SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

(Chinhphu.vn) - Ngày 28/11 tại TPHCM Hội nghị Khoa học và công nghệ điện lực toàn quốc năm 2025 với chủ đề "Chuyển dịch năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia" do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Hội Điện lực Việt Nam (VEEA) tổ chức với nhiều ý kiến các chuyên gia, nhà quản lý ngành điện đều khẳng định khoa học công nghệ và chuyển đổi số là động lực then chốt để ngành điện phát triển bền vững.

Theo EVN cho biết, thế giới đang bước vào giai đoạn chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ, tập trung vào năng lượng tái tạo và năng lượng mới, giảm nguyên liệu hóa thạch gắn với phát triển lưới điện thông minh. Năng lượng phải đi trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân. Để đạt các mục tiêu này thì khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực then chốt.

Một trong những mục tiêu của ngành điện Việt Nam là huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển điện lực để đảm bảo cung cấp đủ điện, ổn định, chất lượng ngày càng cao với giá điện hợp lý, đa dạng hoá các loại hình nguồn điện, nâng cao tỉ lệ nguồn năng lượng tái tạo đến năm 2030 là từ 28-36% và khoảng 75% vào năm 2050.

Ông Mai Quốc Hội, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Điện lực Việt Nam (VEEA) cho biết, những năm qua, ngành điện đã tích cực triển khai nhiều giải pháp khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, vận hành hệ thống điện. Từ đó, giúp tối ưu hóa sản xuất, truyền tải, phân phối điện, giảm lãng phí, nâng cao hiệu quả bảo đảm cung ứng điện và góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững ngành năng lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Hội nghị nhận được gần 170 bài viết và tham luận từ các đơn vị thành viên EVN, các viện nghiên cứu, trường đại học và đối tác quốc tế về các chủ đề chuyên sâu như nguồn điện, truyền tải điện, phân phối và dịch vụ khách hàng, điều độ và vận hành hệ thống và chuyển đổi số, ứng dụng AI…

Tại đây, các nhà khoa học, chuyên gia và các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực điện lực đã tập trung trao đổi những chủ đề cấp thiết của ngành điện như quy hoạch hệ thống điện, tích hợp năng lượng tái tạo, ứng dụng AI, vận hành lưới điện trong bối cảnh thâm nhập cao năng lượng tái tạo, tự động hóa nhà máy điện, nền tảng số cho trạm biến áp và điều độ hệ thống...

EVN xác định đơn vị là trụ cột đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, lãnh đạo EVN cho biết, định hướng đến năm 2030, EVN sẽ trở thành Tập đoàn Điện lực quốc gia hiện đại, thông minh, bền vững; là doanh nghiệp số toàn diện, dẫn đầu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Để thực hiện mục tiêu trên, EVN đề ra các giải pháp then chốt trong việc đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số như làm chủ công nghệ lõi, công nghệ truyền tải siêu cao áp, lưu trữ năng lượng, điều khiển tự động, ứng dụng AI; hoàn thiện cơ chế chính sách; phát triển nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao thông qua cơ chế thu hút, trọng dụng, giữ chân nhân tài, đào tạo tài năng kỹ thuật, công nghệ; bảo đảm môi trường số an toàn...

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Cường, Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Phát triển Hệ thống điện, Viện Năng lượng, Bộ Công Thương cho biết, trong quy hoạch điện 8 được Chính phủ phê duyệt năm 2025, ước tính Việt Nam cần nguồn vốn kế hoạch và định hướng lên đến hơn 266 tỷ USD để phát triển nguồn điện và lưới điện truyền tải trong 10 năm tới. Trong đó, khoảng 136 tỷ USD cho giai đoạn 2026 - 2030 và 130 tỷ USD cho giai đoạn 2031 - 2035, theo quy hoạch điện 8 điều chỉnh.

Nguồn vốn dự tính này nhằm đáp ứng mục tiêu công suất điện của quy hoạch điện 8 điều chỉnh, cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030, khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 - 2050.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển mới, nhất là yêu cầu tăng trưởng kinh tế ở hai con số, cần có sự chuẩn bị mọi mặt, đặc biệt là hạ tầng năng lượng, điện lực.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Cường, quy hoạch điện 8 điều chỉnh đã có một số cách tiếp cận mới như: Phát triển nguồn điện ngoài đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời xét đến nhu cầu xuất khẩu điện và sản xuất năng lượng mới; Phát triển hợp lý các nguồn nhiệt điện, đưa điện hạt nhân có công nghệ tiên tiến, đảm bảo an toàn cao trở thành nguồn điện nền quan trọng, góp phần đạt mục tiêu Net - zero vào năm 2050; Phát triển tối đa nguồn năng lượng tái tạo theo tiềm năng, thế mạnh từng vùng; Kết hợp với đầu tư lưới điện thông minh để đảm bảo độ tin cậy và chất lượng dịch vụ cung cấp điện…

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Cường cũng kiến nghị cần xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật về giá điện như: giá điện 2 thành phần đối với cả các hộ tiêu thụ điện và các nguồn điện; giá dịch vụ phụ trợ; khung giá các loại nguồn điện. Đồng thời, cần ban hành cơ chế khuyến khích phát triển nguồn điện mặt trời và điện gió, đặc biệt là tại Miền Bắc, có xét đến yếu tố gần trung tâm phụ tải, giảm chi phí truyền tải, đảm bảo hài hòa về hiệu quả kinh tế, tài chính cho nhà đầu tư, nhà nước và người sử dụng điện, rà soát tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính trong đầu tư, phát triển các dự án điện lực nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng khi thực hiện dự án...

Phát biểu bế mạc hội nghị, ông Đặng Hoàng An, Chủ tịch Hội đồng Thành viên EVN khẳng định các tham luận đều bám sát định hướng lớn, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ số vào thực tiễn hoạt động của ngành điện lực trong thời gian tới. Việc tổ chức hội nghị một lần nữa khẳng định khoa học - công nghệ và chuyển đổi số là đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng, chuyển dịch năng lượng bền vững và phát triển lưới điện thông minh, phù hợp Nghị quyết 57-NQ/TW và 70-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Minh Thi/BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Trí tuệ nhân tạo không làm mất việc làm theo nghĩa truyền thống, nhưng đang buộc các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp phải tổ chức lại công việc và tái phân bổ nhân lực.

Các đại biểu tham dự tại hội thảo

Tại hội thảo “Tác động của trí tuệ nhân tạo đến vị trí việc làm trong các cơ quan và doanh nghiệp” do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Hội Tin học TP.HCM tổ chức ngày 24/12/2025, nhiều chuyên gia cho rằng AI đã vượt xa khuôn khổ công nghệ, trở thành yếu tố quyết định cách tổ chức nhân lực, thay vì chỉ là công cụ hỗ trợ.

