GRP không chỉ là công cụ giảm thiểu các rào cản pháp lý mà còn góp phần nâng cao năng suất và chất lượng của doanh nghiệp. Bằng cách đơn giản hóa các quy định, minh bạch hóa quy trình, giảm gánh nặng hành chính, TP.HCM đang phấn đấu để tạo nền tảng vững chắc cho một môi trường kinh doanh thân thiện và hiệu quả.
Sáng ngày 29/11/2024, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức buổi tập huấn về thực hành xây dựng thể chế, quy định tốt GRP. Sự kiện mang đến một diễn đàn trao đổi chuyên sâu về phương pháp và công cụ quản lý hiện đại nhằm cải thiện chất lượng thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị công tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc buổi tập huấn, bà Nguyễn Thị Mai Phương (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia) cho biết, thủ tục hành chính phức tạp không chỉ gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước. Những năm gần đây, Việt Nam bắt đầu triển khai nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc xây dựng và thực thi các thể chế, quy định nhằm phù hợp với yêu cầu thực tế, cụ thể qua việc cắt giảm thành phần hồ sơ, thời gian thực hiện... Trong bối cảnh đó, với tiềm năng cải thiện môi trường pháp lý, tăng cường niềm tin của công chúng, khả năng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy định tốt GRP (Good Regulatory Practices) được kỳ vọng sẽ tạo đà bật cho môi trường kinh doanh hiện đại, trở thành lợi thế cạnh tranh lớn của Việt Nam trong thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế.
Theo bà Phương, GRP được hiểu là tập hợp những quá trình, hệ thống, công cụ, phương pháp đã được các tổ chức quốc tế công nhận, giúp xây dựng, thực thi các quy định/chính sách một cách hiệu quả, minh bạch, toàn diện và bền vững.
Bà Nguyễn Thị Mai Phương (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia) trình bày các nội dung tại buổi tập huấn.
Cụ thể, các quy trình của GRP gồm: hệ thống rà soát các quy tắc và quy định hiện tại; hệ thống kiểm tra và cải thiện các quy tắc và quy định mới; phương pháp để tham vấn và góp ý với các bên có liên quan; các sáng kiển để cải thiện việc thực thi quy định; tiếp cận về các thực hành đổi mới trong quản lý quy định. Hỗ trợ cho từng quy trình là các công cụ tương ứng: đánh giá sau thực thi – chương trình rà soát và cắt giảm gánh nặng thủ tục hành chính; đánh giá tác động quy định/ RIA – RIS; tham vấn công chúng, thông báo và góp ý; chiến lược tuân thủ/ cải cách thực thi và kiểm tra; quy định linh hoạt – Agile Regulation/ Regulatory Sandbox, quy định dựa trên nguyên tắc đạo đức, nghiên cứu hành vi/ chiến lược tầm nhìn.
Trên thế giới, GRP đã được áp dụng tại nhiều quốc gia như Anh, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Singapore... giúp cải thiện môi trường pháp lý, tăng cường năng suất lao động và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các nguyên tắc của GRP như minh bạch, tham vấn cộng đồng, đánh giá tác động quy định (Regulatory Impact Assessment - RIA), rà soát sau thực thi đã trở thành “tiêu chuẩn vàng” để đảm bảo hiệu quả và sự đồng thuận khi ban hành chính sách. Nhìn lại trong nước, Việt Nam cũng đã áp dụng các công cụ của GRP trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như RIA từ 2008, tham vấn công chúng đối với các dự thảo và đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc áp dụng GRP sẽ tạo ra những quy định dễ hiểu hơn, giảm chi phí và thời gian tuân thủ cho doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế. Không chỉ vậy, GRP còn hỗ trợ xây dựng các khung pháp lý nhất quán, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Dù có nhiều tiềm năng, việc triển khai GRP tại Việt Nam vẫn đối mặt với các thách thức như nhận thức chưa đồng đều, thiếu sự phối hợp giữa các cấp quản lý và hạn chế về nguồn lực. Trao đổi tại buổi tập huấn, bà Phương cũng đề xuất các hoạt động ngắn hạn nhằm thực hiện hiệu quả GRP gồm: nâng cao nhận thức và tăng cường cam kết thông qua các diễn đàn, hội nghị và chiến dịch tuyên truyền; tổ chức các buổi đào tạo nghiêm túc, xây dựng kỹ năng thực thi GRP; thực hiện các chương trình thí điểm, từ đó rút ra bài học để triển khai trên diện rộng; tận dụng công nghệ số để cải thiện hiệu quả quản lý và giám sát quy định; thúc đẩy đổi mới và cạnh tranh lành mạnh giữa các tỉnh, ngành trong áp dụng GRP; phát động phong trào GRP, tạo động lực mạnh mẽ cho các bên tham gia; thể chế hóa GRP, đưa GRP vào khung pháp lý quốc gia; tận dụng GRP như một thế mạnh bền vững, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút đầu tư.
