SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TP.HCM nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo mở rộng "cửa sổ vàng": bước tiến mới điều trị đột quỵ

09-10-2025
Với sự hỗ trợ của phần mềm RAPID, mô hình điều trị đột quỵ đã được chuyển đổi từ "cửa sổ thời gian" sang "cửa sổ nhu mô", cho phép can thiệp an toàn và hiệu quả đến 24 giờ sau khởi phát, thay vì chỉ 6 giờ như trước đây.

Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) "An toàn và hiệu quả của điều trị tái thông trên bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp cửa sổ từ 6 giờ đến 24 giờ có sử dụng phần mềm trí tuệ nhân tạo RAPID", do Bệnh viện Nhân dân 115 chủ trì thực hiện, PGS.TS.BS. Nguyễn Huy Thắng làm chủ nhiệm.

05KQNCLVntdt0710h3.jpg

Theo nhóm nghiên cứu, kết quả nhiệm vụ đã thành công trong việc áp dụng và đánh giá một phương pháp điều trị tiên tiến trên thế giới, mang lại chứng cứ khoa học mới, góp phần nâng cao chất lượng điều trị đột quỵ tại Việt Nam nói chung và Bệnh viện Nhân dân 115 nói riêng.

Đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba tại Việt Nam và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế vĩnh viễn. Mỗi năm, nước ta ghi nhận khoảng 196.000 ca đột quỵ mới, trong đó đột quỵ thiếu máu não chiếm 87%. Đáng chú ý, hơn 3/4 bệnh nhân nhập viện sau 6 giờ – thời điểm được xem là "cửa sổ vàng" cho điều trị tái thông mạch máu, khiến phần lớn người bệnh mất cơ hội phục hồi.

Trong sinh lý bệnh đột quỵ thiếu máu não, vùng tổn thương não bao gồm một lõi hoại tử không thể phục hồi và một vùng tranh tối tranh sáng (penumbra) bao quanh, nơi các tế bào thần kinh còn khả năng cứu sống nếu được tái tưới máu kịp thời. Sự tồn tại của vùng tranh tối tranh sáng có thể kéo dài đến 20 giờ sau khởi phát, phụ thuộc vào tuần hoàn bàng hệ của mỗi cá nhân. Việc điều trị tái thông mạch máu là yếu tố then chốt để cứu vùng não đang "tranh tối tranh sáng" (vùng não có nguy cơ tổn thương nhưng vẫn có thể phục hồi). Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết trong việc xác định chính xác những bệnh nhân có thể hưởng lợi từ việc điều trị tái thông muộn (ngoài 6 giờ) mà không làm tăng nguy cơ biến chứng.

Trong bối cảnh đó, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đã mở ra hướng đi mới cho y học can thiệp. Phần mềm RAPID (RApid Processing of PerfusIon and Diffusion), sản phẩm của Đại học Stanford (Hoa Kỳ), được FDA phê duyệt sử dụng trong lâm sàng, có khả năng phân tích tự động hình ảnh tưới máu não, xác định chính xác vùng lõi nhồi máu và vùng tranh tối tranh sáng (penumbra) – nơi các tế bào thần kinh còn khả năng cứu sống nếu được tái tưới máu kịp thời.

05KQNCLVntdt0710h1.jpg

ThS.BS. Phạm Nguyên Bình (đại diện nhóm nghiên cứu) trình bày báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ 

Nhiệm vụ được tiến hành với các mục tiêu: mô tả đặc điểm dân số học, yếu tố nguy cơ, lâm sàng và hình ảnh học của bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp do tắc động mạch lớn được điều trị EVT (tái thông lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học) trong cửa sổ 6 - 24 giờ; đánh giá hiệu quả và an toàn của phương pháp điều trị EVT có hỗ trợ từ phần mềm tưới máu não RAPID, thông qua tỷ lệ phục hồi chức năng thần kinh tốt và tỷ lệ tử vong sau 3 tháng; xác định các yếu tố tiên lượng kết cục phục hồi chức năng thần kinh tốt ở thời điểm 3 tháng sau điều trị.