AI là chất xúc tác định hình lại công việc

Với quy mô dân số hơn 14 triệu người sau sáp nhập, khối lượng công việc hành chính tại TP.HCM đặt ra áp lực rất lớn đối với bộ máy quản lý. Trong bối cảnh đó, trí tuệ nhân tạo được xem là điều kiện cần để duy trì khả năng vận hành thông suốt, thông qua việc giảm tải các tác vụ hành chính và hỗ trợ xử lý, phân tích dữ liệu ở quy mô lớn.

Ông Nguyễn Trọng Ngân, Trưởng phòng Kinh tế số – Xã hội số (Sở KH&CN TP.HCM)

Theo ông Nguyễn Trọng Ngân, Trưởng phòng Kinh tế số – Xã hội số (Sở KH&CN TP.HCM), AI và dữ liệu được xác định là nguồn lực chiến lược cần quản lý theo mức độ rủi ro, bảo đảm an toàn, minh bạch và lấy con người làm trung tâm. Cách tiếp cận này cho thấy AI không phải là công cụ thay thế nhân lực, mà là yếu tố buộc các cơ quan phải tổ chức lại công việc và tái phân bổ nguồn nhân lực theo năng lực thực chất.

Liên quan đến công tác nhân lực, ông Ngân cho biết quá trình rà soát đã xác định 51 trường hợp trình độ trung cấp hoặc cao đẳng thuộc nhóm cần đào tạo lại hoặc tinh giản. Đây là nhóm được ưu tiên tham gia chương trình “xóa mù AI”, nhằm trang bị nhận thức và kỹ năng ứng dụng AI ở mức phù hợp, từ đó tái phân bổ sang các vị trí công việc đòi hỏi kỹ năng mềm, xử lý tình huống và công tác xã hội, thay vì tiếp tục đảm nhiệm các nhiệm vụ hành chính thuần túy.

Giáo dục và tái phân bổ thời gian, nguồn lực

Ở lĩnh vực giáo dục, góc nhìn của ông Wilson Liêu, Chủ tịch Liên minh Phát triển năng lực AI Việt Nam (AICA), phản ánh xu hướng tương tự. Ông Liêu cho rằng AI không làm thay vai trò người thầy, mà thay đổi cách tổ chức công việc trong nhà trường. AI hỗ trợ tổng hợp báo cáo, quản lý dữ liệu học sinh, điểm danh, xếp thời khóa biểu hay hỗ trợ đánh giá học tập về những tác vụ có thể tự động hóa để giáo viên có thêm thời gian tập trung vào giáo dục nhân cách, truyền cảm hứng và tương tác với học sinh.

76% nhu cầu tuyển dụng yêu cầu kỹ năng AI, buộc doanh nghiệp tái cấu trúc nhân sự

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phí Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Tin học TP.HCM, cho rằng trí tuệ nhân tạo đang trở thành động lực thúc đẩy quá trình tái cấu trúc tổ chức và nhân sự theo chiều sâu. AI không chỉ tự động hóa công việc, mà buộc doanh nghiệp phải tổ chức lại lực lượng lao động theo hướng lấy kỹ năng làm trung tâm, thay cho mô hình quản trị cứng theo chức danh. AI không làm mất việc làm hàng loạt, nhưng đang thu hẹp nhanh các vị trí thuần tác vụ, đồng thời gia tăng giá trị của những vai trò biết sử dụng AI hiệu quả trong vận hành và ra quyết định.

Xu hướng này được phản ánh rõ qua các số liệu thị trường lao động, khi 76% nhu cầu tuyển dụng hiện nay yêu cầu kỹ năng liên quan đến AI, trong khi tỷ lệ nhân lực có kỹ năng số tại Việt Nam mới khoảng 15%. Khoảng cách lớn giữa cung và cầu đang tạo áp lực tái cấu trúc nhân sự đối với nhiều ngành, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - ngân hàng, nơi AI được ứng dụng sớm và ở mức độ sâu.

Theo chuyên gia Lù Duy Nguyên (Công ty Cổ phần BCP), AI đang được ứng dụng rộng trong các hoạt động cốt lõi của ngành ngân hàng như chấm điểm tín dụng, quản trị rủi ro, phát hiện gian lận và chăm sóc khách hàng. Việc tự động hóa các tác vụ xử lý dữ liệu lớn đang làm thay đổi yêu cầu đối với vị trí việc làm, buộc doanh nghiệp phải nâng cấp kỹ năng và tái cấu trúc nhân sự.

Ông Nguyên cho rằng thách thức lớn nhất hiện nay không nằm ở công nghệ, mà ở năng lực thích ứng của đội ngũ nhân sự, khi giá trị lao động dịch chuyển sang các vai trò phân tích, ra quyết định, kiểm soát rủi ro và tương tác với khách hàng.

Từ thực tế ứng dụng công nghệ trong nhiều lĩnh vực, có thể thấy AI không làm mất việc theo cách thủ công truyền thống, nhưng buộc các tổ chức phải tái cấu trúc công việc và nhân lực. Việc chuẩn bị nguồn nhân lực theo hướng “xóa mù AI” đặt trọng tâm vào kỹ năng sử dụng công nghệ và giá trị công việc mà được xem là yếu tố quyết định khả năng thích ứng và hiệu quả vận hành của các tổ chức trong kỷ nguyên số.

Chia sẻ thêm tại hội thảo, Phó Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM Nguyễn Hoàng Bảo Trân cho rằng, trí tuệ nhân tạo đã trở thành công nghệ nền tảng, tác động trực tiếp đến phương thức quản lý, điều hành và tổ chức lao động trong cả khu vực công lẫn khu vực doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước không chỉ là thúc đẩy ứng dụng công nghệ, mà còn định hướng chính sách, hỗ trợ quá trình chuyển đổi và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu mới.

Nguyễn Tuyết

Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ nhanh chưa từng có. Nếu năm 2014 cả nước mới có khoảng 9,5 triệu người cao tuổi thì đến nay, con số này đã tăng lên 16,5 triệu. Theo dự báo, chỉ hơn một thập niên nữa, Việt Nam sẽ chính thức trở thành quốc gia có dân số già.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng đằng sau thách thức này là sự hình thành của một thị trường tiềm năng, nền "kinh tế bạc". Khái niệm này mô tả các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động kinh tế được phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người cao tuổi.

Tại Việt Nam, tư duy phát triển "kinh tế bạc" vẫn còn khá mới. Hiện các chính sách dành cho người cao tuổi chủ yếu tập trung vào trợ cấp xã hội, bảo hiểm và chăm sóc y tế. Trong khi đó, các lĩnh vực giàu tiềm năng như y tế lão khoa, điều dưỡng, nhà ở thích nghi, du lịch an toàn, thực phẩm chức năng và các công nghệ hỗ trợ vẫn chưa được khai thác tương xứng.

