cao năng lực hoạt động, chất lượng dịch vụ.

dichvucongich1.jpg

Bà Chu Vân Hải (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) phát biểu khai mạc Hội nghị

Trong khuôn khổ Hội nghị, bà Nguyễn Thị Thu Sương (Quyền Trưởng phòng Quản lý Khoa học – Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) đã hướng dẫn doanh nghiệp dịch vụ công ích đặt hàng, đề xuất, thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới, đổi mới sáng tạo nâng cao năng suất chất lượng, tạo lợi thế cạnh tranh. Cụ thể, đó có thể là nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ, dự án sản xuất thử nghiệm, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hoặc đề án khoa học… Các nhiệm vụ này được thực hiện trong thời gian không quá 24 tháng, trừ các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực nông nghiệp hoặc y tế. Nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ này là từ nguồn tự có của doanh nghiệp dịch vụ công ích, từ ngân sách sự nghiệp khoa học của Thành phố hoặc từ những nguồn khác.

dichvucongich2.jpg

Bà Nguyễn Thị Thu Sương hướng dẫn quy trình, cách thức đặt hàng, đề xuất, thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Theo quy trình thực hiện, doanh nghiệp dịch vụ công ích sẽ gửi hồ sơ về Sở Khoa học và Công nghệ để tổng hợp, thẩm định, xét duyệt. Doanh nghiệp dịch vụ công ích có thể được xem xét hỗ trợ 30-50% kinh phí thực hiện.

Về giao quyền kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nội dung đề nghị chuyển giao có thể là chuyển giao quyền sử dụng tại sản cho tổ chức chủ trì theo hình thức ghi tăng tài sản; chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức khác theo hình thức hoàn trả giá trị tài sản; chuyển giao quyền sở hữu không thu hồi phần kinh phí hỗ trợ cho tổ chức chủ trì (trường hợp ngân sách hỗ trợ đến 30% tổng kinh phí. Cần tham thao thêm chi tiết quy định tại Điều 22 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP. Mặt khác, ở phương án ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, doanh nghiệp có thể đề xuất phương án kết quả nghiên cứu sẽ được giao cho cơ quan đặt hàng để triển khai ứng dụng theo quy định.

Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM sẽ tiếp tục hướng dẫn doanh nghiệp dịch vụ công ích sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để đặt hàng, đề xuất, thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.

Hoàng Kim (CESTI)

Clip hoạt động


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353