SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt, việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, góp phần xây dựng Chính phủ “kiến tạo, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, tận tâm, tận lực, phục vụ nhân dân”.

isocp

 Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Hoàng Giang


Sáng 9/4, Bộ KH&CN tổ chức Hội nghị sơ kết triển khai Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước giai đoạn 2015-2020.

Thúc đẩy cải cách hành chính

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đánh giá, sau hơn 7 năm triển khai, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008, sau này được nâng cấp thành tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015 đã khẳng định được vai trò là một công cụ quan trọng, hỗ trợ cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chuẩn hóa các quá trình giải quyết công việc, cải tiến phương thức thực thi công vụ với mục tiêu hướng tới sự hài lòng của tổ chức, cá nhân công dân có liên quan, minh bạch hóa các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, hướng đến một nền hành chính hiện đại, dân chủ, trong sạch và vững mạnh.

Với nhiệm vụ được giao là cơ quan đầu mối theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH&CN đã luôn nhận được sự đồng hành của các ban, bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc tổ chức triển khai thực hiện Quyết định nói trên một cách mạnh mẽ, quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ và thống nhất trên phạm vi cả nước.

Theo ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, đến nay, 91% bộ, ngành (20/22) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của các bộ, ngành đã xây dựng, công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính).

Đồng thời, các bộ, ngành cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng (74/98 cơ quan, tổ chức, tỉ lệ 75,5%).

Tại địa phương, 98,4% địa phương (62/63) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của địa phương đã xây dựng, công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính).

Các địa phương cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng, theo đó có 62/63 địa phương (tỉ lệ 98,4%) đã triển khai việc xây dựng, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng tại các UBND cấp xã, trong đó đã có 5.564/8.910 UBND cấp xã (tỉ lệ 62,5%) đã xây dựng, áp dụng, công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp TCVN ISO 9001 theo quy định.

Ông Nguyễn Hoàng Linh cho biết, do hệ thống quản lý chất lượng yêu cầu cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước khi giải quyết thủ tục hành chính cho người dân/tổ chức phải công khai các yêu cầu về hồ sơ, tài liệu mà người dân phải nộp; nêu rõ quy trình xử lý công việc, kết quả xử lý cuối cùng, thời gian hoàn thành, từ đó có thể đưa ra biện pháp để giúp đơn giản hoá các thủ tục hành chính.

Đồng thời giúp vận hành cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” hiệu quả hơn; tạo điều kiện để người dân cùng giám sát cán bộ, công chức, giám sát các thủ tục hành chính có được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó kiến nghị sửa đổi, chỉnh lý văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế...

isocp1

Lãnh đạo Bộ KH&CN tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong việc triển khai Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Ảnh: Hoàng Giang

Áp dụng ISO điện tử vào chuyển đổi số

Tại Hội nghị, nhiều ý kiến đề xuất các giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh hoạt động chuyển đổi số ngày càng được đẩy mạnh (Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số).

Theo Phó Giám đốc Sở KH&CN TPHCM Nguyễn Thị Kim Huệ, việc áp dụng công nghệ thông tin trong xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 trong thời gian tới nếu được duy trì và triển khai tốt hơn nữa sẽ góp phần tích cực trong việc thực hiện xây dựng chính quyền điện tử nói riêng và cải cách hành chính của TPHCM nói chung. Đồng thời kiến nghị mở rộng UBND phường, xã, thị trấn là đối tượng bắt buộc phải xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng để thực hiện đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương...

Bên cạnh đó, đại diện một số Sở KH&CN địa phương cũng nêu một số khó khăn, vướng mắc như: Hiện nay, quy định về điểm số cho hoạt động xây dựng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong việc chấm điểm chỉ số cải cách hành chính còn thấp, chưa tạo động lực thúc đẩy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này; công tác kiểm tra việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng chưa được thực hiện sát sao...

Cho rằng trong thời gian đầu, việc áp dụng TCVN ISO 9001 còn khá mới mẻ, khó khăn nhưng đến nay hoạt động này đã trở thành một công cụ hữu hiệu xây dựng nền hành chính hiện đại, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định đề nghị lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ quan, tổ chức trực thuộc hoàn tất các nội dung theo quy định tại Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg; tăng cường hoạt động kiểm tra việc xây dựng, áp dụng, duy trì, cải tiến tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Đồng thời gắn kết việc triển khai Chính phủ điện tử, chuyển đổi số với hoạt động xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001; mở rộng việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng cho các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng như UBND cấp xã, các đơn vị sự nghiệp...

Bộ KH&CN sẽ nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg cho phù hợp với tình hình thực tế theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đối với các hoạt động liên quan đến dịch vụ công.

“Đặc biệt đó là tăng cường áp dụng ISO điện tử gắn với việc xây dựng chính quyền điện tử và chuyển đổi số. Đây là một nội dung rất quan trọng cần đẩy mạnh trong thời gian tới”, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh.

Hoàng Giang - baochinhphu.vn

Chiều 7-4, UBND TPHCM tổ chức hội nghị triển khai thực hiện Nghị định số 33/NĐ-CP (gọi tắt là NĐ33) quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 (NQ131) về tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM. 
Tham dự có các đồng chí: Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TPHCM; Nguyễn Hồ Hải, Phó Bí thư Thành ủy TPHCM; Trần Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

Bước chuyển biến mới về chế độ công vụ

Đại diện Ban soạn thảo dự thảo NĐ33, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn cho biết, yêu cầu của tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM là phải đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý của chính quyền địa phương phù hợp với tính chất đặc điểm của đô thị. Đồng chí Trần Anh Tuấn nhấn mạnh, một trong những nội dung chính và mới liên quan đến mô hình chính quyền đô thị tại TPHCM là thống nhất về chế độ công vụ, công chức giữa UBND quận, phường với TPHCM. Cụ thể, công chức của UBND phường thuộc biên chế công chức của UBND quận, thành phố thuộc TPHCM (TP Thủ Đức), do quận, TP Thủ Đức quản lý, sử dụng.

Các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND quận theo mô hình này không còn là cán bộ do HĐND bầu mà được chuyển sang công chức. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác… do Chủ tịch UBND TPHCM quyết định. Ở cấp phường, chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường sẽ do Chủ tịch UBND quận bổ nhiệm. Thứ trưởng Bộ Nội vụ đánh giá, đây là bước chuyển biến mới về chế độ công vụ.

Để giảm tải và giải quyết nhanh công việc của dân, Chủ tịch UBND phường được ủy quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch thực hiện ký chứng thực bản sao các giấy tờ, chứng thực chữ ký trong các giấy tờ… NĐ33 cũng có quy định về bảo đảm dân chủ và công khai minh bạch trong mọi hoạt động của UBND quận, phường. Theo đó, các kết luận, quyết định của UBND quận, phường đều được đưa tin trên Cổng thông tin điện tử của quận, phường. Chủ tịch UBND quận, phường định kỳ phải tổ chức hội nghị đối thoại với nhân dân, cộng đồng dân cư, tổ dân phố và gửi kết quả đối thoại đến HĐND, UBND cấp trên. Việc này thể hiện tính công khai minh bạch và trách nhiệm của người đứng đầu.

