TP.HCM tính toán TFP để định hướng phát triển bền vững và ổn định

Ngày: 22-08-2025

Việc đo lường chính xác TFP là vô cùng quan trọng để đánh giá cả hiệu quả kinh tế cũng như tiến trình phát triển tổng thể, từ đó định hướng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ của Thành phố tập trung vào nâng cao năng suất và hiệu quả.

Tầm quan trọng của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)

Sự tăng trưởng của một quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá sự ổn định và phát triển của quốc gia đó. Sự tăng trưởng này thường được đánh giá thông qua sự tăng lên trong khối lượng của cải tiêu dùng của quốc gia, được thể hiện bằng cách sử dụng tốt hơn các yếu tố sản xuất (đầu vào) với mức hao phí ngày càng ít hơn nhằm mục đích thu được nhiều hơn và có chất lượng hơn các sản phẩm (đầu ra). Quan hệ tỷ lệ giữa “kết quả đầu ra” với “yếu tố đầu vào” được xác định thông qua chỉ tiêu “năng suất”. Năng suất có thể được đo lường, đánh giá cho từng nhân tố, nhóm hay toàn bộ các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất. Việc đo lường năng suất cho từng nhân tố thì dễ thực hiện hơn nhưng các phân tích tính toán thì không dễ dàng.

Các nhà phân tích kinh tế đã phát hiện ra rằng, ở các quốc gia có trình độ phát triển cao, trong tốc độ tăng lên của kết quả sản xuất, bên cạnh đóng góp do các yếu tố tăng thêm từ lao động và vốn thì vẫn còn lại một lượng đáng kể tác động đến kết quả sản xuất. Tác động này tùy thuộc vào quá trình áp dụng ngày càng nhiều hơn các tiến bộ khoa học - công nghệ, tri thức quản lý hiện đại.

Một cách tổng quát, phần tác động này gọi là năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP - Total Factor Productivity). TFP là sự phản ánh đóng góp của các yếu tố vô hình như kiến thức - kinh nghiệm - kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá - dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư (chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ năng quản lý),... Tác động của TFP không trực tiếp như năng suất bộ phận mà phải thông qua sự biến đổi của các yếu tố hữu hình, đặc biệt là lao động và vốn.

Như vậy, TFP không chỉ là một chỉ tiêu kinh tế đơn thuần, mà là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), căn cứ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân.

Từ đó, có thể thấy rằng kết quả sản xuất sẽ đến từ 3 thành phần: (1) phần do vốn tạo ra, (2) phần do lao động tạo ra; (3) phần do nhân tố tổng hợp tạo ra. Do đó, không nhất thiết lúc nào cũng phải tăng lao động hoặc vốn để tăng đầu ra.

Việc gia tăng kết quả đầu ra có thể bằng cách sử dụng tối ưu nguồn lao động và vốn, cải tiến quá trình công nghệ, trình độ quản lý, trong đó các nhân tố đầu vào được phối hợp sử dụng tốt nhất. Vì vậy, TFP sẽ phản ánh chính xác hiệu quả sử dụng của vốn và lao động, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế, là căn cứ để phân tích hiệu quả kinh tế vĩ mô và đánh giá sự tiến bộ khoa học - công nghệ của mỗi ngành, mỗi địa phương và mỗi quốc gia.

Anh dai dien.jpg

(Ảnh minh họa)

Tính toán TFP ở cấp độ địa phương, đặc biệt là cho TP.HCM, đòi hỏi một cách tiếp cận riêng biệt, kết hợp giữa việc áp dụng nguyên tắc tính toán quốc tế và điều chỉnh phù hợp với đặc điểm kinh tế địa phương. Việc chuyển đổi từ sử dụng vốn tích lũy sang vốn dịch vụ là một bước tiến quan trọng, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn về dữ liệu và phương pháp ước lượng. So sánh với cấp quốc gia, tính toán TFP ở cấp địa phương có thể cung cấp cái nhìn chi tiết và sâu sắc hơn về động lực tăng trưởng của một đô thị lớn như TP.HCM, nhưng kết quả cần được diễn giải cẩn thận, có tính đến các đặc thù và hạn chế của dữ liệu địa phương. Vì thế, việc tính toán TFP cho TP.HCM không chỉ là bài toán kỹ thuật mà còn là cơ hội để hiểu rõ hơn về động lực tăng trưởng của đô thị này, từ đó đưa ra các chính sách phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững, nâng cao chất lượng quản lý và phát triển kinh tế địa phương trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.