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều chuyên gia cho rằng đây là thời điểm để Việt Nam tích hợp công nghệ số vào chiến lược phát triển "kinh tế bạc". Các ứng dụng chăm sóc sức khỏe từ xa, thiết bị đeo giám sát sức khỏe, nền tảng tư vấn y tế trực tuyến, dịch vụ hành chính công số hay ngân hàng số thân thiện với người lớn tuổi… có thể mở rộng đáng kể khả năng tiếp cận dịch vụ của nhóm dân số này. Công nghệ không chỉ hỗ trợ chăm sóc mà còn giúp người cao tuổi tham gia các hoạt động xã hội, học tập suốt đời và tiêu dùng trực tuyến – những mắt xích quan trọng của nền kinh tế hiện đại.

Theo Phó Thủ tướng Lê Thành Long, để thị trường này phát triển, cần sớm tháo gỡ hai nút thắt lớn là đất đai và thuế là những yếu tố chi phối mạnh mẽ quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Khi cơ chế chính sách được hoàn thiện theo hướng "mở đường thông hè thoáng", khu vực tư nhân mới mạnh dạn tham gia vào lĩnh vực này, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ có năng lực triển khai mô hình dịch vụ số quy mô lớn.

 
Bộ Y tế đề xuất cho người dân tự quyết số con để ngăn chặn việc già hóa dân số.
Bộ Y tế đề xuất cho người dân tự quyết số con để ngăn chặn việc già hóa dân số.
 

Cùng với đó, Việt Nam cần thay đổi quan niệm về người cao tuổi. Đây không phải là nhóm dân số "gánh nặng" mà là lực lượng có kinh nghiệm sống, kỹ năng nghề nghiệp và tiềm năng tiêu dùng đáng kể. Thực tế tại nhiều quốc gia phát triển đã chứng minh điều này. Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam Trương Xuân Cừ cho biết: tại Nhật Bản, người trên 65 tuổi đóng góp khoảng 20% GDP; ở Mỹ, nhóm trên 50 tuổi tạo ra tới 46% GDP.

Những con số trên khẳng định người cao tuổi không chỉ là đối tượng thụ hưởng an sinh mà còn là lực lượng kinh tế quan trọng. Để phát huy nguồn lực này, các lĩnh vực như y tế, bảo hiểm, công nghệ, bất động sản, du lịch và giáo dục cần phối hợp chặt chẽ nhằm hình thành hệ sinh thái sản phẩm – dịch vụ dành riêng cho người lớn tuổi. Chuyển đổi số đóng vai trò then chốt để kết nối các lĩnh vực này, tạo ra những mô hình dịch vụ mới như trung tâm dưỡng lão thông minh, nhà ở tích hợp IoT, bảo hiểm vi mô trên nền tảng số hay du lịch an toàn qua ứng dụng.

Cùng với đó, tư duy phát triển cũng cần chuyển từ "chăm sóc người cao tuổi" sang "phục vụ và khai thác tiềm năng của người cao tuổi". Chuyển đổi số cần được xem là công cụ quan trọng để tạo môi trường sống độc lập, an toàn và tiện lợi hơn cho người già, đồng thời thúc đẩy họ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế – xã hội.

Phó Thủ tướng Lê Thành Long nhấn mạnh, trước mắt cần hệ thống hóa toàn bộ chính sách về người cao tuổi, từ đó xây dựng đề án chung có cơ chế ưu đãi, tiêu chuẩn dịch vụ và hệ thống giám sát chất lượng phù hợp. Khi nền tảng chính sách được hoàn thiện và chuyển đổi số được triển khai đồng bộ, nền "kinh tế bạc" sẽ thực sự vận hành, biến già hóa dân số từ thách thức thành cơ hội vàng cho phát triển bền vững.

 
Trung tâm Truyền thông KH&CN

Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM vừa có văn bản gửi đến UBND các phường, xã, đặc khu cùng các cơ quan báo chí trên địa bàn, đề nghị đẩy mạnh công tác tuyên truyền các hoạt động hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2025, nhằm lan tỏa nhận thức và khuyến khích sự tham gia của toàn dân trong tiến trình chuyển đổi số.

Theo đó, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM đề nghị UBND các phường, xã, đặc khu sử dụng hệ thống thông tin cơ sở (hệ thống truyền thanh, bảng tin công cộng, bản tin cơ sở, cổng/trang thông tin điện tử, mạng xã hội,…) thực hiện cổ động, tuyên truyền Chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là “Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình để tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế số”.

Tiếp tục phát huy tinh thần hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia hằng năm, chủ đề của Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2025 là “Chuyển đổi số: nhanh hơn, hiệu quả hơn, gần dân hơn”, nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số; Khuyến khích sự tham gia của người dân, chính quyền và doanh nghiệp.

chuyendoiso(1).jpeg

TP.HCM dẫn đầu cả nước về Chỉ số Chuyển đổi số (DTI) năm 2024, tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu chuyển đổi số quốc gia

Đối với các cơ quan báo chí cần tăng cường tuyên truyền các chiến dịch, hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng dưới nhiều hình thức về thông điệp Ngày Chuyển đổi số quốc gia 2025, các hoạt động hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2025 của Thành phố tại các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các phường, xã, đặc khu, các ứng dụng số…

Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền phong trào “Bình dân học vụ số” tại Thành phố giai đoạn 2025 - 2026 theo Kế hoạch số 97/KH-UBND ngày 22 tháng 9 của UBND Thành phố năm 2025. Chiến dịch ra quân “đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người dân sử dụng dịch vụ, ứng dụng để phát triển kinh tế số” của Tổ công nghệ số cộng đồng.

Ngoài ra, đưa tin rộng rãi các hoạt động triển lãm giới thiệu các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ số mới, có giá trị cho người dân, doanh nghiệp TP.HCM.

Các diễn đàn, Hội thảo, Tọa đàm thảo luận đánh giá những mặt mạnh, hạn chế và giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, xã hội số trên địa bàn Thành phố. Các sản phẩm về Đề án 06, các mô hình điểm đã thí điểm có hiệu quả trên địa bàn TP.HCM.

Trước đó, ngày 15/10/2025, UBND TP.HCM đã ban hành Kế hoạch tổ chức hoạt động hưởng ứng Ngày chuyển đổi số quốc gia năm 2025 trên địa bàn Thành phố.

Kế hoạch nhằm tăng cường truyền thông, quảng bá nâng cao nhận thức của người dân về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số; khuyến khích sự tham gia của người dân, chính quyền và doanh nghiệp.