Đối với TP Thủ Đức - TP thuộc TP trực thuộc Trung ương đầu tiên của cả nước, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn phân tích điểm mới so với các quận, huyện là trong các cơ quan chuyên môn giúp việc cho TP Thủ Đức, có thêm Phòng Khoa học - Công nghệ. Đồng chí nhận định, sứ mệnh của TP Thủ Đức là trung tâm nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực chất lượng cao, động lực phát triển không chỉ của TPHCM mà còn cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nên việc có thêm phòng này là rất cần thiết. Tại TP Thủ Đức, số lượng cấp phó của các cơ quan chuyên môn là 3, nhiều hơn so với quy định chung 1 người và điều này phù hợp đặc điểm, mục tiêu, chức năng, sứ mệnh của TP Thủ Đức.

Xây dựng các cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong nêu rõ, năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện chính quyền đô thị theo Nghị quyết số 131/2020/QH14, nên các cơ quan, đơn vị phải đặc biệt chú trọng đến khâu thực hiện các nhiệm vụ; phân công rõ người, rõ việc và thời gian hoàn thành. Đồng chí lưu ý, trong nhiệm kỳ 2021-2026, TPHCM sẽ không tổ chức HĐND quận, phường tại 16 quận và 249 phường. Do đó, trách nhiệm của Chủ tịch UBND quận, phường sẽ nặng nề hơn. Đồng chí Nguyễn Thành Phong mong muốn cán bộ, công chức không xem đó là khó khăn, mà cần phải nỗ lực, tăng tốc mạnh mẽ hơn, làm tốt hơn các cơ chế, chính sách đã đề ra.

DMCQdothi
Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong  phát biểu  tại hội nghị Ảnh: VIỆT DŨNG
Đồng chí Nguyễn Thành Phong lưu ý, điểm then chốt trong NQ131, NĐ33 là tạo ra nhiều động lực và cơ hội phát triển TPHCM. Đó là: quyền đại diện, quyền dân chủ và quyền được tiếp nhận thông tin của người dân vẫn được đảm bảo và duy trì ở mức độ cao như trước đây. Bộ máy, cơ cấu tổ chức của các quận, phường được tinh gọn; cơ quan hành chính ở quận, phường tích cực, chủ động điều hành, quyết định nhanh chóng những vấn đề cấp bách của địa phương. Cùng với đó là góp phần cải cách hành chính. Chính vì thế, khi tổ chức thực hiện chủ đề năm 2021 của TPHCM - Năm thực hiện chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư, đồng chí Nguyễn Thành Phong yêu cầu các sở, ban, ngành, quận, phường, TP Thủ Đức cần đề ra những mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư cao hơn so với mục tiêu chung của TPHCM.

Đề cập đến TP Thủ Đức, đồng chí Nguyễn Thành Phong yêu cầu phải khẩn trương thành lập Phòng Khoa học - Công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ, tạo nền tảng công nghệ phục vụ phát triển TP Thủ Đức.

Đặc biệt nhấn mạnh cán bộ là nguồn gốc thành công của mọi công việc, đồng chí Nguyễn Thành Phong yêu cầu mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải nhận thức được điều này để tự đổi mới, tự hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Đồng chí cho hay, TPHCM sẽ xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm tạo động lực nhiều hơn nữa cho cán bộ, công chức, viên chức thi đua sáng tạo, phát huy sở trường, phục vụ lâu dài trong các cơ quan nhà nước. Điều này giúp TPHCM luôn là nơi hội tụ của những con người giỏi nhất, tâm huyết nhất, luôn năng động, sáng tạo, biết vượt qua khó khăn, thách thức để phục vụ cho sự phát triển của TPHCM và phụng sự nhân dân. Chủ tịch UBND TPHCM khẳng định, TPHCM sẽ tiếp tục đổi mới phương pháp làm việc của cơ quan hành chính nhà nước theo tinh thần phục vụ.

Lộ trình triển khai Nghị định 33

Trong năm 2021, UBND TPHCM phân cấp, ủy quyền cụ thể cho chính quyền địa phương ở quận, TP Thủ Đức, phường phù hợp với tổ chức chính quyền đô thị và khả năng thực tiễn của từng địa phương. Trước quý 2-2021, TPHCM thực hiện việc sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quận, phường theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Trước ngày 1-7, Sở Nội vụ phối hợp với UBND quận, TP Thủ Đức hướng dẫn và thực hiện việc chuyển Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường, công chức cấp xã ở phường được bầu hoặc tuyển dụng trước ngày 1-7 thành công chức cấp huyện trở lên.

MAI HOA - MẠNH HÒA (SGGP)

Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, tập trung nguồn lực nâng tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 và tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu Chính phủ giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2021, phục vụ người dân, doanh nghiệp.

naocaodvc

Ảnh minh họa

Thông báo nêu rõ, Thủ tướng biểu dương, đánh giá cao sự nỗ lực của các thành viên Ủy ban, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp đã tâm huyết, tích cực, chung sức, đồng lòng đóng góp cho thành công trong công tác xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số trong thời gian qua. Biểu dương Bộ Thông tin và Truyền thông đã thực hiện tốt vai trò đầu mối giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ điều phối công tác xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, chuyển đổi số; biểu dương, đánh giá cao Văn phòng Chính phủ đã có nhiều đổi mới, sáng tạo, quyết liệt trong việc xây dựng các nền tảng Chính phủ điện tử phục công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; ghi nhận, biểu dương những đóng góp tích cực, hiệu quả của các doanh nghiệp công nghệ thông tin như Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Công ty cổ phần FPT, Công ty cổ phần CMC, Công ty cổ phần BKAV,... trong công tác xây dựng Chính phủ điện tử, chuyển đổi số quốc gia, phục vụ người dân, doanh nghiệp.Đó là nội dung tại Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại phiên họp Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ điện tử ngày 10/3/2021.

Để phát triển Chính phủ điện tử, chuyển đổi số giai đoạn tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, về thể chế, chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, Bộ Công an đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trình Chính phủ xem xét ban hành; Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ để hoàn thiện dự thảo Nghị định về định danh và xác thực điện tử trình Chính phủ xem xét, ban hành; hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

Về triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, Bộ Công an triển khai hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, kết nối, chia sẻ, khai thác triệt để dữ liệu để giảm tối đa giấy tờ trong xử lý thủ tục hành chính, đến tháng 7 năm 2021 khai thác, sử dụng chính thức trên diện rộng; Bộ Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh tiến độ xây dựng Cơ sở dữ liệu Đất đai quốc gia, bảo đảm đến tháng 07 năm 2021 hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu đất đai theo quy định.

Các bộ, ngành, địa phương sử dụng, khai thác hiệu quả các dịch vụ cung cấp trên Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia; chủ động thực hiện kết nối, chia sẻ, cung cấp dữ liệu của mình cho các cơ quan khác theo quy định tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; 100% các bộ, ngành, địa phương hoàn thành xác định cấp độ an toàn hệ thống thông tin và đề xuất phương án bảo đảm an toàn thông tin.