Trong khuôn khổ sự kiện, các đại biểu đã cùng thảo luận, trao đổi về những nội dung liên quan đến vai trò, tầm quan trọng của xây dựng thể chế, quy định tốt trong cải cách thủ tục hành chính, nhằm đảm bảo kết quả của các chính sách/quy định được ban hành hiệu quả, minh bạch, toàn diện và bền vững. Đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm triển khai các mô hình xây dựng thể chế, quy định tốt để cải cách thủ tục hành chính của một số quốc gia trong khu vực nhằm cải thiện chất lượng môi trường pháp lý cho doanh nghiệp, người dân và xã hội.
Chương trình tập huấn ngày 29/11 không chỉ trang bị kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, mà còn đặt nền móng cho việc áp dụng GRP trên phạm vi rộng hơn trong cả nước. Thông qua việc triển khai hiệu quả GRP, TP.HCM sẽ tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong cải cách hành chính, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Minh Nhã (CESTI)
Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi, thảo luận về khả năng hợp tác tiềm năng, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo (AI) và biến đổi khí hậu.
Chiều 28/11, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tiếp và làm việc với ông Philipp AGATHONOS (Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Áo tại Việt Nam) nhân dịp chuyến thăm của ông đến TP.HCM từ ngày 28-29/11/2024.
Ông Philipp AGATHONOS chia sẻ, Chính phủ Áo rất quan tâm, khuyến khích các cơ hội hợp tác với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trong chuyến thăm TP.HCM lần này, Ngài Đại sứ cũng đã có buổi làm việc với Đại học Quốc gia TP.HCM nhằm tìm hiểu, thúc đẩy các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như trao đổi sinh viên, giảng viên, các chương trình đào tạo chung, chương trình nghiên cứu chung.
Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN), ông Philipp AGATHONOS bày tỏ sự quan tâm và đánh giá cao hoạt động của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM trong vai trò hỗ trợ thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các chương trình nghiên cứu phát triển KH&CN của Thành phố. Ngài Đại sứ cũng nhận thấy cơ hội hợp tác với TP.HCM rất rộng mở, đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ môi trường, năng lượng tái tạo, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo, hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển đô thị thông minh,…
Về nghiên cứu ứng dụng AI, ông Philipp AGATHONOS cho biết, Bộ Ngoại giao Áo đang hợp tác với một số tổ chức tư nhân nghiên cứu đưa ra các công cụ AI giải quyết các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công tác của nhân viên ngoại giao. Qua đây cũng cho thấy một số kinh nghiệm trong việc hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Tại nước Áo cũng có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển liên quan đến đổi mới sáng tạo, trong đó có chương trình hỗ trợ trao đổi startup từ Áo đi ra quốc tế (định hướng đi qua châu Á) và ngược lại. Tuy nhiên, cần hình thành báo cáo định hướng về các phương án, chương trình, nội dung hợp tác cụ thể để trình Chính phủ Áo phê duyệt và có chính sách hỗ trợ.
Quang cảnh buổi làm việc
Giới thiệu về hoạt động khoa học và công nghệ tại TP.HCM, bà Nguyễn Thị Thu Sương (Phòng Quản lý khoa học – Sở KH&CN TP.HCM) cho biết, Thành phố đang triển khai một số chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo và biến đổi khí hậu, tập trung vào 6 chương trình gồm: Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ phục vụ Đô thị thông minh và chuyển đổi số; Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ công nghiệp; Chương trình nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; Chương trình nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý và phát triển đô thị; Chương trình vườn ươm khoa học và công nghệ trẻ.