Đồng thời tạo cơ hội trao đổi, hợp tác giữa các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, giải pháp chuyển đổi số, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác chuyển đổi số và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn Thành phố. Thời gian tổ chức các hoạt động đến 30/11/2025.

Theo kế hoạch, các hoạt động sẽ diễn ra từ ngày 10/10 đến 30/11/2025, gồm chiến dịch truyền thông đa phương tiện; phong trào “Bình dân học vụ số”; triển lãm công nghệ và dịch vụ số; các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên đề; chiến dịch ra quân của Tổ công nghệ số cộng đồng; cùng các chương trình ưu đãi, khuyến khích sử dụng sản phẩm, dịch vụ số và ký số điện tử. Ngoài ra, Thành phố sẽ phát động các cuộc thi sáng tạo về chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong học tập, lao động và đời sống xã hội.

Trong diễn biến liên quan, TP.HCM tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu chuyển đổi số của cả nước khi dẫn đầu nhóm 63 tỉnh, thành và xếp thứ tư trong nhóm 34 tỉnh, thành sau sáp nhập, theo kết quả đánh giá Chỉ số Chuyển đổi số (DTI) năm 2024 do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

Cụ thể, TP.HCM đạt thứ hạng cao ở các tiêu chí về nhận thức số, thể chế số, hạ tầng số, kinh tế số và xã hội số, thể hiện nỗ lực duy trì tốc độ phát triển, mở rộng quy mô quản trị và đổi mới trong năm đầu tiên thực hiện mô hình hành chính mới sau sáp nhập. Kết quả này một lần nữa khẳng định TP.HCM là địa phương tiên phong, giữ vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Nhật Hạ/TẠP CHÍ KHOA HỌC PHỔ THÔNG

Theo các bảng xếp hạng quốc tế cập nhật đến tháng 10/2025, tốc độ Internet băng rộng cố định của Việt Nam đã vươn lên xếp thứ 10 thế giới, trong khi Internet di động băng rộng đứng thứ 15 toàn cầu. Sau gần một năm thương mại hóa, mạng 5G đã phủ sóng khoảng 59% dân số, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế số, chính phủ số và xã hội số.

 
Thông tin trên được Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Đức Long công bố tại Internet Day 2025, diễn ra ngày 17/12/2025 tại Hà Nội với chủ đề "Kiến tạo không gian số tin cậy – Internet Must Be Safer". 

Sự kiện do Hiệp hội Internet Việt Nam (VIA) phối hợp Trung tâm Internet Việt Nam, Bộ KH&CN cùng các doanh nghiệp công nghệ tổ chức.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Đức Long và nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực nghe báo cáo tại gian hàng Viettel IDC.


Sau gần ba thập kỷ phát triển, Internet đã trở thành một phần không thể tách rời của đời sống kinh tế – xã hội Việt Nam. Hạ tầng Internet ngày càng hiện đại, độ phủ rộng khắp, mức độ tham gia của người dân và doanh nghiệp vào môi trường số ngày càng sâu rộng; chất lượng kết nối liên tục được cải thiện, tiệm cận các quốc gia phát triển.

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Phạm Đức Long, khi bước sang giai đoạn phát triển mới, thách thức không còn nằm ở việc mở rộng quy mô hay gia tăng tốc độ, mà là định hướng phát triển Internet theo chiều sâu, bảo đảm phát huy hiệu quả các thành tựu đã đạt được, phục vụ mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và bao trùm.


Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột then chốt của phát triển quốc gia. Trong bối cảnh đó, Internet không chỉ đơn thuần là hạ tầng kỹ thuật, mà trở thành không gian phát triển, nơi các hoạt động KHCN, dữ liệu, nền tảng số và đổi mới sáng tạo được kết nối và chuyển hóa thành giá trị thực tiễn.

Thứ trưởng Phạm Đức Long nhấn mạnh, Internet Việt Nam đang dịch chuyển từ vai trò hạ tầng kết nối sang hạ tầng số cho nền kinh tế số, bao gồm kết nối, năng lực tính toán, dữ liệu, nền tảng và an toàn thông tin. Đây là yếu tố then chốt quyết định năng suất, năng lực cạnh tranh và khả năng tự chủ của nền kinh tế số Việt Nam trong tương lai.

Theo Thứ trưởng Phạm Đức Long, Internet muốn phát triển bền vững trước hết phải được xây dựng trên nền tảng niềm tin: Niềm tin giữa con người với con người trong môi trường số và niềm tin của toàn bộ hệ sinh thái số, nơi các nền tảng công nghệ, dữ liệu và cộng đồng cùng vận hành, cùng tạo ra giá trị.

"Niềm tin không tự nhiên hình thành mà cần được kiến tạo một cách có chủ đích, thông qua thể chế, chuẩn mực, sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội", Thứ trưởng Phạm Đức Long khẳng định.

Cùng quan điểm, ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam cho rằng, thách thức lớn nhất của Internet hiện nay không còn nằm ở tốc độ đường truyền hay độ phủ sóng, mà là việc xây dựng một không gian số an toàn, đáng tin cậy.


Mặt trái của sự bùng nổ các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn đang bị lợi dụng cho lừa đảo trực tuyến, thao túng tâm lý và trục lợi với mức độ ngày càng tinh vi. Trong gần 80 triệu người dùng Internet tại Việt Nam, không ít người đã trở thành nạn nhân của các hành vi vi phạm trên không gian mạng.

Ông Vũ Hoàng Liên chia sẻ, khi niềm tin bị tổn thương, người dùng trở nên e ngại trước mỗi cú nhấp chuột; doanh nghiệp chùn bước trong chuyển đổi số vì lo ngại mất an toàn dữ liệu.

Theo quyền Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) Nguyễn Trường Giang, các rủi ro an toàn Internet tồn tại ở mọi lớp mạng. Ở hạ tầng vật lý là rủi ro đứt cáp, mất điện, lỗi thiết bị. Ở hạ tầng kết nối là hình thức tấn công mạng như DDoS, phishing, cùng sự phụ thuộc vào đường truyền quốc tế. Với hạ tầng lõi, rủi ro lớn nhất nằm ở an toàn định tuyến - yếu tố gốc rễ của Internet.

Tuy nhiên, sau khi phát hiện nguy cơ, VNNIC đã phối hợp với các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp bảo mật định tuyến. Nhờ triển khai sớm biện pháp từ năm 2020, đến nay tỷ lệ bảo vệ các vùng địa chỉ Internet của Việt Nam đạt 97%. Bên cạnh đó, 14.000 tên miền được bảo vệ, nhằm bảo đảm an toàn danh tính số.