Về việc triển khai chuyển đổi số, các bộ, ngành, địa phương hoàn thành xây dựng, triển khai ngay các chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án chuyển đổi số cho giai đoạn mới, quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia; các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, trường học tiếp tục duy trì, phát triển các hoạt động trực tuyến, ứng dụng công nghệ số trong mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội như đã được hình thành trong thời gian dịch bệnh COVID-19; Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường quản lý, đẩy mạnh triển khai công nghệ thông tin và viễn thông phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số.

Chí Kiên - baochinhphu.vn

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Danh mục dịch vụ công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2021. 

51dvcong

Ảnh minh họa 

Bên cạnh đó, danh mục mới ban hành có 44 dịch vụ thuộc nhóm dịch vụ công trực tuyến thiết yếu theo đánh giá Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc, đó là các dịch vụ như: Gia hạn tạm trú, cấp thị thực cho người nước ngoài tại Việt Nam; Cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ; Cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng; Đăng ký dự thi kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và xét tuyển đại học, cao đẳng; Đăng ký tuyển sinh đầu cấp (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông); Đăng ký, cấp biển số mô tô, xe gắn máy; Đổi giấy phép lái xe do ngành giao thông vận tải cấp; Kê khai thuế cá nhân; Nộp thuế, lệ phí trước bạ (cá nhân, doanh nghiệp); Thanh toán học phí; Thanh toán viện phí…Trong danh mục dịch vụ công trực tuyến cần sớm được tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia năm 2021, 11 dịch vụ thuộc nhóm dịch vụ công thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư như: Cấp, cấp lại, đổi thẻ căn cước công dân; Xác nhận số Chứng minh nhân dân khi đã được cấp thẻ Căn cước công dân; Đăng ký thường trú; Đăng ký tạm trú; Khai báo tạm vắng; Thông báo lưu trú; Liên thông đăng ký khai sinh-đăng ký thường trú-cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi; Cấp hộ chiếu phổ thông…

Trong danh mục dịch vụ công trực tuyến cần sớm tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2021, có 48 dịch vụ mức độ 4.

Ngoài những dịch vụ công trực tuyến phê duyệt nêu trên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của bộ, ngành, địa phương, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt danh mục, lộ trình, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trực thuộc trong việc tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến thuộc phạm vi quản lý trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2021 đảm bảo đạt tỷ lệ tối thiểu theo quy định tại Nghị quyết 01 ngày 1/1/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021..

Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nghiên cứu, cải thiện trải nghiệm người dùng theo hướng phát triển ứng dụng trên thiết bị di động của Cổng Dịch vụ công Quốc gia giúp người dân chỉ cần sử dụng một ứng dụng có thể kết nối, thực hiện các dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương, cũng như cung cấp các thư viện để các ứng dụng khác của bộ, ngành, địa phương có thể tích hợp, kết nối tạo nhiều tiện ích hơn cho người dân, doanh nghiệp; triển khai thí điểm giải pháp xác thực tiên tiến khác như xác thực qua chữ ký số được tích hợp trong ứng dụng trên thiết bị di động để phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia làm cơ sở để triển khai nhân rộng, đáp ứng yêu cầu về nghiệp vụ, kỹ thuật.

Chí Kiên - baochinhphu.vn

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) Nguyễn Mạnh Hùng cho biết trong quý I hoặc đầu quý II/2021, Chính phủ sẽ phê duyệt Chiến lược Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, cung cấp dịch vụ số cho người dân, toàn bộ bộ máy công quyền chuyển sang hoạt động trên môi trường số và Chính phủ số tại Việt Nam sẽ được hình thành vào năm 2025.

cpdttthc1

 Tỷ lệ bộ, ngành, địa phương đã có Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu (LGSP). Ảnh: Quang Hiếu

Báo cáo tại phiên họp của Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử chiều 10/3, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng cho biết đến nay phần lớn các nhiệm vụ, đề án tại Nghị quyết 17/NQ-CP đã được các Bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai và hoàn thành.

Nhiều kinh nghiệm trong triển khai Chính phủ điện tử

Các nhiệm vụ được hoàn thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển Chính phủ điện tử thời gian qua, điển hình là việc xây dựng các văn bản pháp lý, các nền tảng, ứng dụng Chính phủ điện tử quy mô quốc gia. Một số kinh nghiệm, cách làm hiệu quả trong xây dựng Chính phủ điện tử giai đoạn 2016-2020 được Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nêu cho thấy những cách làm hiệu quả của các bộ, ngành, địa phương trên 5 góc độ thành phần của Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam: Phát triển hạ tầng kỹ thuật; phát triển cơ sở dữ liệu; phát triển nền tảng; phát triển ứng dụng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

Khắc phục hạn chế của giai đoạn trước đây về hạ tầng kỹ thuật cho Chính phủ điện tử còn kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ, là điểm nghẽn của quá trình phát triển, đến nay các giải pháp thiết kế tổng thể được triển khai đồng bộ và triển khai hình thức thuê dịch vụ. Tiểu biểu là TP. Đà Nẵng đã triển khai trước, thiết kế tổng thể, đồng bộ hạ tầng kỹ thuật dùng chung cho tất cả các cơ quan Đảng, HĐND và UBND các cấp giúp tiết kiệm thời gian, chi phí. Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thay vì tự đầu tư, vận hành Trung tâm dữ liệu của tỉnh đã triển khai hình thức thuê dịch vụ điện toán đám mây, kết quả Trung tâm dữ liệu đã hoạt động ổn định, hiệu quả, an toàn...

Đến hết năm 2020, hệ thống các nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu đã được hình thành trên quy mô quốc gia theo Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam; bao gồm nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của mỗi bộ, tỉnh (LGSP) và các nền tảng này được kết nối với nhau thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia.

Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh đã được phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu kết nối, chia sẻ dữ liệu trong nội bộ của bộ, tỉnh và kết nối ra bên ngoài. Nếu như năm 2018 chỉ có 3 bộ, ngành, địa phương có LGSP, đạt tỷ lệ 3,2% thì đến năm 2020 đã có 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có LGSP và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia.

Nêu hiệu quả về cơ sở dữ liệu quốc gia hiệu quả tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử, Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng cho biết cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai đã tạo ra những cải cách lớn về đăng ký kinh doanh: Đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế trên toàn quốc; giảm thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tin học hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ về đăng ký doanh nghiệp.

Lợi ích kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp đã phục vụ xác minh thông tin doanh nghiệp; doanh nghiệp không phải điền lại thông tin về đăng ký kinh doanh vào biểu mẫu điện tử mỗi khi sử dụng dịch vụ công; công chức xử lý hồ sơ thuận tiện, không phải nhập dữ liệu trên các phần mềm khác nhau. Bộ Giao thông vận tải kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp như: cấp giấy phép kinh doanh vận tải; cấp đổi phù hiệu xe...