ThS.BS. Phạm Nguyên Bình (đại diện nhóm nghiên cứu) cho biết, sự hỗ trợ của RAPID giúp chuyển đổi mô hình điều trị đột quỵ từ "cửa sổ thời gian" sang "cửa sổ nhu mô", cho phép can thiệp an toàn và hiệu quả đến 24 giờ sau khởi phát, thay vì chỉ 6 giờ như trước đây. Tuy nhiên, việc đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp này tại Việt Nam, nơi đặc điểm mạch máu của người châu Á có nhiều khác biệt, vẫn còn là khoảng trống nghiên cứu. Do đó, nhiệm vụ KH&CN này được triển khai nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu quả của điều trị tái thông bằng lấy huyết khối cơ học trong cửa sổ 6 - 24 giờ, có hỗ trợ từ phần mềm AI RAPID. Đồng thời, cập nhật và áp dụng các khuyến cáo quốc tế (dựa trên các thử nghiệm DAWN và DEFUSE-3), cung cấp bằng chứng khoa học thực tiễn tại Việt Nam, làm cơ sở để chuẩn hóa phác đồ điều trị tái thông cửa sổ mở rộng.

Nghiên cứu được tiến hành theo mô hình đoàn hệ tiến cứu, trên 200 bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp do tắc động mạch lớn, điều trị tại Bệnh viện Nhân dân 115 trong giai đoạn 2022 - 2024. Dữ liệu được thu thập có hệ thống và xử lý bằng phần mềm Stata và RStudio, với mô hình hồi quy đa biến và phương pháp bootstrap để đảm bảo tính chính xác cao.

Kết quả cho thấy, việc điều trị tái thông trong cửa sổ 6 - 24 giờ với hỗ trợ của RAPID là an toàn và hiệu quả. Cụ thể: tỷ lệ tái thông mạch máu thành công (mTICI 2B-3) là 85%, cao hơn nhiều so với các nghiên cứu quốc tế (DAWN 84%, DEFUSE-3 76%); tỷ lệ phục hồi chức năng thần kinh tốt (mRS ≤ 2 sau 3 tháng) là 46%, tương đương với các nghiên cứu quốc tế; tỷ lệ tử vong (12%), thấp hơn các nghiên cứu DAWN (19%) và DEFUSE-3 (14%); tỷ lệ xuất huyết não có triệu chứng chỉ 2,5%, khẳng định độ an toàn của phương pháp.

Quy trình điều trị tái thông lấy huyết khối cơ học trên bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp cửa sổ 6 - 24 giờ có sử dụng AI RAPID được xây dựng chi tiết, rõ ràng, cụ thể, được áp dụng tại Bệnh viện Nhân dân 115, đã sẵn sàng chuyển giao áp dụng trong thực tế lâm sàng tại các trung tâm đột quỵ.

05KQNCLVntdt0710h4.jpg

Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức ngày 07/10/2025

Kết quả đề tài cũng xây dựng thành công mô hình tiên lượng RAPID PREDICT nhằm dự đoán khả năng phục hồi chức năng thần kinh tốt (mRS 0-2) tại thời điểm 3 tháng sau điều trị. Mô hình được xây dựng dựa trên 11 yếu tố tiên lượng, hiện được triển khai trực tuyến, hỗ trợ bác sĩ trong thực hành lâm sàng.

Hội đồng nghiệm thu đánh giá về ý nghĩa thực tiễn, đề tài cung cấp bằng chứng khoa học mới về tính an toàn và hiệu quả của việc mở rộng cửa sổ điều trị đột quỵ thiếu máu não cấp lên 6 – 24 giờ trên đối tượng bệnh nhân Việt Nam. Đây cũng là nghiên cứu tiên phong tại Việt Nam ứng dụng AI trong lựa chọn và điều trị bệnh nhân đột quỵ cấp, góp phần nâng cao chất lượng điều trị đột quỵ.

Sản phẩm quy trình điều trị có thể chuyển giao cho các bệnh viện tuyến cuối và trung tâm đột quỵ trên cả nước, góp phần gia tăng số lượng bệnh nhân đột quỵ được tiếp cận điều trị can thiệp nội mạch, mở rộng cơ hội tái thông cho những trường hợp nhập viện trễ. Nhờ đó, giảm tỷ lệ tàn phế và tử vong, giảm gánh nặng chăm sóc lâu dài, giảm chi phí y tế và gánh nặng xã hội do di chứng đột quỵ gây ra.

Lam Vân (CESTI)


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537424