Từ góc nhìn khu vực, ông Filip Graovac, đại diện Quỹ châu Á, cho rằng niềm tin số là nền tảng của nền kinh tế số. Sự gia tăng tỷ lệ thâm nhập của Internet đã làm thay đổi hành vi tiêu dùng, đặc biệt tại đô thị lớn. Trung bình 3/5 người dùng châu Á thường xuyên mua sắm trực tuyến, khoảng 60% giao dịch thực hiện qua thanh toán số. Vì thế, tăng trưởng kinh tế số chỉ được tạo ra khi người dân và doanh nghiệp thực sự tin môi trường số.

Theo các bảng xếp hạng quốc tế, tính đến tháng 10, tốc độ Internet băng rộng cố định của Việt Nam xếp thứ 10 thế giới, Internet di động băng rộng đứng thứ 15. Hạ tầng số Việt Nam hiện xếp hạng 67/193 quốc gia, tăng 7 bậc so với năm 2022.

Việt Nam hiện có 7 tuyến cáp quang biển kết nối quốc tế; hạ tầng dữ liệu mở rộng nhanh với 45 trung tâm dữ liệu. Khoảng 85% hộ gia đình đã sử dụng Internet cáp quang. Sau gần một năm thương mại hóa, mạng 5G phủ sóng 59% dân số, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Theo Cục Viễn thông, mạng di động phủ sóng rộng khắp cả nước, với mức giá dịch vụ phổ cập, phù hợp với đa số người dân.

 
Trung tâm Truyền thông KH&CN

Trong hành trình chuyển đổi số, người cao tuổi từng được xem là nhóm yếu thế, khó tiếp cận công nghệ. Tuy nhiên, từ những lớp học nhỏ ở tổ dân phố, nhà văn hóa thôn bản đến các mô hình "Bình dân học vụ số", "Nhà văn hóa số", ngày càng nhiều người cao tuổi đang chủ động bước vào không gian số, trở thành minh chứng sinh động cho một quá trình chuyển đổi số bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau.

Tại Hải Phòng, việc "gỡ rào cản" công nghệ cho người dân, trong đó có người cao tuổi, được xác định là nhiệm vụ trọng tâm khi triển khai chuyển đổi số từ cơ sở. Theo Sở Khoa học và Công nghệ thành phố, rào cản lớn nhất không nằm ở thiết bị hay hạ tầng, mà ở tâm lý e ngại, thiếu kỹ năng và thói quen sử dụng công nghệ của một bộ phận người dân lớn tuổi. Vì vậy, cách làm được lựa chọn là "cầm tay chỉ việc", lấy những nhu cầu thiết thực nhất làm điểm khởi đầu.

Giữa tháng 11/2025, tại phường Nhị Chiểu, hơn 200 học viên, trong đó nhiều người đã ngoài 50, 60 tuổi, tham gia lớp tập huấn chuyển đổi số do Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức. Nội dung không nặng về lý thuyết, mà bắt đầu từ những thao tác rất cơ bản: Mở điện thoại thông minh, cài đặt và sử dụng ứng dụng "Smart Hải Phòng", nộp hồ sơ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, tra cứu thông tin y tế, an sinh xã hội. Thậm chí, học viên còn được làm quen với một số ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) ở mức độ đơn giản.

Bà Nguyễn Thị Thương, 58 tuổi, ở tổ dân phố Phú Thứ 1, chia sẻ: "Trước đây, cứ nghe đến thủ tục hành chính là ngại, vì sợ thiếu giấy tờ, sợ đi lại nhiều lần. Nay được hướng dẫn từng bước, tôi mới thấy chỉ vài thao tác trên điện thoại là có thể nộp hồ sơ trực tuyến, vừa nhanh vừa minh bạch". Từ chỗ bỡ ngỡ, nhiều người cao tuổi như bà Thương dần hình thành thói quen sử dụng dịch vụ công trực tuyến, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào con cháu hay cán bộ cơ sở.

Trong khi đó, tại các xã, thôn vùng cao của Lào Cai, hành trình đưa công nghệ đến với người cao tuổi cũng đang diễn ra một cách bền bỉ. Mô hình "Nhà văn hóa số" tại thôn Nghĩa Dũng, xã Lâm Giang là một ví dụ điển hình. Tại đây, người dân lớn tuổi được hỗ trợ tích hợp thẻ bảo hiểm y tế, sử dụng VNeID, khai báo hộ tịch, đăng ký cư trú, nộp hồ sơ dịch vụ công mức độ 3–4. Những thủ tục trước kia phải đi hàng chục cây số nay được giải quyết ngay tại thôn, với sự hỗ trợ trực tiếp của cán bộ và lực lượng trẻ tình nguyện.

Điểm chung trong các mô hình này là sự tham gia tích cực của các "hạt nhân số" tại cộng đồng. Ở Hải Phòng, tổ công nghệ số cộng đồng được triển khai tại các thôn, tổ dân phố của 114 xã, phường, đặc khu, với lực lượng nòng cốt là cán bộ cơ sở, đoàn viên thanh niên, hội viên các đoàn thể. Mỗi thành viên vừa là người học, vừa là người hướng dẫn, đặc biệt chú trọng hỗ trợ người cao tuổi, nhóm cần nhiều thời gian và sự kiên nhẫn nhất.

Phong trào "Bình dân học vụ số" do Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp phát động cũng cho thấy vai trò quan trọng của phụ nữ trung niên và cao tuổi trong lan tỏa kỹ năng số. Tại các lớp học số "Đồng hành công nghệ", nhiều chị em lần đầu tiên biết cách cài ứng dụng, tra cứu thông tin, nộp hồ sơ trực tuyến. Các mô hình "Gia đình số", "Chi hội số" không chỉ giúp người cao tuổi tự tin hơn với công nghệ, mà còn tạo sự gắn kết giữa các thế hệ trong gia đình, khi con cháu cùng hỗ trợ, cùng học hỏi.

Từ thực tiễn cho thấy, khi người cao tuổi được tiếp cận công nghệ theo cách phù hợp, chuyển đổi số không còn là khái niệm xa vời. Ngược lại, họ trở thành những người sử dụng công nghệ một cách thận trọng, có trách nhiệm, biết khai thác tiện ích số để phục vụ đời sống hằng ngày: từ chăm sóc sức khỏe, tiếp cận chính sách an sinh, đến tham gia phản ánh, góp ý với chính quyền cơ sở.

Chuyển đổi số chỉ thực sự thành công khi mọi người dân đều có thể tham gia và thụ hưởng. Việc người cao tuổi từng bước làm chủ công nghệ không chỉ góp phần giảm tải cho bộ máy hành chính, mà còn khẳng định tinh thần học tập suốt đời, thích ứng với thời đại số. Đó chính là nền tảng quan trọng để xây dựng một xã hội số nhân văn, bao trùm và bền vững./.