"Những lợi ích này giúp tiết kiệm thời gian, công sức cho xã hội", Thứ trưởng Bộ TT&TT cho biết và nhấn mạnh: "Khoảng 700.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam với hàng triệu lần thực hiện thủ tục hành chính hàng ngày cho thấy việc kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp có thể giúp tiết kiệm cho xã hội một giá trị hữu hình và vô hình rất lớn.

cpdttthc2

Tỷ lệ cung cấp dịch vụ công mức độ 4 từ năm 2016-2020. Ảnh: Quang Hiếu

Cũng trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và vận hành các ứng dụng cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp. Đến hết năm 2020, tất cả các bộ, ngành, địa phương đã có Cổng dịch vụ công để cung cấp dịch vụ công trực tuyến, điều này giúp người dân dễ tiếp cận dịch vụ công, tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính.Tỷ lệ dịch vụ công mức độ 4 vượt mục tiêu đặt ra

Trên 55% dịch vụ công của các cơ quan nhà nước đã được cung cấp trực tuyến mức độ cao (mức độ 3, mức độ 4), cho phép người dân nộp hồ sơ thủ tục hành chính và thanh toán qua mạng. Trong năm 2020, nhờ cách làm mới, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 tăng mạnh mẽ. Cụ thể như năm 2016, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trung bình cả nước là 1,42% thì đến năm 2020, tỷ lệ này là 30,86% (vượt mục tiêu 30% năm 2020).

Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử để tin học hóa quá trình tiếp nhận và quản lý quá trình xử lý hồ sơ thủ tục hành chính, điều này giúp các cơ quan nhà nước nâng cao năng suất lao động và công khai, minh bạch các hoạt động của mình.

Tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc cho biết, ngày 25/2 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã dự lễ khai trương Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân là hai Hệ thống được mong đợi trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử.

Trong quá trình triển khai hai Hệ thống, Bộ Công an đã quyết tâm với phương châm: "Đồng bộ-Hiện đại-Bảo mật cao-Tránh lãng phí". Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp của các bộ, cơ quan nên phần việc của 2 dự án nêu trên được gộp lại, không đầu tư tràn lan, lãng phí rút ngắn thời gian đầu tư, tận dụng tối đa cơ sở vật chất, nguồn lực... tiết kiệm khoảng 1.300 tỷ đồng. Kết quả này nói lên sự cố gắng rất cao của ngành công an và các cơ quan, đơn vị phối hợp đã phát huy được trí tuệ, sáng tạo để thực hiện dự án.

Sang giai đoạn 2 của dự án nêu trên, Bộ Công an đặt ra mốc ngày 1/7/2021 cơ bản cấp xong căn cước công dân có gắn chíp để nhân dân giao dịch và bỏ bớt các thủ tục giấy tờ.

Bộ máy công quyền sẽ chuyển sang hoạt động trên môi trường số

Cho biết thêm về kinh nghiệm xây dựng Chính phủ điện tử, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử nêu 5 kinh nghiệm trong triển khai Chính phủ điện tử trong thời gian qua.

Theo đó, điều đầu tiên là cần cơ quan điều phối thống nhất, cơ quan điều hành chung để tổng hợp, giám sát, thực thi, đánh giá, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn... Thứ hai là cách làm hài hòa giữa tập trung và phân tán. Thứ ba là luôn dùng công nghệ mới nhất, trong đó công nghệ số đang thay thế CNTT cho phép dùng các nền tảng số để triển khai đồng loạt, Chính phủ điện tử vì thế cũng được thúc đẩy nhanh hơn.

Thứ tư là đặt mục tiêu cao để tìm cách làm đột phá bởi Việt Nam là nước đi sau, vì vậy phải đi nhanh và đi trước thì mới có cơ hội thay đổi thứ hạng; chỉ khi có mục tiêu cao thì công nghệ mới thường tạo ra sự đột phá trong phát triển.

Thứ năm là cần ngân sách ổn định cho xây dựng Chính phủ điện tử. Ở Việt Nam, địa phương, bộ, ngành có thể dùng 1% ngân sách hằng năm để phát triển Chính phủ điện tử, đây là mức trung bình của thế giới.

Về định hướng phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn tới, Bộ trưởng Bộ TT&TT cho biết trong quý I/2021 hoặc đầu quý II/2021, Chính phủ sẽ phê duyệt Chiến lược Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

"Điều quan trọng nhất của Chính phủ số là cung cấp dịch vụ số cho người dân, toàn bộ bộ máy công quyền chuyển sang hoạt động trên môi trường số. Sử dụng dữ liệu, công nghệ số để thiết kế lại vận hành của Chính phủ nhằm giúp cho việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Quan điểm cơ bản phát triển Chính phủ số là: Toàn bộ hoạt động của Chính phủ an toàn trên môi trường số; có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng, đưa ra quyết định nhanh hơn, kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế-xã hội.

Bên cạnh đó là định hướng mở để người dân, doanh nghiệp và tổ chức khác nhau tham gia vào vận động của cơ quan nhà nước, tương tác cơ quan nhà nước để tăng cường tính minh bạch, nâng cao chất lượng phục vụ. Cơ quan nhà nước là dữ liệu và cung cấp dữ liệu mở để phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Ngoài ra, nền tảng là giải pháp đột phá, phát triển các nền tảng theo hướng cung cấp dịch vụ đồng bộ, thông suốt, có thể sử dụng mọi nơi. Thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số vừa phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, coi Chính phủ số là thị trường phát triển công nghệ.  

Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT, các chỉ tiêu Chính phủ điện tử sẽ cơ bản hoàn thành năm 2021 với trọng tâm dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đạt 100% còn Chính phủ số sẽ được hình thành vào năm 2025. Theo đó, các dịch vụ của Chính phủ được cung cấp tự động 24/24 theo nhu cầu, các dịch vụ công mới được cung cấp kịp thời và trên cơ sở dữ liệu mở.

Chiến lược Chính phủ số đặt ra 5 mục tiêu: Cung cấp dịch vụ công chất lượng cao cho người dân; huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và doanh nghiệp; sự vận hành tối ưu của cơ quan nhà nước dựa trên công nghệ số; giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế-xã hội như y tế, giáo dục, giao thông...

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho biết, chuyển đổi từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số là chuyển đổi có tính căn bản, từ dịch vụ công trực tuyến thành dịch vụ số; khái niệm hệ thống CNTT được thay bằng nền tảng số; từ tiếp cận theo hướng dịch vụ trở thành tiếp cận theo hướng dữ liệu; từ sự tham gia của cơ quan nhà nước thành sự tham gia của nhà nước và người dân, doanh nghiệp; từ cải cách thủ tục hành chính thành thay đổi mô hình quản trị...

Chiến lược Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số cũng sẽ đặt ra 6 nhiệm vụ trọng tâm: Hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hạ tầng số quốc gia, phát triển nền tảng số quốc gia, phát triển dữ liệu quốc gia, phát triển các ứng dụng quốc gia và bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia. 