Thành phố cũng ban hành và triển khai các chính sách đặc thù về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết số 98/2023/QH15, cụ thể như Nghị Quyết số 19/2023/NQ-HĐND về quy định tiêu chí, đối tượng, điều kiện được hưởng ưu đãi tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và các chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập và thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 20/2023/NQ-HĐND về quy định lĩnh vực ưu tiên, tiêu chí, điều kiện, nội dung và mức hỗ trợ dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 20/2024/NQ-HĐND về quy định các tiêu chí, lĩnh vực, nội dung hỗ trợ thử nghiệm có kiểm soát giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (sandbox);…
Về trí tuệ nhân tạo, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 575/QĐ-UBND về phê duyệt Chương trình "Nghiên cứu và phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 - 2030" với nhiều nhiệm vụ cụ thể như: Đề án xây dựng hạ tầng số; Đề án xây dựng hạ tầng tính toán hiệu năng cao; Dự án xây dựng Cổng thông tin giải pháp và ứng dụng AI; Hạng mục xây dựng cơ chế, chính sách về AI; Đề án thành lập Trung tâm hỗ trợ phát triển và chuyển giao AI Thành phố Hồ Chí Minh; Đề án xây dựng mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển AI tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo; Đề án Đào tạo nguồn nhân lực trình độ quốc tế ngành AI;…
Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, Thành phố cũng đã ban hành và triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ về đánh giá biến đổi khí hậu (nghiên cứu các mô hình tính toán về thay đổi các yếu tố khí tượng và mực nước dâng do biến đổi khí hậu, cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu cho TP.HCM,…); nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu (sức khỏe, cơ sở hạ tầng, nguy cơ xảy ra sự cố, khu dân cư,…) và đánh giá khả năng thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu; nghiên cứu các giải pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu, giảm khí nhà kính, các quy trình, công nghệ mới phục vụ bảo vệ môi trường,…
Tại buổi làm việc, bà Sương cũng đề xuất một số hướng hợp tác, cụ thể như chuyển giao công nghệ xây dựng hạ tầng tính toán, nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ phát triển AI tại Việt Nam; mở các khóa đào tạo trực tuyến và ngoại tuyến do chuyên gia Áo giảng dạy; hỗ trợ triển khai các dự án thí điểm sử dụng AI trong quản lý hành chính công và hỗ trợ người dân. Về biến đổi khí hậu, đề xuất hợp tác nghiên cứu và ứng dụng năng lượng mặt trời, gió, và các giải pháp lưu trữ năng lượng; phát triển các dự án bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn và tái trồng rừng; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm thiên tai dựa trên công nghệ; chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ trong quản lý chất lượng không khí, kiểm soát ô nhiễm; tổ chức các hội thảo quốc tế và chương trình giáo dục cộng đồng về biến đổi khí hậu;...
Ông Philipp AGATHONOS, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Áo tại Việt Nam (chính giữa) chụp ảnh lưu niệm cùng đại diện lãnh đạo và đại diện các phòng, ban của Sở KH&CN TP.HCM
Thống nhất với những thông tin trao đổi, chia sẻ và đề xuất tại buổi làm việc, ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết, Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu phấn đấu trở thành trung tâm phát triển KH&CN hàng đầu của cả nước và trong khu vực. Bên cạnh những kết quả đạt được trong giai đoạn 2021 – 2025 về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, Thành phố cũng xây dựng và triển khai các cơ chế chính sách nhằm nâng cao tiềm lực KH&CN như thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế (CoE); thành lập Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo Thành phố; tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vươn tầm ra thế giới; thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu/nhóm nghiên cứu mạnh, thúc đẩy hợp tác quốc tế về nghiên cứu phát triển AI, phát triển bền vững tại TP.HCM,… Do vậy, Sở KH&CN sẵn sàng kết nối hợp tác nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút các chuyên gia từ Áo tham gia vào các hoạt động này. Ông Lê Thanh Minh cũng gởi lời mời đại diện Đại sứ quán Áo tại Việt Nam tham dự chuỗi sự kiện WHISE 2024 (Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp TP.HCM năm 2024), đặc biệt mong muốn Ngài Đại sứ có thể tham gia trình bày tham luận và chia sẻ kinh nghiệm tại Hội thảo khoa học quốc tế định hướng nghiên cứu về AI và ứng dụng cho TP.HCM sẽ diễn ra ngày 18/12 trong khuôn khổ sự kiện WHISE 2024.
Ông Philipp AGATHONOS bày tỏ sự hào hứng và đồng ý với những thông tin chia sẻ cũng như lời mời của Sở KH&CN TP.HCM. Đồng thời mong muốn hai bên sẽ có những hoạt động hợp tác cụ thể trong thời gian tới để cùng tham gia hỗ trợ giải quyết các vấn đề thực tế của TP.HCM, từ đó phát huy các tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Áo.
Lam Vân (CESTI)
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa ban hành Kế hoạch tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế định hướng nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo (AI) và ứng dụng cho TP.HCM lần thứ I năm 2024 với chủ đề "Thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực hành chính công tại Thành phố Hồ Chí Minh".
Hội thảo nhằm kết nối hợp tác, trao đổi học tập kinh nghiệm quốc tế về AI; định hướng nghiên cứu và ứng dụng AI tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những hoạt động nhằm góp phần thực hiện Kế hoạch số 4697/KH-UBND ngày 27/12/2023 của Ủy ban Nhân dân Thành phố về "Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo từ môi trường nghiên cứu đến thử nghiệm, ứng dụng thí điểm đến ứng dụng rộng rãi trong xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, tầm nhìn năm 2030".