C18-Hinh-1.png

TFP phản ánh chính xác hiệu quả sử dụng của vốn và lao động.

Tuy nhiên đến nay, một trong những rào cản cơ bản là chỉ tiêu tính toán đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế "chưa nằm trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh/thành phố". Sự thiếu vắng này trong hệ thống thống kê chính thức dẫn đến việc các số liệu TFP thường mang tính chất nghiên cứu riêng lẻ, thiếu sự công nhận chính thức, không được theo dõi một cách hệ thống và liên tục. Điều này gây khó khăn cho việc so sánh, đối chiếu qua các thời kỳ hoặc giữa các địa phương, làm giảm tính hữu dụng của TFP trong công tác quản lý và điều hành kinh tế. Việc TFP chưa được đưa vào hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh/thành phố không chỉ là một thiếu sót về mặt kỹ thuật mà còn cản trở khả năng phân tích so sánh và học hỏi chính sách giữa các địa phương.

C18-Hinh-2.jpg

Đại diện nhóm thực hiện báo cáo kết quả nhiệm vụ.

Được sự hỗ trợ của Sở KH&CN TP.HCM, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Vinh và nhóm cộng sự công tác tại Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển vùng (đơn vị trực thuộc Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh - UEH) đã triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Tỷ trọng đóng góp năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của Thành phố Hồ Chí Minh”. Đây là nội dung quan trọng, là cơ sở để tham mưu cho Thành phố đưa ra các chính sách trong việc nâng cao đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế.

TFP làm rõ các thành phần trong tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Vinh - chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ cho biết, kết quả phân tích cho thấy TFP của TP.HCM chịu ảnh hưởng đồng thời từ nhiều nhóm yếu tố cấu thành, trong đó nổi bật là thể chế, cơ sở hạ tầng, năng lực cạnh tranh, toàn cầu hóa, nguồn vốn, chất lượng nhân lực và các yếu tố về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

C18-Hinh-3.png

TFP của TP.HCM chịu ảnh hưởng đồng thời từ nhiều nhóm yếu tố.

Trước hết, thể chế và chính sách giữ vai trò trung tâm trong việc định hình môi trường cho TFP phát triển. TP.HCM đã có những bước tiến nhất định trong cải cách hành chính, thúc đẩy cơ chế tự chủ, cũng như tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, độ trễ thể chế, sự thiếu đồng bộ giữa các chính sách ngành, và năng lực thực thi chưa đều vẫn là rào cản lớn đối với việc phát huy hiệu quả năng suất nội sinh của nền kinh tế. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng, cả vật chất và số hóa, đã được đầu tư tương đối mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông đô thị, ICT. Tuy nhiên, khoảng cách giữa mức đầu tư và mức độ đồng bộ, hiện đại hóa vẫn hiện hữu. Điều này làm hạn chế khả năng kết nối, lan tỏa tri thức và giảm hiệu suất sản xuất của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến TFP một cách gián tiếp nhưng rõ rệt.

Tính cạnh tranh và mức độ mở cửa của nền kinh tế Thành phố được đánh giá là cao so với mặt bằng quốc gia, giúp thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, thị trường lao động và thị trường công nghệ vẫn còn những điểm nghẽn như thiếu minh bạch, chi phí tuân thủ cao và khoảng cách giữa các nhóm doanh nghiệp, khiến cho hiệu quả lan tỏa năng suất từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp trong nước chưa đạt như kỳ vọng. Tác động của toàn cầu hóa thể hiện rõ qua sự tham gia ngày càng sâu của TP.HCM vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này tạo cơ hội tiếp nhận công nghệ, nâng cao tiêu chuẩn sản xuất và cải thiện kỹ năng lao động. Tuy nhiên, năng lực hấp thụ công nghệ còn yếu và thiếu cơ chế gắn kết hiệu quả giữa khu vực FDI và khu vực tư nhân trong nước đã làm giảm giá trị gia tăng thực sự từ hội nhập.

Nguồn vốn đầu tư cho công nghệ trên địa bàn Thành phố tương đối dồi dào, nhưng việc phân bổ chưa thực sự hướng vào các lĩnh vực có tiềm năng nâng cao năng suất dài hạn như R&D, hạ tầng số, công nghệ cao và phát triển công nghệ lõi. Khả năng tiếp cận tài chính của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn hạn chế, do thiếu các công cụ tài chính phù hợp và chưa có hệ sinh thái hỗ trợ đủ mạnh. Bên cạnh đó, đầu tư mạo hiểm cho các hoạt động đổi mới sáng tạo và công nghệ vẫn ở quy mô nhỏ, manh mún, thiếu cơ chế phối hợp công – tư hiệu quả, dẫn đến việc hình thành và phát triển các chuỗi đổi mới có giá trị gia tăng cao còn chậm so với tiềm năng.