Gia Huy - baochinhphu.vn

Nhiều kết quả tích cực được xác định sau thời gian xây dựng Chính phủ điện tử vừa qua, nổi bật là nâng cao chất lượng phục vụ, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; đổi mới phương thức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước và phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng tới Chính phủ không giấy tờ. 

cpdt1

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bấm nút khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia  ngày 09/12/2019. Ảnh: Gia Huy

Hoàn thiện thể chế phục vụ triển khai Chính phủ điện tử

Chiều nay (10/3), Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì phiên họp của Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ điện tử (CPĐT). Đối với nhiệm vụ triển khai CPĐT do Văn phòng Chính phủ (VPCP) chủ trì, theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết, thời gian qua VPCP đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai và đạt một số kết quả tích cực trong xây dựng CPĐT.

Từ những chủ trương lớn được vạch ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc: “Nghĩ lớn, nhìn tổng thể, hành động nhanh, bắt đầu từ những việc cụ thể” trong xây dựng, triển khai CPĐT, VPCP đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình để thúc đẩy việc thực hiện.

VPCP đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025, tập trung vào 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ các nút thắt về thể chế, hạ tầng công nghệ, nguồn nhân lực, đồng thời đưa ra cách làm phù hợp để bảo đảm triển khai hiệu quả.

VPCP đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ thành lập Ủy ban Quốc gia về CPĐT do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển CPĐT, còn tại các bộ, ngành, địa phương cũng thiết lập các Ban chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử do Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban.

Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai xây dựng CPĐT đã ban hành như: Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, Nghị định số 09/2019/NĐ-CP quy định về chế độ báo cáo, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về gửi, nhận văn bản điện tử, Quyết định số 45/2018/QĐ-TTg quy định về chế độ họp…

Nâng cao chất lượng phục vụ qua vận hành Cổng DVC Quốc gia

VPCP đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia (DVCQG) trở thành đầu mối kết nối với các Cổng DVC, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh, qua đó, người dân, doanh nghiệp được hỗ trợ thông tin, hỗ trợ việc thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến của tất cả các ngành, lĩnh vực, các địa phương mà không bị hạn chế về thời gian, không gian địa lý.

Cổng dịch vụ công quốc gia góp phần chuẩn hóa việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, Cổng dịch vụ công, hệ thống một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; tiết kiệm chi phí đầu tư của các bộ, ngành, địa phương thông qua cung cấp 04 phân hệ dùng chung tại Cổng dịch vụ công quốc gia, bao gồm (1) Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, (2) Hệ thống phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, (3) Nền tảng trao đổi định danh điện tử của Cổng dịch vụ công quốc gia, (4) Hệ thống thanh toán trực tuyến.

Từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ nhấn nút khai trương (ngày 09/12/2019) với 8 dịch vụ công ban đầu, đến ngày 8/3/2021 đã có hơn 2.800 dịch vụ công được tích hợp, cung cấp trên tổng số gần 6.800 thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền, với hơn 116 triệu lượt truy cập, hơn 468.000 tài khoản đăng ký; hơn 42,5 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; trên 940.000 hồ sơ thực hiện trực tuyến và hơn 67.000 giao dịch thanh toán điện tử (tổng số tiền hơn 26,7 tỷ đồng) trên Cổng; tiếp nhận, hỗ trợ trên 53.000 cuộc gọi, hơn 10.000 phản ánh, kiến nghị.

“Những con số này cho thấy sự quan tâm rất lớn cũng như sự kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp trong việc sử dụng một cổng tập trung để thực hiện các giao dịch trực tuyến với Chính phủ. Chi phí tiết kiệm được khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia là hơn 8.100 tỷ đồng/năm”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cho biết.

cpdt2

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng chạy thử nghiệm hệ thống e-Cabinet trên máy tính bảng. Ảnh: Gia Huy 

Đổi mới phương thức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP, xây dựng CPĐT thời gian qua đã góp phần thúc đẩy việc gửi, nhận văn bản điện tử thông qua Trục liên thông văn bản quốc gia và xử lý văn bản trên môi trường mạng. Cụ thể là triển khai gửi, nhận văn bản điện tử theo Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi quan trọng để thay đổi tác phong, lề lối làm việc từ giải quyết công việc dựa trên giấy tờ sang giải quyết công việc trên môi trường mạng, góp phần giảm đáng kể chi phí, thời gian gửi, nhận văn bản, thời gian xử lý công việc (tiết kiệm trên 1.200 tỷ đồng mỗi năm từ tiền giấy, mực, sao lưu, gửi bưu chính, chi phí thời gian…), nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Trục liên thông văn bản quốc gia đến nay đã kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử ở 02 cấp chính quyền với 94/94 bộ, ngành, địa phương. Tính từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ khai trương Hệ thống ngày 12/3/2019 đến ngày 08/3/2021, đã có hơn 4,5 triệu văn bản điện tử gửi, nhận qua Trục liên thông văn bản quốc gia, số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trong năm 2020 gấp 2,5 lần so với năm 2019.

Với mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ, Hệ thống e-Cabinet đã được đưa vào vận hành kết nối đến 22 bộ, cơ quan ngang bộ, giúp quản lý đồng bộ, đầy đủ các phiên họp của Chính phủ, tổ chức lấy ý kiến các thành viên Chính phủ một cách đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả trên môi trường mạng và góp phần rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí in ấn, sao chụp tài liệu giấy. Từ ngày khai trương (ngày 24/6/2019) đến ngày 08/3/ 2021, Hệ thống e-Cabinet đã phục vụ 28 hội nghị, phiên họp của Chính phủ (các đại biểu sử dụng tài liệu điện tử) và thực hiện xử lý 685 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ thay thế việc phát hành hơn 253.000 hồ sơ, tài liệu giấy. Việc sử dụng Hệ thống giúp tiết kiệm chi phí là hơn 169 tỷ đồng/năm.

Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương tháng 8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay, hệ thống đã kết nối với Hệ thống báo cáo của 14 bộ, cơ quan và 37 địa phương. Tương tác, điều hành trực tuyến thông qua hệ thống mạng dữ liệu của Bộ Quốc phòng, mạng chuyên dùng, Internet với gần 57 điểm cầu tại các bộ, ngành, địa phương; kết nối 32 camera giám sát các hồ đập thủy điện…; cung cấp dữ liệu của 105/200 chỉ tiêu kinh tế-xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 8 chỉ tiêu kinh tế-xã hội hàng tháng.

Các hệ thống thông tin do VPCP chủ trì triển khai nêu trên được đưa vào vận hành giúp tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900 tỷ đồng/năm (theo cách tính của OECD) và nhận được phản hồi tích cực của xã hội; tạo sự thay đổi rõ rệt về phương thức làm việc giữa các cơ quan hành chính nhà nước cũng như trong giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công trực tuyến; vừa tạo lực kéo vừa tạo lực đẩy trong triển khai CPĐT, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số; góp phần thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ vừa phát triển kinh tế vừa hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19.

 

Theo TS Bùi Ngọc Hiền, Học viện Cán bộ TP.HCM, đột phá trong cải cách hành chính phải hướng đến/để phục vụ người dân, doanh nghiệp thì mới đem lại hiệu quả/kết quả là thúc đẩy sự phát triển toàn diện của TP.
 