Dự kiến, Hội thảo được tổ chức ngày 18/12 tại Trung tâm Hội nghị 272 (phường Võ Thị Sáu, Quận 3) với hơn 150 đại biểu tham dự là các chuyên gia trong lĩnh vực AI; đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thành phố Thủ Đức; đại diện các trường, viện nghiên cứu trong nước và quốc tế; đại diện các doanh nghiệp ứng dụng và nghiên cứu trong lĩnh vực AI trong nước và quốc tế;…
Tại hội thảo, các chuyên gia, diễn giả trong nước và quốc tế sẽ trình bày tham luận về AI liên quan đến các lĩnh vực y tế, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, giáo dục và đào tạo, tài nguyên và môi trường, du lịch, văn hóa,… Trong đó, Sở KH&CN sẽ trình chiếu video clip về hoạt động nghiên cứu và ứng dụng AI tại TP.HCM, đại diện Sở Thông tin và Truyền thông sẽ trình bày tham luận nhằm nêu bật các kết quả, thành tựu đạt được cùng những khó khăn, hạn chế trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp, định hướng cho thời gian tới nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng AI tại TP.HCM, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính công.
Được biết, trong Kế hoạch số 4697/KH-UBND, TP.HCM đặt mục tiêu hình thành hệ sinh thái AI tại Thành phố; thúc đẩy gia tăng 20%/năm số lượng các công trình khoa học, bằng độc quyền sáng chế/GPHI hoặc quyền tác giả (đối với phần mềm) về AI hoặc ứng dụng AI tại Thành phố; hàng năm gia tăng 10% số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp số phát triển, ứng dụng AI và gia tăng vốn đầu tư vào lĩnh vực AI; hàng năm tăng 10% nhân lực AI đạt chất lượng phục vụ cho nghiên cứu, triển khai và ứng dụng AI phục vụ đời sống kinh tế, xã hội Thành phố. Đồng thời, phấn đấu đến năm 2030, đảm bảo 100% các sở, ban ngành, quận, huyện và thành phố Thủ Đức có ứng dụng AI phục vụ công tác quản lý nhà nước.
Để thực hiện các mục tiêu trên, UBND Thành phố định hướng các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như tìm kiếm, triển khai các giải pháp AI ở mọi lĩnh vực phục vụ phát triển Thành phố; hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng AI phục vụ sản xuất, kinh doanh; triển khai tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về AI trực tuyến; xây dựng, vận hành phát triển nền tảng chia sẻ dữ liệu AI; tổ chức các cuộc thi AI; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái AI; triển khai các hội nghị, hội thảo quốc tế về nghiên cứu khoa học và ứng dụng AI;…
Sở Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và đơn vị liên quan triển khai thực hiện Kế hoạch này.
Lam Vân (CESTI)
Ngày 27/11/2024, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn “Tư duy và hành động 5S, nâng cao hiệu quả làm việc”.
Tại lớp tập huấn, các học viên tiếp cận và tìm hiểu mô hình 5S. Đây là mô hình quản lý, sắp xếp nơi làm việc có nguồn gốc từ Nhật Bản, đã được nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam nghiên cứu và áp dụng. 5S là mô hình mang đến những lợi ích, năng suất chất lượng rất hiệu quả cho các tổ chức, doanh nghiệp nếu thực sự áp dụng, triển khai.
Theo báo cáo viên Nguyễn Thế Nam (Trung tâm Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ 2), mục đích của việc áp dụng 5S không chỉ đơn thuần ở việc nâng cao điều kiện và môi trường làm việc trong một tổ chức, mà quan trọng hơn là làm thay đổi cách suy nghĩ, thói quen làm việc và tăng cường khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân trong tổ chức. Triết lý áp dụng 5S là tự mỗi người giữ cho nơi làm việc của mình sạch và ngăn nắp là cách làm tối ưu; thay vì cố gắng dọn dẹp nơi làm việc, trước tiên hãy cố gắng không làm bẩn nó (phòng bệnh hơn chữa bệnh).
Trong khuôn khổ lớp tập huấn, các học viên đã tìm hiểu và thực hành lần lượt các bước trong 5 khâu Seiri – Sàng lọc, Seiton – Sắp xếp, Seiso – Sạch sẽ, Seiketsu – Săn sóc, Shitsuke – Sẵn sàng. Theo đó, khâu Sàng lọc sẽ giúp phát hiện những vật, tài liệu thừa – không còn sử dụng, hoặc tìm lại được những vật, tài liệu có ích vốn đã thất lạc. Khâu Sắp xếp sẽ giúp nơi làm việc hiệu quả (dễ tìm, dễ thấy, thuận tiện khi sử dụng vật, tài liệu) và hỗ trợ nắm bắt thời hạn tối thiểu và tối đa lưu giữ vật, tài liệu. Khâu Seiso – Sạch sẽ giúp tạo môi trường làm việc sạch sẽ, thoải mái, máy móc được vận hành tốt, và vệ sinh dọn dẹp cũng là một hành động để kiểm tra. Khâu Seiketsu – Săn sóc là duy trì sự sạch sẽ ngăn nắp, động viên khen thưởng cái tốt, cuốn hút mọi người cùng tham gia. Khâu Shitsuke – Sẵn sàng là làm các việc kể trên một cách tự giác, tạo thành thói quen yêu thích thực hành 5S.
