Phát triển nông nghiệp đô thị với giống dê lai năng suất sữa cao
17-09-2021Giống dê lai Saanen - Bách Thảo với năng suất sữa cao, ổn định, cùng khả năng sinh trưởng phù hợp với điều kiện nuôi và khí hậu vùng ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh được kỳ vọng giúp nhiều hộ nông dân cũng như hợp tác xã nông nghiệp mở rộng sản xuất, góp phần phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy, so với các tỉnh và thành phố khác thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện có nhu cầu tiêu thụ sữa dê làm thực phẩm hằng ngày rất lớn do sữa dê mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Trong khi đó nguồn cung ứng luôn trong tình trạng khan hiếm vì Thành phố có số lượng đàn dê nuôi lấy sữa hiện ở mức rất ít.
Qua khảo sát, các nông hộ ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nuôi các giống dê lai cho sản lượng sữa rất thấp khoảng 1,4 kg/con/ngày, tương ứng tổng sản lượng sữa 287 kg/chu kỳ. Tuy nhiên, các hộ nuôi về cơ bản không rõ về nguồn gốc của dê là đã lai như thế nào? Có bao nhiêu máu từ giống dê sữa thuần, nên rất khó trong việc đánh giá tiềm năng về năng suất sữa. Trong khi đó, các huyện ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh như Hóc Môn, Cần Giờ, Củ Chi có nhiều nguồn phụ phẩm thải ra từ quá trình chế biến nông nghiệp như hèm bia, bã mì, bã dầu dừa, bã đậu nành,… và tất cả hoàn toàn đáp ứng tốt nhu cầu làm thức ăn cho dê, giúp giảm đáng kể chi phí sản xuất, và đồng thời góp phần bảo vệ môi trường.hực tế cho thấy, so với các tỉnh và thành phố khác thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện có nhu cầu tiêu thụ sữa dê làm thực phẩm hằng ngày rất lớn do sữa dê mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Trong khi đó nguồn cung ứng luôn trong tình trạng khan hiếm vì Thành phố có số lượng đàn dê nuôi lấy sữa hiện ở mức rất ít.
Từ đó đã thôi thúc TS. Lê Thụy Bình Phương cùng nhóm cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ (Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh) tiến hành lai tạo đàn dê sữa lai F1 từ con đực Saanen và con cái Bách Thảo với sự hỗ trợ từ Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đó, ban đầu nhóm nghiên cứu tạo đàn từ 62 con (với 2 con đực giống thuần Saanen và 30 con cái thuần Saanen, 30 con cái Bách Thảo), kết quả đã thu 168 con các loại; và sau đó chuyển giao chuyển giao kỹ thuật nuôi và giống dê lai F1 lứa 1 cho 6 nông hộ nuôi thí điểm tại huyện Bình Chánh (4 hộ) và huyện Cần Giờ (2 hộ). Mỗi hộ nhận 1 con đực F1 và 10 con cái F1, và được Trung tâm trực tiếp hướng dẫn cách nuôi, tạo đàn bằng các phương thức kỹ thuật, khẩu phần ăn đã được hoàn thiện trước đó. Tính đến nay, tổng số đàn dê lai F1 Saanen - Bách Thảo đã đạt tổng cộng 250 con cả đực và cái.
Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo có chiếc tai cụp dài đặc trưng được di truyền từ dê mẹ Bách Thảo
Năng suất sữa vượt trội
Năng suất sữa ở nhóm dê lai F1 lứa 1 sinh trưởng trong mùa khô đã thể hiện mức cải tiến di truyền so với nhóm dê Bách Thảo thuần khi đạt trung bình sản lượng sữa ở mức 2 kg/con/ngày so với mức 1,2 kg/con/ngày của Bách Thảo thuần. Số ngày cho sữa cũng cao hơn, ở mức 189 ngày so với 149 ngày. Tổng sản lượng sữa ở nhóm dê lai F1 là 382 kg/chu kỳ, cao hơn nhóm dê Bách thảo thuần là 177kg/chu kỳ, nhưng thấp hơn nhóm dê Saanen thuần là 453 kg/chu kỳ.