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định TFP trong trung và dài hạn, tuy nhiên Thành phố đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng số và kỹ năng mềm, cũng như hiện tượng chảy máu chất xám ngày càng rõ rệt. Xu hướng các gia đình khá giả đưa con ra nước ngoài học tập và định cư dài hạn đã khiến nguồn cung nhân lực chất lượng cao suy giảm cả về số lượng và chiều sâu.

Cuối cùng, các yếu tố thuộc hệ sinh thái khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số có vai trò đặc biệt trong việc nâng cao TFP theo chiều sâu. Mặc dù TP.HCM đã đạt được những bước tiến trong phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế số và các trung tâm đổi mới sáng tạo, song đầu tư cho R&D vẫn còn thấp so với các thành phố dẫn đầu trong khu vực. Bên cạnh đó, mối liên kết giữa viện – trường – doanh nghiệp còn lỏng lẻo, dẫn đến hiệu quả chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa cao. Tài sản vô hình, dù có tiềm năng thúc đẩy năng suất vượt trội, vẫn chưa được đánh giá và khai thác đúng mức.

Tại buổi báo cáo nghiệm thu nhiệm vụ, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Vinh cũng chia sẻ thêm rằng: “TP.HCM đã đạt được những kết quả tích cực trong tiến trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, với TFP dần khẳng định vai trò là động lực trung tâm, phù hợp với định hướng chiến lược tại Nghị quyết số 24-NQ/TW - đặt mục tiêu TFP đóng góp tối thiểu 56% vào tăng trưởng GRDP đến năm 2030. Việc xác định TFP là động lực tăng trưởng chính cho thấy Thành phố không chỉ đi đúng hướng, mà còn đang từng bước chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động sang mô hình dựa trên chất lượng, hiệu quả và đổi mới sáng tạo. Mặc dù vậy, mức độ chênh lệch đáng kể về TFP giữa các khu vực kinh tế – đặc biệt là khu vực hành chính sự nghiệp và hộ kinh doanh cá thể – cho thấy tiềm năng nâng cao năng suất trong toàn hệ thống kinh tế đô thị vẫn còn rất lớn.”.

Việc tiếp tục hoàn thiện các nghiên cứu theo các hướng này sẽ đóng góp quan trọng vào việc hoạch định chính sách nâng cao TFP một cách bền vững, phù hợp với đặc thù kinh tế đô thị và mục tiêu tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo của TP.HCM trong dài hạn. Toàn bộ kiến nghị hướng đến mục tiêu đưa Thành phố trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, có năng suất cao và năng lực cạnh tranh khu vực, phù hợp với định hướng Nghị quyết 57, 59 và 68 của Bộ Chính trị.

Có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn hiện nay, xác lập TFP là trụ cột tăng trưởng không chỉ là yêu cầu thực tiễn mà còn là điều kiện tiên quyết để TP.HCM hiện thực hóa tầm nhìn trở thành trung tâm kinh tế – tài chính – đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực Đông Nam Á đến năm 2045. Việc đo lường chính xác TFP là vô cùng quan trọng để đánh giá cả hiệu quả kinh tế cũng như tiến trình phát triển tổng thể, từ đó định hướng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ của Thành phố tập trung vào nâng cao năng suất và hiệu quả. Điều này sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ thống theo dõi TFP bền vững cho TP.HCM, vừa đảm bảo phù hợp với đặc thù kinh tế đô thị và mục tiêu tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo của Thành phố, vừa đảm bảo tính so sánh với cả nước và quốc tế, hướng đến mục tiêu đưa TP.HCM trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, có năng suất cao và năng lực cạnh tranh khu vực, phù hợp với định hướng Nghị quyết 57, 59 và 68 của Bộ Chính trị.

Thông tin liên hệ:
Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển vùng (ĐH Kinh tế TP.HCM)

Địa chỉ: Phòng 1101 - Tòa nhà UEH B1, 279 Nguyễn Tri Phương, P.Diên Hồng, TP.HCM

Email: irdrc@ueh.edu.vn

Website: https://irdrc.ueh.edu.vn/