Trong quy trình triển khai 5S, tổ chức sẽ thành lập Ban 5S. Người phụ trách 5S trong tổ chức có vai trò cực kỳ quan trọng, là tấm gương về 5S để mọi người noi theo. Việc triển khai 5S cần tuyên truyền cụ thể về mục tiêu, hoạt động, hướng dẫn thực hiện từng S, kết quả đánh giá… 5S cần bắt đầu bằng giáo dục và đào tạo để mọi người đều thấu hiểu và tự nguyện tham gia.
Hoàng Kim (CESTI)
Trong hai ngày 26-27/11, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố".
Đây là một trong 4 lớp tập huấn về năng suất và chất lượng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của TP.HCM năm 2024 nhằm tuyên truyền, phổ biến và chia sẻ kinh nghiệm cũng như cung cấp kiến thức về các giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn Thành phố.
Tại lớp tập huấn, PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) trao đổi và làm rõ các nội dung liên quan đến khái niệm, định nghĩa về năng suất, các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất; tầm quan trọng của năng suất; năng suất và những yếu tố liên quan; tác động của các công nghệ 4.0 đến năng suất và chất lượng; các giải pháp nâng cao năng suất;…
Theo đó, năng suất không còn là một khái niệm mới mẻ, hiện nay, ba hình thức năng suất khác nhau đã được hầu hết các nhà nghiên cứu và thực hành năng suất chấp nhận rộng rãi, bao gồm: năng suất tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng với tất cả các yếu tố đầu vào"; năng suất nhân tố tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng trên tổng số lao động liên quan và các yếu tố đầu vào khác"; năng suất một phần là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng đầu ra với một loại đầu vào".
Lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tổ chức từ ngày 26-27/11
Phân tích một số định nghĩa về năng suất cho thấy, năng suất là mối quan hệ giữa số lượng đầu ra (hàng hóa và dịch vụ được sản xuất) và số lượng đầu vào (bao gồm các nguồn lực như lao động, vật liệu, máy móc và năng lượng) được sử dụng trong sản xuất. Trong định nghĩa "năng suất = hiệu quả x hiệu suất x hiệu năng": hiệu quả là tỷ lệ giữa kết quả đạt được và tổng số nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó; hiệu suất là tỷ lệ giữa thời gian và nguồn lực đã sử dụng để hoàn thành công việc; hiệu năng là tỷ lệ giữa khả năng hoạt động thực tế của hệ thống và khả năng hoạt động trong điều kiện tối ưu nhất.
Qua phân tích một số khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ, và ý kiến về năng suất của một số chuyên gia và tổ chức, ông Tuấn lưu ý, năng suất theo cách tiếp cận mới một cách chung nhất và cơ bản nhất hiện nay nhấn mạnh vào việc giảm lãng phí trong mọi hình thức (giảm lãng phí chứ không phải là giảm đầu vào); năng suất là làm việc thông minh hơn chứ không phải vất vả hơn. Tăng năng suất đồng nghĩa với sự đổi mới, sáng tạo và cải tiến liên tục. Trong thực tế, những cải tiến được tạo ra từ những thay đổi trong thiết kế, sản xuất, giao hàng,… Đây là những thay đổi cần phải có do ảnh hưởng của các yếu tố như công nghệ, quản lý, yêu cầu về sản phẩm và phương pháp làm việc.
PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) là báo cáo viên chính của chương trình
Đạt được năng suất cao hơn là một trong những mục tiêu chính của bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào. Điều này mang lại những lợi ích thiết thực như chi phí sản xuất giảm; tăng lợi thế cạnh tranh; tăng khối lượng bán hàng; lợi nhuận tăng; sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn; sự hài lòng của khách hàng được cải thiện;… Để tăng năng suất và chất lượng cho doanh nghiệo, hàng loạt nội dung về các giải pháp và công cụ đã được đề cập và trao đổi tại lớp tập huấn. Cụ thể như bảy công cụ kiểm soát chất lượng; sản xuất tinh gọn; sáu Sigma; Kaizen; 5S; KPI; một số công cụ đổi mới; phương pháp giải quyết vấn đề sáng tạo; lý thuyết giải quyết các bài toán sáng chế; công thái học trong cải tiến sản phẩm, hệ thống và môi trường làm việc; quản lý dự án; quản lý và cải tiến quy trình; siêu tập trung; trí tuệ nhân tạo; tư duy thiết kế; trí tuệ cảm xúc;...
Trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) là một trong những công nghệ 4.0 có thể cung cấp cho doanh nghiệp những công cụ cần thiết để tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm lãng phí và tăng hiệu quả; tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và nâng cao tính linh hoạt, cải thiện tính minh bạch của chuỗi cung ứng. Bằng cách cung cấp thông tin chi tiết và đề xuất dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực, AI có thể giúp doanh nghiệp cải thiện quá trình ra quyết định, xác định các lĩnh vực cần cải thiện và thực hiện các điều chỉnh để tối ưu hóa quy trình; phát hiện các lỗi trong thời gian thực và thực hiện các điều chỉnh để cải thiện chất lượng sản phẩm. AI cũng có thể được sử dụng để tạo ra những ý tưởng và đổi mới (tạo ra các thiết kế mới hoặc tối ưu hóa các thiết kế hiện có), giúp các sản phẩm và quy trình được cải tiến.
Theo thông tin từ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các lớp tập huấn được tổ chức miễn phí dành cho doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh và tổ chức thử nghiệm hoạt động trên địa bàn Thành phố. Trước đó, 2 lớp tập huấn đã diễn ra là Đánh giá hiệu quả công việc (KPI) và chuyển đổi số (ngày 12-13/11) và Tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn Thành phố (ngày 19-20/11). Sắp tới, lớp tập huấn về "Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" được tổ chức từ ngày 03-04/12.
Lam Vân (CESTI)
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố nguy cơ để chẩn đoán sớm 6 loại ung thư” do tác giả Hồ Phạm Thục Lan cùng cộng sự (Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) chủ trì thực hiện, nhằm phục vụ chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp ở Việt Nam.
Tại buổi nghiệm thu, ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, ung thư hiện là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Mỗi năm, hàng trăm nghìn người Việt Nam được chẩn đoán mắc ung thư, trong đó, ung thư di căn ở giai đoạn muộn là nguyên nhân của 90% các trường hợp tử vong. Tuy nhiên, các biện pháp chẩn đoán ung thư hiện nay chủ yếu dựa trên hình ảnh học, nội soi và sinh thiết mô thường gây đau đớn, tốn kém và khó thực hiện ở giai đoạn đầu, hoặc nhiều trường hợp khối u khó tiếp cận. Trong bối cảnh này, sinh thiết lỏng có đặc điểm gắn liền với sinh bệnh học của ung thư ngay từ cấp độ tế bào, đã nổi lên như một phương pháp chẩn đoán tiềm năng với nhiều ưu điểm vượt trội. Phương pháp này mang lại độ chính xác cao, mở ra cơ hội phát hiện sớm cũng như theo dõi hiệu quả 6 loại ung thư phổ biến tại Việt Nam là ung thư phổi, vú, đại trực tràng, buồng trứng, gan và dạ dày.
Quang cảnh buổi nghiệm thu.
“Thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi hướng đến mục tiêu ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố dịch tễ lâm sàng cho chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp, góp phần phát triển dấu ấn sinh học mới, tối ưu hóa các phương pháp để phân lập, phân tích những đặc điểm phân mảnh cfDNA giúp tăng hiệu suất chẩn đoán ung thư giai đoạn sớm”, bà Lan chia sẻ thêm.
Cũng theo bà Lan, khác với sinh thiết mô truyền thống, sinh thiết lỏng là phương pháp ít xâm lấn hơn, sử dụng mẫu máu để phát hiện các dấu ấn sinh học ung thư, bao gồm DNA tự do từ tế bào ung thư (cfDNA). Phương pháp này không chỉ giảm thiểu rủi ro và sự khó chịu cho bệnh nhân mà còn có khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm. Hơn nữa, sinh thiết lỏng cho phép theo dõi tiến triển bệnh và hiệu quả điều trị theo thời gian thực.
Với đề tài này, nhóm tác giả đã tiến hành 3 nội dung chính là thu thập đối tượng nghiên cứu (gồm ước tính cỡ mẫu, xây dựng quy trình chọn nhóm bệnh, xây dựng quy trình chọn nhóm chứng: bắt cặp theo tuổi và giới tính của nhóm bệnh); xây dựng dữ liệu cho mô hình chẩn đoán (gồm xác định yếu tố nguy cơ của 6 loại ung thư cho quần thể nghiên cứu và xây dựng profile dữ liệu đột biến gen cho 6 loại ung thư); xây dựng mô hình chẩn đoán sớm cho 6 loại ung thư dựa trên sinh thiết lỏng và yếu tố lâm sàng.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã thu thập 658 ca ung thư từ 4 Bệnh viện ở TP.HCM (Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện Đại học Y Dược, Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch) và 658 ca chứng từ nghiên cứu VOS (nghiên cứu về loãng xương ở Việt Nam), được bắt cặp theo nhóm tuổi và giới tính. Tuổi trung bình của các đối tượng là 56, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ, ngoại trừ trong trường hợp ung thư vú.