Giống |
Saanen (n=20) |
Bách Thảo (n=20) |
F1 (n=20) |
Năng suất sữa, kg/con/ngày |
|||
Lứa 1 |
2,2 ± 0,09 |
1,19 ± 0,13 |
2,00 ± 0,05 |
Lứa 2 |
1,98 ± 0,09 |
1,21 ± 0,13 |
2,1 ± 0,11 |
Số ngày cho sữa, ngày |
|||
Lứa 1 |
209 ± 5,23 |
149 ± 5,78 |
189 ± 3,30 |
Lứa 2 |
191 ± 2.92 |
149 ± 5,75 |
209 ± 2.00 |
Tổng sản lượng sữa, kg |
|||
Lứa 1 |
453 ± 24,8 |
177 ± 20,7 |
382 ± 12,0 |
Lứa 2 |
378 ± 21,2 |
179 ± 19,5 |
430 ± 20,5 |
Năng suất sữa của dê lai F1 (Saanen - Bách Thảo) đạt mức cao và ổn định, được đánh giá là lựa chọn hợp lý cho phát triển sản xuất ở khu vực ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Tỷ lệ nuôi sống dê lai F1 tại mô hình của nông hộ đạt 100% ở giai đoạn 3 đến 7,5 tháng tuổi. Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo lứa 1 nuôi tại nông hộ cho năng suất sữa trung bình đạt 2,15 kg/con/ngày, số ngày cho sữa là 191 ngày, tổng sản lượng sữa đạt đến 396 kg/chu kỳ. Hai chỉ tiêu này tốt hơn kết quả ghi nhận được đối với cùng lứa nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận/huyện |
Bình Chánh (n=29) |
Cần Giờ (n=16) |
Trung bình chung |
Năng suất sữa, kg/con/ngày |
2,25 ± 0,31 |
2,05 ± 0.24 |
2,15 ± 0,26 |
Số ngày cho sữa, ngày |
190 ± 8,67 |
191±10 |
191 ± 9,69 |
Sản lượng sữa/chu kỳ, kg |
400 ± 61,9 |
391 ± 49 |
396 ± 53.8 |
Năng suất sữa gần như không khác biệt ở Bình Chánh và Cần Giờ
Trước đó, chu kỳ cho sữa ở lứa 2 trong mùa mưa nuôi tại Trung tâm, theo ghi nhận, giống Bách Thảo thuần chỉ giảm nhẹ về năng suất sữa so với mùa khô, thì giống dê lai F1 vẫn duy trì năng suất sữa tốt, đạt trung bình là 2,1 kg/con/ngày, số ngày cho sữa là 209 ngày. Trong lúc đó, giống Saanen thuần thì giảm, chỉ đạt trung bình là 1,98 kg/con/ngày và số ngày cho sữa là 191 ngày. Tổng sản lượng sữa ở nhóm dê lai F1 tăng lên 430 kg/chu kỳ, còn nhóm dê Saanen thuần lại giảm còn 378 kg/chu kỳ.
Ngoài ra, một số chỉ tiêu khác của dê nuôi lấy sữa giống lai F1 Saanen – Bách thảo cũng cho thấy ở mức cao, ổn định qua các giai đoạn nuôi và thu hoạch.
Chỉ tiêu đo lường |
Tháng 1 |
Tháng 3 |
Tháng 7 |
|||
Bình Chánh |
Cần Giờ |
Bình Chánh |
Cần Giờ |
Bình Chánh |
Cần Giờ |
|
Vật chất khô, % |
14,8 |
14,2 |
11,3 |
11,5 |
15 |
14,8 |
Chất béo, g/kg |
40 |
38,7 |
30 |
32 |
40 |
40 |
Protein, g/kg |
38 |
39 |
30 |
32 |
38 |
39 |
Các chỉ tiêu về dinh dưỡng của sữa thu từ dê lai F1 Saanen - Bách Thảo
Mô hình cần nhân rộng cho Thành phố Hồ Chí Minh
Theo nhóm nghiên cứu, thời tiết ẩm ướt là không thích hợp và có ảnh hưởng ít nhiều đến năng suất cho sữa của dê. Cụ thể, nhóm dê Saanen thuần gặp vấn đề về sức khỏe như ho, sổ mũi, đau mắt… nhiều hơn so với Bách Thảo thuần và dê lai F1. Điều này cho thấy dê lai F1 có thể đã nhận được những ưu thế di truyền từ mẹ (Bách Thảo thuần) để thích nghi với những điều kiện thời tiết tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, nói chính xác là các huyện ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, ĐH Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra dê nuôi trong điều kiện chuồng mái lá tại huyện Cần Giờ
Đáng chú ý, dê lai F1 lấy sữa được nuôi tập trung theo phương thức bán thâm canh trong thời gian 10 ngày đầu, chăn thả từ 4 - 6 giờ/ngày. Sau khi thích nghi, dê sẽ được nuôi nhốt hoàn toàn. Và hơn thế, dê được cho ăn theo khẩu phần được phối trộn hoàn chỉnh cũng là một trong những kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học được TS. Lê Thụy Bình Phương và các cộng sự hoàn thành hồi cuối tháng 8/2021 vừa qua.
Về khẩu phần ăn, hiện nay chăn nuôi dê tại nông hộ, người nông dân vẫn chưa biết tận dụng phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp để phối hợp vào khẩu phần, họ chủ yếu sử dụng các loại cây cỏ để cung cấp chất xơ. Việc tận dụng các phụ phẩm như bã bia, bã mì, bánh dầu nành là rất hữu ích cho khẩu phần phối trộn hoàn chỉnh và rất hiệu quả vì thành phần chất xơ và đạm thô của phụ phẩm hoàn toàn thỏa mãn cho chu cầu nuôi dê sữa, bên cạnh đó còn tận dụng được nguồn phụ phẩm khác sẵn có trong chăn nuôi dê sữa lai để giảm diện tích trồng cỏ.