 
Trung tâm Truyền thông KH&CN

Trong khuôn khổ Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo quốc gia (Techfest) Việt Nam 2025, sáng 14/12, tại trụ sở Báo Nhân Dân đã diễn ra hội thảo "Khởi nghiệp sáng tạo trong kinh tế xanh và bền vững".

Thiếu hệ thống minh bạch đủ mạnh để thuyết phục thị trường

Phát biểu tại hội thảo, Bà Jlo Trần, đồng sáng lập và Giám đốc điều hành VBI Academy, đại diện GFI Ventures đã trình bày tham luận "Blockchain và minh bạch chuỗi giá trị cho khởi nghiệp bền vững". Theo bà, khủng hoảng niềm tin trong chuỗi giá trị toàn cầu đang trở thành thách thức lớn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các startup và SME.

Dẫn các nghiên cứu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF, 2022), bà JLo Chan cho biết, 94% người tiêu dùng cho rằng minh bạch thương hiệu giúp gia tăng niềm tin, trong khi 73% sẵn sàng trả giá cao hơn cho các sản phẩm minh bạch. Xu hướng toàn cầu đang dịch chuyển từ xây dựng thương hiệu dựa trên cảm tính sang niềm tin dựa trên dữ liệu có thể kiểm chứng, trong đó minh bạch chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc trở thành yêu cầu bắt buộc.

Tại Việt Nam, startup và doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp (theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2023). Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này đang đối mặt với nhiều thách thức như quy mô nhỏ, áp lực tuân thủ ngày càng lớn, dữ liệu phân mảnh, thiếu hệ thống minh bạch đủ mạnh để thuyết phục thị trường, đối tác và nhà đầu tư.

Theo bà JLo Chan, truy xuất nguồn gốc không đơn thuần là dán mã QR hay cung cấp thông tin mô tả, mà phải là khả năng theo dõi toàn bộ vòng đời sản phẩm, từ nguyên liệu, sản xuất, logistics đến phân phối và người tiêu dùng, với dữ liệu liên thông, nhất quán và không thể chỉnh sửa ngược. Đây cũng là lý do nhiều hệ thống truy xuất hiện nay chỉ mang tính hình thức, chưa đủ độ tin cậy để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, ESG hay tài chính xanh.

Ở góc độ công nghệ, blockchain được đánh giá là giải pháp cốt lõi giúp giải quyết bài toán niềm tin dữ liệu. Với các đặc tính như không thể sửa đổi, minh bạch, bảo mật cao, phi tập trung và khả năng tự động hóa thông qua hợp đồng thông minh, blockchain giúp doanh nghiệp chứng minh sự minh bạch bằng dữ liệu thay vì lời cam kết.

Đáng chú ý, công nghệ blockchain đang được xác định là một trong những chiến lược quốc gia trọng điểm giai đoạn 2025–2030. Các chính sách như Quyết định số 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 16/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước và Chiến lược quốc gia về ứng dụng và phát triển công nghệ chuỗi khối ban hành năm 2024 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc ứng dụng blockchain trong quản lý, dịch vụ công và hoạt động doanh nghiệp.

"Trong kỷ nguyên số, niềm tin không còn được xây dựng bằng lời hứa, mà bằng dữ liệu. Blockchain giúp startup thiết kế minh bạch ngay từ đầu, chuẩn hóa dữ liệu theo tiêu chuẩn quốc tế và tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn," bà JLo Chan nhấn mạnh.

Mô hình kinh doanh tuần hoàn – nền tảng cạnh tranh của khởi nghiệp xanh

Tiếp nối chương trình, TS. Nguyễn Hồng Hải đã trình bày tham luận "Mô hình kinh doanh tuần hoàn trong khởi nghiệp xanh: Bài học từ mô hình Forest Ecopreneur – Viginseng", tiếp cận vấn đề từ góc nhìn mô hình hóa và chính sách.

Theo TS. Nguyễn Hồng Hải, mô hình kinh doanh tuần hoàn (Circular Business Model – CBM) là cấu trúc vận hành doanh nghiệp được thiết kế nhằm tạo, phân phối và thu giữ giá trị dựa trên hiệu quả sử dụng tài nguyên, thay vì gia tăng khai thác tài nguyên nguyên sinh. Trong CBM, "xanh" không phải là thuộc tính của sản phẩm, mà là cách doanh nghiệp tổ chức toàn bộ hệ thống hoạt động, từ chuỗi cung ứng, công nghệ đến quan hệ đối tác và phân phối giá trị.

CBM được xây dựng trên ba nguyên lý kỹ thuật cốt lõi: kéo dài vòng đời tài nguyên (Slowing Loops), khép kín dòng vật chất (Closing Loops) và giảm tiêu thụ tài nguyên nguyên sinh (Narrowing Loops). Đây là những tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ "tuần hoàn thực chất" của một startup, thay vì chỉ dừng ở tuyên bố hay thông điệp môi trường.

Phân tích trường hợp Viginseng – Forest Ecopreneur, TS. Nguyễn Hồng Hải cho thấy, việc ứng dụng công nghệ chiết xuất tiên tiến như hỗ trợ bằng sóng siêu âm (UAE) không chỉ giúp giảm 40–70% năng lượng tiêu thụ, giảm dung môi và chất thải, mà còn nâng cao hiệu suất chiết xuất hoạt chất, qua đó gia tăng giá trị kinh tế và giảm dấu chân carbon.

Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Hồng Hải, khởi nghiệp xanh hiện vẫn đang đối mặt với nhiều "nút thắt" như chuỗi giá trị tuyến tính, hạn chế về công nghệ, thiếu minh bạch ESG và bất bình đẳng trong phân phối giá trị. Đây là những rào cản lớn khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tài chính xanh và mở rộng quy mô bền vững.

Từ đó, TS. Nguyễn Hồng Hải nhấn mạnh ba thông điệp chính sách: Mô hình kinh doanh tuần hoàn không phải là lựa chọn đạo đức mà là nền tảng cạnh tranh; tái tạo tài nguyên có thể thay thế mô thức khai thác truyền thống; và một mô hình đúng có thể tạo tác động lớn hơn nhiều lần so với quy mô doanh nghiệp.

"Điều quan trọng không phải là có bao nhiêu doanh nghiệp xanh, mà là có bao nhiêu mô hình kinh doanh xanh có thể nhân rộng và đứng vững trên thị trường," TS. Nguyễn Hồng Hải khẳng định, đồng thời kiến nghị Nhà nước chuyển trọng tâm từ hỗ trợ doanh nghiệp đơn lẻ sang thiết kế các công cụ điều phối mô hình như Green Taxonomy, cụm đổi mới sáng tạo tuần hoàn và cơ chế tài chính xanh linh hoạt.