Một trong ba chương trình đột phá của TP.HCM giai đoạn 2020-2025 là “đột phá đổi mới quản lý”. Trong đó, Đảng bộ TP xác định hàng loạt đầu việc: Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính (CCHC), đột phá về thể chế, thủ tục hành chính…
BNhien
TS Bùi Ngọc Hiền.

Người dân, doanh nghiệp là trung tâm của CCHC

Để tạo bước đột phá trong CCHC, Đảng bộ và các cấp chính quyền TP trong nhiệm kỳ 2020-2025 cần thể hiện rõ hơn mục tiêu cốt lõi trong CCHC là hướng tới phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp. Khi đã xác định “người dân là trung tâm của đô thị” thì người dân, doanh nghiệp cũng chính là trung tâm, là hướng đích/người thụ hưởng kết quả/thành quả của CCHC.

Do đó, các cấp hành chính, các cơ quan công quyền của TP cần rà soát, xác định những nội dung, nhiệm vụ hay thủ tục hành chính nào là trọng tâm để đột phá, tập trung thực hiện cải cách. “Phục vụ người dân, doanh nghiệp” không thể là câu khẩu hiệu, lời động viên tinh thần mà phải trở thành/thể hiện trong từng thái độ, hành vi và hành động cụ thể của cán bộ, công chức, viên chức. 

Khi đã xác định người dân, doanh nghiệp là trung tâm của CCHC thì mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong từng hoạt động, từng công việc cụ thể phải hướng đến hai đối tượng này để phục vụ. Có như vậy cán bộ, công chức, viên chức mới là nhân tố thực hiện có kết quả việc CCHC. 

Từ những đòi hỏi trên, từ chính quyền TP đến từng cơ quan cần xác định quy chuẩn, tiêu chí rõ ràng những phẩm chất, năng lực cần có ở từng nhóm/người cán bộ, công chức, viên chức… Trên cơ sở đó, thực hiện việc tuyển dụng, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của TP đáp ứng yêu cầu quản trị TP trong bối cảnh phát triển mới.

3 chương trình (nhỏ) nằm trong chương trình đột phá về quản lý của TP giai đoạn 2020-2025 là:
- Chương trình chuyển đổi số của TP.HCM.
- Chương trình CCHC, nâng cao chỉ số CCHC (PAR Index).
- Chương trình nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư của TP.HCM giai đoạn 2020-2025. 
btan

Cán bộ tại bộ phận một cửa quận Bình Tân đang hướng dẫn người dân cách làm thủ tục bằng hình thức trực tuyến. Ảnh: LÊ THOA

Xây dựng nền quản trị của chính quyền số 

Trong nội dung CCHC trước nhất cần rà soát một cách khoa học, mạnh dạn bãi bỏ, cắt giảm hay đơn giản hóa các thủ tục hành chính để hướng tới tiết giảm thời gian, ngân sách, nguồn lực của chính quyền, người dân, doanh nghiệp. Thực hiện đúng theo lộ trình trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được xác định trong chương trình chuyển đổi số TP.HCM.

Đây là nhiệm vụ - giải pháp quan trọng mà cấp ủy, chính quyền các cấp của TP.HCM cần quan tâm, nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt, cụ thể trong triển khai thực hiện. Chuyển đổi số cần được coi là nhiệm vụ - giải pháp trọng tâm trong các hoạt động quản trị của chính quyền các cấp để hướng tới tầm nhìn đến năm 2030, 

“TP.HCM trở thành đô thị thông minh với sự đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động của bộ máy chính quyền số, của các doanh nghiệp số và sự thịnh vượng, văn minh của một xã hội số”. Quá trình này đòi hỏi chính quyền TP cần xác lập khung pháp lý, mô hình và lộ trình chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực. LÊ THOA ghi

TP thông minh không thể thiếu sự phản biện của người dân

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và các giải pháp thông minh trong các hoạt động quản trị của chính quyền. Trong thời gian tới, chính quyền TP nên học hỏi kinh nghiệm của một số quốc gia trong ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và các giải pháp thông minh vào các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội. Giải pháp này vừa giúp cho chính quyền TP tinh giản biên chế, vừa làm cho chính quyền TP “thông minh hơn” (smarter) trong quản trị và lắng nghe, thấu hiểu dân tình hơn.

Cuối cùng là cần tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách và thể chế; đề cao vai trò giám sát, phản biện xã hội, tạo sự thống nhất, đồng thuận, chung tay xây dựng và phát triển TP. 