Các ca ung thư bao gồm 6 loại thường gặp: phổi, gan, vú, đại trực tràng, dạ dày, thận, tất cả đều ở giai đoạn sớm (I-III) và chưa di căn. Kết quả mô bệnh học tương đồng với các nghiên cứu trong nước, tuy nhiên, phần lớn các ca có độ biệt hoá trung bình hoặc kém, cho thấy bệnh vẫn được phát hiện muộn, đặc biệt đối với ung thư phổi và dạ dày. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn giữa phân loại giai đoạn cTNM (đánh giá phân độ TNM theo lâm sàng) và pTNM (đánh giá phân độ TNM theo giải phẫu bệnh) ở tất cả các loại ung thư.
Về các yếu tố nguy cơ, mỗi loại ung thư có những yếu tố riêng, tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận các yếu tố kinh điển trong y văn như thuốc lá, rượu bia, tiền sử gia đình, nhiễm khuẩn HBV, HCV và H. pylori. Ngoài ra, chế độ ăn uống nhiều rau củ quả là yếu tố bảo vệ, trong khi ăn nhiều thịt đỏ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Triệu chứng lâm sàng, bao gồm triệu chứng tại chỗ do khối u và các triệu chứng toàn thân, phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước, tuy nhiên, các triệu chứng thường không điển hình, đồng thời xuất hiện ở giai đoạn muộn.
Trong nghiên cứu, phân tích cfDNA được thực hiện trên toàn bộ hệ gen bằng Whole Genome Sequencing, trên tập huấn luyện gồm 100 ca ung thư giai đoạn III-IIIb và 250 ca chứng, sử dụng mô hình mạng nơ-ron. Mô hình tối ưu của nhóm nghiên cứu gồm hai yếu tố: Wise-1 về lệch bội và InsideMonomer của Motif cuối đoạn, với chỉ 2.900 biến, giúp tối giản quy trình xử lý và tối ưu hiệu quả kinh tế.
Khi sử dụng mô hình Wise-1 + InsideMonomer với ba chỉ số LRScore, SVMScore và RFScore trên bộ kiểm định đa ung thư và từng loại ung thư, kết quả ghi nhận độ phân định cao giữa ung thư và không ung thư, nhưng hiệu suất chẩn đoán thay đổi theo loại bệnh, với AUC từ 0,67 đến 0,96, độ nhạy dao động từ 20% đối với ung thư thận và 84% đối với ung thư gan, tại độ đặc hiệu 98%.
Kết hợp thêm các yếu tố nguy cơ lâm sàng của quần thể nghiên cứu vào mô hình di truyền (bao gồm ba chỉ số LRScore, SVMScore, và RFScore), phân tích bằng BMA và các phương pháp học máy, hiệu suất chẩn đoán của mô hình kết hợp không cải thiện nhiều, ngoại trừ ung thư vú, khi AUC tăng từ 0,67 lên 0,83. Tuy vậy, mô hình kết hợp vẫn có giá trị lâm sàng, giúp phân tầng nguy cơ tốt hơn, từ đó lựa chọn đối tượng có nguy cơ cao để thực hiện phân tích di truyền.
ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) báo cáo kết quả đề tài tại buổi nghiệm thu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các mô hình chẩn đoán sớm có thể ứng dụng hiệu quả vào thực tế lâm sàng qua hai bước:
- Bước 1: tại tuyến cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu, sử dụng các mô hình học máy hoặc nomogram dành riêng cho yếu tố nguy cơ để nhận diện các đối tượng có nguy cơ cao. Tiếp theo sẽ rà soát các triệu chứng lâm sàng có liên quan ung thư được ghi nhận từ nghiên cứu. Nếu có triệu chứng gợi ý sẽ chuyển qua bước 2.
- Bước 2: tại tuyến trên chuyên khoa, sẽ thực hiện xét nghiệm sinh thiết lỏng để chẩn đoán sớm ung thư và dùng mô hình chẩn đoán sớm (nomogram và học máy) để quyết định bệnh nhân cần thực hiện tiếp các xét nghiệm để chẩn đoán xác định.
Nhằm hỗ trợ tốt hơn cho việc ứng dụng mô hình vào thực tiễn lâm sàng, nhóm thực hiện đề tài cũng đề xuất một số nội dung như cần có những nghiên cứu đoàn hệ với quy mô lớn, thiết kế riêng cho từng loại ung thư để tìm đặc điểm phân mảnh cfDNA riêng biệt cho mỗi loại khối u, đặc biệt đối với những loại ung thư có tỷ lệ phát hiện thấp; cần tận dụng những tiến bộ trong lĩnh vực học máy, học sâu, mạng nơ-ron để tích hợp hợp lý các yếu tố lâm sàng, sinh thiết lỏng, chẩn đoán hình ảnh và các dữ liệu omics khác (proteomics, microbiomics, metabolomics), nhằm nâng cao độ nhạy, độ đặc hiệu của mô hình, đồng thời giảm thiểu tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả; đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước với các nhóm chuyên về sinh học phân tử, di truyền học, học máy...
