Làm giàu rừng ngập mặn ven biển Cần Giờ thích ứng với biến đổi khí hậu
22-09-2025Kết quả này sẽ được ứng dụng để nâng cao chất lượng rừng ngập mặn làm gia tăng sinh khối và khả năng phòng hộ của rừng, thích ứng với biến đổi khí hậu; kết quả cũng làm cơ sở khoa học cho công tác lập kế hoạch quản lý, bảo vệ và nuôi dưỡng rừng.
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu kỹ thuật làm giàu rừng ngập mặn ven biển Cần Giờ thích ứng với biến đổi khí hậu”. Đây là nhiệm vụ do Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ chủ trì thực hiện, TS. Hoàng Văn Thơi làm chủ nhiệm.
TS. Hoàng Văn Thơi báo cáo kết quả nhiệm vụ.
Rừng ngập mặn Cần Giờ đóng vai trò quan trọng trong việc chắn sóng, chắn gió, điều hòa khí hậu, giảm ô nhiễm khu vực, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, rừng ngập mặn ven biển Cần Giờ luôn đối mặt với các nguy cơ bị suy giảm chất lượng rừng do nhiều nguyên nhân khác nhau như: yếu tố lập địa, cấu trúc mật độ cây rừng, tầng tán, biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động chưa phù hợp, sâu bệnh hại,... dẫn đến rừng bị suy giảm chức năng phòng hộ.
Báo cáo tại buổi nghiệm thu, TS. Hoàng Văn Thơi cho biết, thông qua thu thập ảnh vệ tinh, nhóm thực hiện đã xác định các đối tượng cần tác động làm giàu chất lượng rừng (tại vùng ven biển thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ). Sau đó, nhóm xác định đặc điểm cấu trúc, sinh khối, chất lượng rừng và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tăng sinh khối và chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ và xây dựng mô hình thí nghiệm các biện pháp kỹ thuật làm giàu chất lượng rừng.
Kiểm tra mô hình trồng cây tầng dưới – đa tầng tán.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân chia đối tượng rừng tự nhiên ngập mặn cần làm giàu chất lượng rừng, dựa trên chỉ số NDVI (chỉ số thực vật). Xác định được đặc điểm cấu trúc, sinh trưởng, sinh khối và chất lượng rừng cho từng đối tượng phân chia. Trong đó, số tầng cây, độ dày của mỗi tầng và thành phần loài cây ở mỗi tầng phụ thuộc vào điều kiện lập địa và có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh khối và chất lượng rừng. Thành phần cây tái sinh gồm 14 loài cây; sâu bệnh hại gồm 15 loài sâu, bệnh hại (11 loài sâu và 4 loài bệnh) gồm sâu đục thân, mối hại rễ, bệnh cháy lá, tỷ lệ sâu, bệnh hại và mức độ bị hại nhẹ, biến động theo cấp NDVI và lập địa.
Tiếp theo, nhóm nghiên cứu triển khai xây dựng mô hình thí nghiệm các biện pháp kỹ thuật làm giàu rừng nhằm nâng cao sinh khối và chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Các mô hình chăm sóc - nuôi dưỡng rừng, làm giàu chất lượng rừng, trồng cây đa tầng tán (tạo lập tầng cây cao, tầng cây dưới), được triển khai với sự phối hợp chặt chẽ của Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ.
Từ kết quả triển khai các mô hình, nhóm thực hiện đã xây dựng Hướng dẫn kỹ thuật làm giàu chất lượng rừng tự nhiên nghèo và phục hồi trên các dạng lập địa chính tại Cần Giờ mang tính khoa học và có giá trị thực tiễn cao.
Hoàng Kim (CESTI)