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất khẩu phần trộn hỗn hợp, bổ sung bã mì khô như nguồn cung năng lượng, than sinh hoạt tính như là môi trường đệm nhằm giúp thúc đẩy sự hình thành cấu trúc cộng sinh có lợi của các vi sinh vật lên men ở dạ cỏ. Những tiến bộ kỹ thuật này sẽ được chuyển giao công nghệ cho nông dân trong thời gian tới.
Chưa dừng lại ở đó, trong quá trình nuôi thí điểm ở huyện Bình Chánh và Cần Giờ, nhóm nghiên cứu đã đồng hành cùng các hộ dân trong cải tạo chuồng nuôi, hướng dẫn quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng dê sữa lai F1, hỗ trợ vật tư và thuốc thú y.
Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo sinh trường tốt, không bệnh, cho sữa ổn định
Theo TS. Lê Thụy Bình Phương, để tiếp nhận mô hình chăn nuôi dê sữa, nông hộ nên xây dựng chuồng sàn với khoảng cách giữa các thanh sàn là 1,5 cm, phân ô chuồng cho các giai đoạn tuổi khác nhau của dê (hậu bị, mang thai, tiết sữa, đực giống...). Ngoài ra nông hộ nên làm mái che cao hoặc thiết kế quạt hút ở 2 đầu dãy chuồng để tăng độ thông thoáng.
Trong quá trình hỗ trợ các nông hộ triển khai mô hình, ngoài việc hướng dẫn kỹ thuật cần cho việc đảm bảo nguồn thức ăn, nước uống và vệ sinh chuồng như tạo nền dốc tốt để thoát phân và nước tiểu vào hầm xử lý biogas phía sau chuồng nuôi; nhóm nghiên cứu còn hướng dẫn và hổ trợ các kỹ thuật về thú y như lịch chủng ngừa, chăm sóc và điều trị một số bệnh trên đàn dê. Kết quả là nhóm nghiên cứu đã không ghi nhận được vấn đề nào về các bệnh xãy ra tại các mô hình nuôi thử nghiệm này.
Hiệu quả kinh tế cao
Nhóm nghiên cứu cho biết, lợi nhuận từ sữa khi nuôi dê lai F1 cao hơn nhiều so với nuôi dê thuần ở cả hai giống Saanen và Bách Thảo. Qua thống kê với đàn F1 ở 6 nông hộ tham gia trong quá trình triển khai thực tế mô hình, tính trên quy mô đàn 10 con, lợi nhuận từ sữa trong năm đầu tiên ở nhóm dê lai F1 Saanen - Bách Thảo là 82,6 triệu đồng, trong khi đó với dê Saanen thuần chỉ ở mức 58,4 triệu đồng.
Có thể khẳng định rằng, chăn nuôi dê lấy sữa rất thích hợp cho các nông hộ mong muốn chuyển đổi hướng sản xuất vì chi phí đầu tư và đòi hỏi diện tích nuôi nhỏ hơn so với bò sữa. Việc xây dựng khẩu phần cho dê nuôi lấy sữa theo hướng tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp là rất thích hợp với mục tiêu kế hoạch chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững, bảo vệ sinh thái môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, mô hình cho thấy thực tế cần đẩy mạnh phát triển phương thức nuôi nhốt để phù hợp với diện tích ngày càng bị thu hẹp ở Thành phố Hồ Chí Minh.
TS Lê Thụy Bình Phương cũng thông tin thêm, trong quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã tổ chức 1 lớp đào tạo trong 6 ngày, nhằm chuyển giao các kỹ thuật chăn nuôi dê sữa cho 20 kỹ thuật viên tại Chi cục Chăn nuôi và Thú y (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) để duy trì sự hỗ trợ kỹ thuật cho các nông hộ, có thể giải quyết những vấn đề mà nông hộ gặp trong phải trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, nhóm thực hiện đề tài cũng đã tổ chức 6 lớp đào tạo cho 180 người dân chăn nuôi dê tham gia tập huấn kết hợp tham quan mô hình triển khai thực tế về các nội dung lai tạo con giống, chăm sóc và nuôi dưỡng, nguyên nhân gây bệnh, biện pháp phòng trị bệnh.
Hội thảo tập huấn kỹ thuật chăn nuôi dê cho cán bộ Chi cục Thú y và Chăn nuôi TPHCM.
Có thể khẳng định rằng, việc duy trì mô hình chăn nuôi dê sữa điển hình, mà cụ thể là dòng lai F1 giữa Saanen và Bách Thảo sẽ tạo điều kiện phát triển và mở rộng quy mô chăn nuôi ở Thành phố Hồ Chí Minh, thúc đẩy hình thành vùng chăn nuôi dê sữa phù hợp, đáp ứng đủ nhu cầu sữa dê, tạo sinh kế tốt hơn cho người nông dân từ sản lượng sữa cao. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đã quan tâm và đề xuất nghiên cứu chuyển giao ứng dụng về việc tối ưu hóa sử dụng nguồn thức ăn sẵn có tại chổ của địa phương để phát triển chăn nuôi dê sữa lai bền vững tại nông hộ trong thời gian tới dưới sự chỉ đạo của địa phương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành phố Hồ Chí Minh.