Khung pháp lý trong hành trình phát triển kinh tế xanh và bền vững

Các đại biểu cũng phân tích sâu các chính sách, pháp luật mới đang tạo hành lang thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo gắn với tăng trưởng xanh. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2025/NĐ-CP; cùng Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg (có hiệu lực từ tháng 8/2025) đã lần đầu tiên ban hành khung phân loại quốc gia, định nghĩa rõ thế nào là dự án xanh.

 

Bên cạnh đó, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa với chương riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; Nghị định số 264/2025/NĐ-CP về Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia và quỹ đầu tư mạo hiểm của địa phương; Nghị định số 268/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo… đã cụ thể hóa cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước để khuyến khích đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, đồng thời công nhận trung tâm đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Đặc biệt, Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, được kỳ vọng sẽ trở thành "khung đánh giá rủi ro" mới, giúp các tổ chức tín dụng và quỹ đầu tư thẩm định dự án số gắn với tài chính xanh một cách minh bạch, hiệu quả hơn.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Tuyết Nhung, Phó Hiệu trưởng Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ, Học viện Ngân hàng, nhận định rằng, nhiều doanh nghiệp nhỏ và startup hiện nay có sản phẩm tốt, mô hình kinh doanh bền vững, song lại thiếu dữ liệu chứng minh hiệu quả môi trường, dẫn đến khó tiếp cận các nguồn vốn xanh.

Theo bà Nhung, căn cứ Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg, doanh nghiệp cần xác định rõ mô hình kinh doanh, sản phẩm hoặc dịch vụ của mình thuộc nhóm nào trong Danh mục phân loại xanh, như năng lượng sạch, sản xuất xanh, nông nghiệp bền vững, quản lý chất thải và kinh tế tuần hoàn, giao thông xanh hay xây dựng và đô thị bền vững.

 

Các ý kiến tại hội thảo thống nhất rằng, trong kỷ nguyên số, niềm tin không còn được xây dựng bằng cam kết hay lời hứa, mà bằng dữ liệu có thể kiểm chứng. Blockchain vì thế không chỉ là công cụ quản lý, mà đang trở thành nền tảng kiến tạo minh bạch, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển bền vững và vươn ra thị trường khu vực, toàn cầu.

Nhân dịp này, lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa các đơn vị và Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia đã được tổ chức, mở ra thêm những cơ hội liên kết, hỗ trợ thiết thực cho cộng đồng startup trong hành trình phát triển kinh tế xanh và bền vững.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

UBND TP Hồ Chí Minh vừa ban hành “Chiến lược chuyển đổi số TP Hồ Chí Minh đến năm 2030” được xác định là động lực then chốt để TP Hồ Chí Minh duy trì vai trò đầu tàu kinh tế, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của cả nước...

Đặt con người ở trung tâm chuyển đổi số

Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số toàn diện, TP Hồ Chí Minh phấn đấu đến năm 2030 phủ sóng 5G đạt 100% người dân, bảo đảm mọi người sử dụng đều có khả năng truy cập Internet băng rộng cố định với tốc độ trên 1 Gbit/s. Mạng di động 4G, 5G được nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển các dịch vụ số thế hệ mới.

Cùng với đó, thành phố tập trung đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, trung tâm dữ liệu dự phòng và kết nối đồng bộ với trung tâm dữ liệu quốc gia. Đáng chú ý, TP Hồ Chí Minh đặt mục tiêu thu hút đầu tư các trung tâm dữ liệu siêu lớn (Hyperscale Data Center), trung tâm dữ liệu phục vụ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây và dữ liệu lớn. Đây được xem là “trái tim số” của đô thị thông minh, tạo nền tảng cho các ứng dụng AI trong quản lý giao thông, y tế, giáo dục, quy hoạch và điều hành kinh tế - xã hội.

TP Hồ Chí Minh cũng đặt mục tiêu đến năm 2030, 100% thủ tục hành chính được tiếp nhận, giải quyết phi địa giới hành chính; 100% hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính được số hóa; ít nhất 85% hồ sơ được xử lý trực tuyến. Điều này không chỉ giúp giảm thời gian, chi phí cho người dân và doanh nghiệp mà còn thay đổi căn bản cách thức vận hành của bộ máy chính quyền. Quản lý, điều hành dựa trên dữ liệu, kết nối thời gian thực sẽ giúp lãnh đạo thành phố đưa ra quyết định nhanh hơn, chính xác hơn, phù hợp với thực tiễn biến động nhanh của một siêu đô thị.

Kinh tế số, xã hội số toàn dân

Trong bối cảnh các động lực tăng trưởng truyền thống dần bộc lộ hạn chế, TP Hồ Chí Minh kỳ vọng kinh tế số sẽ trở thành trụ cột quan trọng. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030, quy mô kinh tế số chiếm từ 30 - 40% GRDP của thành phố. Để đạt được mục tiêu này, thành phố tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong quá trình chuyển đổi số. Từ khảo sát, đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số, đến xây dựng cẩm nang số, đội ngũ tư vấn và các gói hỗ trợ phù hợp, chính quyền thành phố đóng vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện để doanh nghiệp từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh.

Song song đó, TP Hồ Chí Minh định hướng phát triển các khu công nghệ số tập trung, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và thu hút các tập đoàn công nghệ lớn trong và ngoài nước. Đặc biệt, việc triển khai chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này cho thấy thành phố đang chủ động đón đầu xu hướng công nghệ toàn cầu.

Không chỉ tập trung vào chính quyền và doanh nghiệp, chiến lược chuyển đổi số TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh phát triển xã hội số, nơi mọi người dân đều có khả năng tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng các tiện ích số. Mục tiêu đến năm 2030, ít nhất 80% người dân từ 14 tuổi trở lên có tài khoản định danh điện tử VNeID, 70% người trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân.

Phong trào “Bình dân học vụ số” được triển khai nhằm phổ cập kỹ năng số, nâng cao nhận thức và khả năng thích ứng của người dân trong môi trường số. Thông qua các tổ công nghệ số cộng đồng, phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà” được thực hiện để hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán điện tử và các tiện ích số thiết thực.

Phương Tuyền/Báo Công an Nhân dân

Viettel Solutions ứng dụng bộ giải pháp chuyển đổi số giúp chính quyền hai cấp xử lý khối lượng hành chính lớn, rút ngắn thời gian phục vụ người dân.

Ông Dương Công Đức - Giám đốc Trung tâm đô thị thông minh (IOC) Viettel Solutions, cho biết trước đây, người dân phải lên huyện, xuống xã giải quyết thủ tục hành chính, hiện mọi thứ thay đổi khi nước ta chuyển từ mô hình ba cấp (tỉnh - huyện - xã) sang hai cấp (tỉnh - xã/phường).