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu, đại diện nhóm nghiên cứu nhận định, việc kết hợp xét nghiệm chẩn đoán sớm với phân tầng nguy cơ trên nhóm nguy cơ cao sẽ nâng cao hiệu quả chẩn đoán. Điều này không chỉ mở ra triển vọng cho việc kết hợp sinh thiết lỏng và các yếu tố dịch tễ lâm sàng để phát triển công cụ chẩn đoán sớm hiệu quả, mà còn góp phần giảm thiểu gánh nặng bệnh tật, cải thiện chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư.
Minh Nhã (CESTI)
“Nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp có số lượng đơn đăng ký nộp nhiều nhất. Tuy nhiên, so với số lượng doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM hiện nay thì con số này vẫn còn thấp…”, đó là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tại Hội nghị tập huấn “Kỹ năng lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu”do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức ngày 14/11/2024 vừa qua.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu tại Hội nghị tập huấn
Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, hiện nay các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến sở hữu trí tuệ, thông qua việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, tham gia các lớp tập huấn sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm, chờ đến khi bán được hàng mới đi đăng ký nhãn hiệu hay thậm chí có những doanh nghiệp tồn tại 5 năm, 10 năm nhưng vẫn chưa đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho đến khi xảy ra tranh chấp nhãn hiệu thì mới bắt đầu tìm hiểu. Hoặc cũng có trường hợp doanh nghiệp đi đăng ký nhưng chỉ để hoàn thiện hồ sơ, phục vụ cho các mục đích khác (quảng cáo, bàn hàng trên trang thương mại điệm tử…). Do đó, Doanh nghiệp cần nhận thức vai trò sở hữu trí tuệ, sử dụng nhãn hiệu (tài sản trí tuệ) của mình để nó trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần ổn định hoạt động sản xuất của kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững… và đó chính là câu chuyện về quản trị tài sản trí tuệ.
Đồng quan điểm với bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung, khi chia sẻ thêm những thông tin liên quan đến các vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ cho rằng, hiện nay doanh nghiệp đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, nhưng không phải tất cả các chủ thể đều nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu thông qua việc đăng ký nhãn hiệu và vẫn có những nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và thương hiệu hay nhãn hiệu và tên thương mại… Điều này rất dễ phát sinh những xung đột quyền giữa tên thương mại, thương hiệu với nhãn hiệu được bảo hộ.
“Về nhãn hiệu đây là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Cũng có nhãn hiệu mang tính chất tập thể và đây là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên, của các tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Bên cạnh đó còn có nhãn hiệu mang tính chất chứng nhận và đây là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ tin cậy, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Căn cứ vào đó nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu đáp ứng thêm được các điều kiện như có dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố nêu trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa và đây cũng là một điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ 2023. Đồng thời, cũng phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”, bà Vũ Thị Phương Giang thông tin.
Bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ nhiều nội dung về cách thức đăng ký nhãn hiệu
Cũng theo bà Vũ Thị Phương Giang, một số dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu như dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế. Hay dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài và dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế cũng như dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ…
“Hiện nay, quy trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu được công khai, các cá nhân, tổ chức nếu có nhu cầu cũng có thể tra cứu thông tin, đăng ký đơn trực tuyến trên cổng thông tin của Cục Sở hữu trí tuệ ở địa chỉ https://www.ipvietnam.gov.vn”, bà Vũ Thị Phương Giang chia sẻ thêm.
Trong khuôn khổ sự kiện, những kiến thức từ buổi tập huấn còn nhanh chóng được vận dụng vào thực hành. Các đại biểu đã được hướng dẫn nhận biết các loại nhãn hiệu, tra cứu thông tin nhằm đánh giá khả năng bảo hộ nhãn hiệu trước khi nộp đơn đăng ký, hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn thực hành lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, xử lý tình huống... Một số doanh nghiệp với mong muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng được các chuyên gia nhiệt tình tư vấn tại Hội nghị tập huấn lần này.
Các cá nhân, tổ chức và đại diện các doanh nghiệp thẳng thắn đặt câu hỏi, trao đổi cùng các chuyên gia tại Hội nghị tập huấn
Ngoài ra, trong Hội nghị “Chương trình thương hiệu quốc gia và các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng phát triển thương hiệu” đã được ông Tạ Mạnh Cường - Trưởng phòng Phòng Phát triển năng lực Cúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương giới thiệu; PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh - Giảng viên cấp cao, trường Đại học Thương mại chia sẻ chuyên đề “Thương hiệu - Tiếp cận tư duy chiến lược” giúp doanh nghiệp tiếp cận thêm thông tin để xây dựng chiến lược, từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường.
Nhật Linh (CESTI)