Sự thay đổi trên khiến quy mô, khối lượng công việc tại xã/phường tăng gấp nhiều lần. Ông Đức chỉ ra khoảng 85% dịch vụ hành chính công của quận huyện trước đây được chuyển xuống xã/phường.

Tại Hà Nội, cùng quy mô dân số hơn 8,8 triệu người, sau sáp nhập thành phố chỉ quản lý trực tiếp 126 xã, phường thay vì 526 như trước. Điều này khiến mỗi xã/phường gánh khối lượng công việc lớn gấp nhiều lần.

"Nếu vẫn giữ cách làm thủ công như trước, bốn chức năng cốt lõi của chính quyền là phục vụ người dân - doanh nghiệp, quản trị điều hành, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hoạch định tương lai sẽ bất khả thi", ông Dương Công Đức nói.

Từ thách thức trên, công nghệ dần "lên ngôi", đóng vai trò quan trọng: không còn là công cụ hỗ trợ rời rạc, mà trở thành "hạ tầng mềm" thiết yếu. Ưu điểm lớn là chuẩn hóa, tự động hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ giữa tỉnh và xã/phường. Nhờ đó, dữ liệu được kết nối, chia sẻ liên thông qua 12 cơ sở dữ liệu quốc gia cùng 330 cơ sở dữ liệu ngành.


Việc số hóa cũng rút ngắn tối đa thời gian xử lý hồ sơ và phục vụ người dân tại chỗ. Đồng thời, hệ thống cho phép giám sát, điều hành tập trung từ Trung tâm điều hành thông minh (IOC) ở từng tỉnh, thành nhưng vẫn có thể cá thể hóa dịch vụ theo đặc thù từng địa bàn.

Đà Nẵng là một trong những địa phương biến công nghệ thành trợ thủ đắc lực trong quản lý, điều hành, trước khi chuyển sang chính quyền hai cấp. Cụ thể, nơi đây từng triển khai thành công mô hình Trung tâm điều hành thông minh (IOC) cấp thành phố và có 7 OC quận/huyện vận hành tốt.

Sở Khoa học và Công nghệ tham mưu cho lãnh đạo thành phố Đà Nẵng dùng IOC giám sát, điều hành tỷ lệ giải quyết dịch vụ công, các KPI (tổng số thủ tục, tỷ lệ đúng hạn, tỷ lệ chậm, vấn đề phát sinh) và theo dõi thi đua thông qua hệ thống.

Nhờ cách tiếp cận trên, lãnh đạo Đà Nẵng có thể theo dõi diễn biến hàng ngày ở từng trung tâm (đông hay không, tỷ lệ tồn cao hay thấp), kịp thời điều phối nhân sự và đưa ra giải pháp phù hợp... Từ khi dùng IOC, tỷ lệ giải quyết dịch vụ công đúng hạn tại đây tăng rõ rệt, nhiều phường đạt trên 90%, có nơi gần 100%.


Đột phá nhất là mô hình hành chính công chủ động (hệ thống tự động nhận biết nhu cầu người dân, chủ động cung cấp dịch vụ), được triển khai thử nghiệm tại Quảng Nam cũ, trước khi sáp nhập hai tháng.

Theo đó, Quảng Nam triển khai 8 dịch vụ hành chính công chủ động ở 16 xã, phường. Đơn cử là thí điểm đăng ký khai sinh chủ động tại Bệnh viện đa khoa Quảng Nam. Trước đây khi sinh con, người dân phải mang giấy chứng sinh lên phường để làm giấy khai sinh. Giờ đây, khi bệnh viện cấp giấy chứng sinh, cha mẹ chỉ việc khai căn cước công dân (số định danh).

Bước tiếp theo, hệ thống bệnh viện sẽ tự động kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và gửi tin nhắn đến điện thoại người bố để hỏi tên con dự kiến. Sau khi đặt tên bé và xác nhận qua tin nhắn, hệ thống tự chuyển sang tư pháp hộ tịch để làm giấy khai sinh. Vài ngày sau, giấy này được gửi về tận nhà.

Hiện Đà Nẵng thí điểm 27 dịch vụ hành chính công chủ động, tích hợp công nghệ và đồng bộ để phục vụ người dân lẫn doanh nghiệp, qua đó, chính quyền hai cấp có thể biến thủ tục hành chính thành trải nghiệm số thực thụ.

Nguyễn Tuấn/Báo vnexpress

Quốc hội đã thông qua Luật Chuyển đổi số, tạo lập khung pháp lý thống nhất cho tiến trình xây dựng quốc gia số. Với vai trò là luật khung kết nối các luật chuyên ngành, đạo luật này định hình bức tranh tổng thể về chuyển đổi số của Việt Nam, bảo đảm sự liên thông, hiện đại và an toàn trong toàn bộ hệ thống pháp luật.

Trong phát biểu tại Quốc hội, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh triết lý và các nguyên tắc cốt lõi của Luật Chuyển đổi số, coi đây là nền tảng để triển khai đồng bộ, hiệu quả và khắc phục tình trạng cát cứ, manh mún trong phát triển số hiện nay.

Luật Chuyển đổi số tạo ra liên kết các luật chuyên ngành về chuyển đổi số để tạo ra 1 chỉnh thể thống nhất liên thông toàn diện, an toàn và hiện đại về 1 quốc gia số nhưng không can thiệp vào các luật chuyên ngành. Luật cũng tháo gỡ các khó khăn chung về chuyển đổi số của các cơ quan trung ương và địa phương nhất là cơ chế tài chính.

Luật chuyển đổi số được thiết kế theo mô hình 1 luật khung thống nhất cho toàn bộ hoạt động của hệ thống chuyển đổi số quốc gia, đồng thời tích hợp 3 cấu phần cốt lõi là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Luật công nghệ thông tin đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn tin học hóa. Luật chuyển đổi số được xây dựng để thay thế pháp lý, khuôn khổ điều chỉnh cũ nhằm đáp ứng yêu của của kỷ nguyên số.

Lần đầu tiên các khái niệm quan trọng nhất của chuyển đổi số như: hạ tầng số, dữ liệu số, hệ thống số, nền tảng số, môi trường số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số được định nghĩa chính thức ở tầm Luật. Luật cũng chính thức hóa việc ban hành chuyển đổi số quốc gia, khung kiến trúc tổng thể quốc gia số, khung quản trị dữ liệu, khung năng lực số, bộ chỉ số đo lường quốc gia.

Chuyển đổi số không chỉ là công nghệ mà chủ yếu là cải cách và đổi mới. Luật chuyển đổi số là nền tảng để chúng ta đổi mới đưa đất nước tiến nhanh hơn, khai thác cơ hội từ không gian số, đồng thời đảm bảo an toàn, bền vững và bao trùm.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537424