TS BÙI NGỌC HIỀN, Học viện Cán bộ TP.HCM - plo.vn

1. Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật tiếp tục có bước chuyển biến rõ rệt
Các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung nguồn lực tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 khóa XII về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật có nhiều kết quả tích cực: Trong năm 2020, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật đã phối hợp với các bộ, cơ quan, rà soát 8.779 văn bản; qua đó, đã phát hiện và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, trong đó tập trung vào 10 lĩnh vực có tác động trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh: (1) Quy định về điều kiện gia nhập thị trường, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp; (2) Quy định về phê duyệt, triển khai, tổ chức thực hiện, chấm dứt dự án đầu tư; quy định về tài chính, thuế; (3) Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; (4) Quy định về đất đai, tài nguyên, môi trường, xây dựng và kinh doanh bất động sản; (5) Quy định pháp luật về lao động, việc làm và an sinh xã hội; (6) Quy định về hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh trong kinh doanh, phá sản doanh nghiệp; (7) Quy định về kiểm tra chuyên ngành; (8) Quy định về bổ trợ tư pháp và tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp; (9) Quy định pháp luật đảm bảo đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; (10) Quy định về phân công, phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong quản lý nhà nước về kinh tế.
2. Cắt giảm chi phí, đơn giản hóa quy định đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp
Tiếp tục thực hiện việc rà soát, đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến đầu tư, kinh doanh thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của bộ, cơ quan để triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025...
Việc vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia tiếp tục có nhiều kết quả tích cực. Các bộ, ngành, địa phương đã tăng cường cấu trúc lại quy trình thủ tục hành chính để tích hợp vào Cổng dịch vụ công quốc gia; đẩy mạnh việc kết nối, thanh toán trực tuyến để tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tính đến ngày 19/12/2020, đã có 2.666 thủ tục hành chính cung cấp trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia (1.382 thủ tục của người dân, 1.441 thủ tục của doanh nghiệp), các đơn vị có đang cung cấp nhiều thủ tục hành chínhlà Bộ Tài chính (230 thủ tục), Bộ Công Thương (131 thủ tục), Bộ Giao thông vận tải (114 thủ tục), tỉnh Nam Định (750 thủ tục), tỉnh Tây Ninh (683 thủ tục), tỉnh Thái Bình (553 thủ tục),...; trên 26.8 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái và có 692.570 hồ sơ trực tuyến thực hiện qua Cổng dịch vụ công quốc gia.
3. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nƣớc tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, với một số nội dung quy định mới đáng chú ý là: Số lượng Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40%; đổi tên hai Uỷ ban của Quốc hội,...
Triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, năm 2020, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành 08 nghị định để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.
Một số đơn vị điển hình về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy trong năm 2020: Bộ Nội vụ đã phối hợp với các Bộ, cơ quan tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định về kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cùng với đó, Bộ cũng đã rà soát, ban hành các quy định kiện toàn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị trực thuộc, như: Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Vụ Tổ chức cán bộ và Vụ Cải cách hành chính. Trong năm 2020, ngành Bảo hiểm xã hội đã tích cực rà soát, sắp xếp, tổ chức lại tổ chức bộ máy của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối trung gian và nâng cao hiệu quả hoạt động. Kết quả đạt được sau rà soát, sắp xếp: Ở Trung ương, sau sắp xếp đã giảm 03 đơn vị cấp ban, giảm 13 đơn vị cấp phòng và 14 chức danh lãnh đạo cấp phòng. Tại địa phương, sau sắp xếp, giảm 65 phòng trực thuộc Bảo hiểm xã hộicấp tỉnh; giảm 58 Bảo hiểm xã hộithị xã, thành phố do chuyển giao nhiệm vụ, nhân sự, tài chính, tài sản về Bảo hiểm Xã hội tỉnh thực hiện, quản lý; giảm 06 Bảo hiểm xã hộicấp huyện do sắp xếp địa giới hành chính; giảm 350 chức danh lãnh đạo cấp phòng và tương đương tại Bảo hiểm xã hộicác cấp. Năm 2020, Bộ Tài chính tiếp tục là điểm sáng, đi đầu trong công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Tính trong năm 2020, Bộ đã ban hành 06 quyết định để kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các vụ, cục, tổng cục và tương đương; đồng thời, ban hành hàng chục quyết định để sắp xếp, tổ chức lại và giải thể các cơ quan thuế, kho bạc các cấp.
Trong năm 2020, Tổng cục Thuế đã cắt giảm 85 chi cục thuế tại các cục thuế cấp tỉnh; giảm khoảng 185 đội thuế thuộc chi cục thuế cấp huyện; Kho bạc Nhà nước đã rà soát, kiện toàn và cắt giảm 06 kho bạc nhà nước cấp huyện. Trên cơ sở Quyết định số 520/QĐ-BTC ngày 13/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, từ cuối năm 2018 đến hết tháng 02/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký ban hành 111 Quyết định thành lập chi cục thuế khu vực trực thuộc 63 cục thuế tỉnh, thành phố trong cả nước. Qua đó,đã tiến hành sắp xếp hợp nhất 565 chi cục thuế để thành lập 269 chi cục thuế khu vực, giảm 296 chi cục thuế. Đồng nghĩa, từ con số 711 chi cục thuế, sau khi hợp nhất toàn ngành chỉ còn lại 415 chi cục thuế, tăng 5 đơn vị so với kế hoạch được giao (kế hoạch giảm còn 420 chi cục thuế) và vượt trước thời gian 10 tháng theo Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 520/QĐ-BTCcủa Bộ trưởng Bộ Tài chính. Việc cắt giảm chi cục thuế đã giúp hệ thống thuế tinh gọn bộ máy, giảm bớt các tầng nấc trung gian, các bộ phận quản lý nội ngành để tập trung nguồn lực cho bộ phận quản lý thuế trực tiếp, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.
4. Ban hành Nghị quyết thành lập thành phố Thủ Đức và thành phố Phú Quốc
Tại Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện để thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP.Hồ Chí Minh. Theo đó, TP.Thủ Đức được thành lập trên cơ sở sáp nhập 03 đơn vị hành chính cấp huyện là Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức, kỳ vọng sẽ tạo tiền đề quan trọng để hình thành khu đô thị sáng tạo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TP.Hồ Chí Minh và phát triển Vùng kinh tế phía Nam. Kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, TP.Hồ Chí Minh có 22 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 16 quận, 5 huyện và 1 thành phố; 312 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 58 xã, 249 phường và 5 thị trấn.
Tại Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập TP.Phú Quốc và các phường thuộc TP.Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. TP.Phú Quốc là thành phố đảo đầu tiên của Việt Nam, sẽ phát huy tốt hơn tiềm năng và lợi thế sẵn có về du lịch - thương mại - công nghệ cao để trở thành một trung tâm du lịch, thương mại lớn của cả nước, khu vực và quốc tế. Sau khi thành lập, TP.Phú Quốc có 9 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 2 phường: An Thới, Dương Đông và 7 xã: Bãi Thơm, Cửa Cạn, Cửa Dương, Dương Tơ, Gành Dầu, Hàm Ninh, Thổ Châu. Tỉnh Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấphuyện, gồm 12 huyện và 3 thành phố; 144 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 116 xã, 18 phường, 10 thị trấn.
5. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trƣơng chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện sang cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm
Nhiều địa phương đã triển khai thí điểm việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích ở các mức độ khác nhau, cụ thể là: 36 địa phương đã thí điểm đặt Bộ phận Một cửa tại trụ sở của Bưu điện và bố trí nhân viên thay thế công chức để tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính. Có 03 tỉnh/thành phố đã triển khai thí điểm đặt Bộ phận Một cửa tại Bưu điện, gồm có: 13 Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh; 46 Bộ phận Một cửa cấp huyện và 64 Bộ phận Một cửa cấp xã. Có 32 tỉnh/ thành phố triển khai bố trí nhân viên bưu điện thay cho công chức tại Bộ phận Một cửa để tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ. 47 tỉnh/thành phố đã phối hợp thực hiện việc luân chuyển hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính giữa Bộ phận Một cửa các cấp với các cơ quan hành chính thông qua dịch vụ bưu điện. Cùng với đó, Cổng dịch vụ công của 12 Bộ và 63 tỉnh, thành phố đã thực hiện kết nối kỹ thuật với Bưu điện các tỉnh, thành phố để triển khai việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết hồ sơ đối với các thủ tục hành chính cung cấp trực tuyến mức độ 3 và 4. Trong năm 2020, trong cả nước đã có 19.954.467 hồ sơ được thực hiện qua dịch vụ bưu chính công ích, trong đó, dịch vụtiếp nhận hồ sơ là 3.990.983 lượt, dịch vụ trả kết quả là 15.963.574 lượt.
6. Các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức và nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức tiếp tục được cải cách mạnh mẽ
Triển khai Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ đã ban hành 07 nghị địnhđể cụ thể hóa các quy định mới của Luật, góp phần hoàn thiện thể chế về quản lý công chức, viên chức. Cụ thể là:
Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức có nhiều đổi mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung một số điều kiện về đăng ký dự tuyển công chức, đổi mới quy trình tuyển dụng công chức và các quy định mới về chế độ công chức tập sự,... Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, trong đó, có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung đáng chú ý là: Đổi mới tiêu chí phân loại viên chức; bổ sung thêm 01 hạng chức danh nghề nghiệp; quy định rõ hơn về điều kiện tuổi được dự tuyển viên chức đối với một số lĩnh vực đặc thù; đổi mới quy trình tuyển dụng và thực hiện chế độ tập sự đối với viên chức,...
Các quy định về xác định vị trí việc làm của công chức và người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Chính phủ đã có những điều chỉnh mới liên quan vị trí việc làm của công chức (tại Nghị định số 62/2020/NĐ-CP) và người làmviệc trong đơn vị sự nghiệp công lập (tại Nghị định số 106/2020/NĐ-CP) so với các quy định trước đây, như các đổi mới về: Căn cứ xác định vị trí việc làm, phân loại vị trí việc làm, các trường hợp điều chỉnh vị trí việc làm, căn cứ xác định và điều chỉnh biên chế công chức,...
Cùng với đó, các quy định về đánh giá, xử lý kỷ luật cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn: Tại Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, Chính phủ đã điềuchỉnh một số quy định về tiêu chí, trình tự và thời điểm đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức hàng năm. Tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, Chính phủ đã quy định chi tiết về nguyên tắc xử lý kỷ luật là phải bảo đảm khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, nghiêm minh, đúng pháp luật; quy định rõ các hình thức xem xét kỷ luật và các trường hợp chưa xem xét kỷ luật; đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tinh thần, danh dự, nhân phẩm trong quá trình xử lý kỷ luật.
7. Điều hành ngân sách nhà nƣớc chủ động, hiệu quả, ch t chẽ, tiết kiệm, góp phần quan trọng thực hiện thành công “nhiệm vụ kép” vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bám sát tình hình thực tiễn, Bộ Tài chính đã chủ động xây dựng các phương án điều hành thu, chi và cân đối ngân sách nhà nước phù hợp với các kịch bản tăng trưởng kinh tế, vừa hỗtrợ doanh nghiệp, người dân ứng phó với dịch bệnh, củng cố nền tảng vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa giữ vững cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp ở địa phương, góp phần thực hiện tốt mục tiêu kép “vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và trật tự xã hội”. Để bảo đảm cân đối ngân sách, bên cạnh việc sử dụng nguồn vượt thu ngân sách nhà nước năm 2019, Bộ Tài chính đã yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương tiến hành rà soát, cắt giảm kinh phí hội nghị, công tác phí trong nước và ra nước ngoài, tiết kiệm thêm chi thường xuyên chưa cần thiết, cấp bách... Nhờ vậy, năm 2020, Việt Nam là một trong số ít những nền kinh tế trên thế giới đạt được mức tăng trưởng dương; lạm phát được giữ vững dưới 4%; các chỉ tiêu về bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài giai đoạn 2016 - 2020 đều trong phạm vi Quốc hội quyết định (không quá 3,9% GDP, 65% GDP, 54% GDP, 50% GDP).
8. Tiếp tục hoàn thiện các quy định và đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cấp các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ cho việc xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, đô thị thông minh
Các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng và nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 cho người dân, tổ chức. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, đây được coi là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2020/QĐ-TTg ngày 22/7/2020 vềmã định danh điện tử của các cơ quan, tổ chức phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương, làm căn cứ quan trọng phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương trong thời gian tới. Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai xây dựng, thử nghiệm và chính thức khởi động Cổng dữ liệu quốc gia từ ngày 31/8/2020. Đây là đầu mối truy cập thông tin, dữ liệu trên mạng Internet phục vụ việc công bố dữ liệu mở, cung cấp thông tin về chia sẻdữ liệu của cơ quan nhà nước; cung cấp các tài liệu, dịch vụ, công cụ, ứng dụng xử lý, khai thác dữ liệu được công bố bởi các cơ quan nhà nước.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến; theo đó, đã quy định rõ về việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống cơ sở dữ liệu khác; các nội dung, trình tự về thực hiện đăng ký hộ tịch trực tuyến; đồng thời, xác định các hành vi không được làm trong khi khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử,...
9. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm viêc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Chương trình đã đề ra mục tiêu cơ bản là nhằm triển khai mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.
Trong đó, các mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là: 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh, 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơcông việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ,.... và đến năm 2030: Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam đặt phấn đấu gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI) và thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI); tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử là trên 80%.
10. Khai trương Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Ngày 19/8/2020, Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm Thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được khai trương và chính thức đi vào vận hành. Đây được coi là điểm nhấn quan trọng mang tính đổi mới, thay đổi phương thức chỉ đạo, điều hành từ dựa trên thông tin, số liệu trên văn bản giấy chuyển sang dựa trên dữ liệu số. Theo đó, Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, được kết nối với các trung tâm điều hành, hệ thống thông tin báo cáo, các cơ sở dữ liệu quốc gia, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của bộ, ngành, địa phương, trở thành một trong những thành phần cốt lõi của hạ tầng số thông minh. Từ Trung tâm, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ có thể theo dõi, kiểm tra được các hoạt động theo từng lĩnh vực do các bộ, ngành, địa phương quản lý thông qua dữ liệu số, hình ảnh trực quan, trực tuyến, giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành được diễn ra nhanh chóng, liên tục và mang lại hiệu quả thiết thực.


Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ

Để Khoa học và công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo thực sự là đột phá chiến lược cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế; tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo; chấp nhận rủi ro, độ trễ trong khoa học, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KH&CN. 

htdatbt

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt. Ảnh VGP/Hoàng Giang


Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt đã chỉ ra 5 giải pháp để KH&CN và đổi mới sáng tạo thực sự là một trong ba đột phá chiến lược như Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định.

Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, xem trọng vai trò của KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo, KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng

Trong những năm qua, KH&CN Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Công tác quản lý nhà nước về KH&CN từng bước được đổi mới, hành lang pháp lý trong lĩnh vực KH&CN được tạo lập toàn diện và đồng bộ hơn, tạo môi trường thuận lợi và cạnh tranh lành mạnh trong nghiên cứu sáng tạo.

Đổi mới sáng tạo dần trở thành tư duy mới trong quản lý, điều hành; nhận thức rõ hơn về vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống sáng tạo quốc gia; từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu; áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN; thực hiện cơ chế khoán chi và kiểm soát chi thông thoáng; gắn nhiệm vụ nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn và thị trường; trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH&CN công lập; phát triển thị trường công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hình thành doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; khuyến khích doanh nghiệp thành lập viện nghiên cứu và đầu tư mạnh cho KH&CN; thí điểm mô hình thu hút, trọng dụng cán bộ khoa học tài năng trong nước và trí thức kiều bào.

Những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách đã góp phần nâng cao tiềm lực và trình độ KH&CN của đất nước. Đến nay, cả nước có 687 tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, 236 trường đại học, ba khu công nghệ cao quốc gia, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tám khu công nghệ thông tin tập trung và gần 67 nghìn cán bộ nghiên cứu. Đã hình thành các viện nghiên cứu công nghệ công nghiệp theo mô hình tiên tiến thế giới ở khu vực công lập và tư nhân. Nguồn lực tài chính cho KH&CN từ ngân sách nhà nước được duy trì mức 2% tổng chi hằng năm; đầu tư từ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp quy mô lớn ngày càng tăng mạnh (chiếm 48% tổng chi xã hội cho KH&CN).

Hạ tầng nghiên cứu một số lĩnh vực trọng điểm như: Công nghệ sinh học, hóa dầu, vật liệu, năng lượng, tự động hóa, nano, công nghệ tính toán, y học được đầu tư tăng cường. Nguồn lực thông tin, nền tảng Tri thức Việt số hóa được đầu tư, kết nối và chia sẻ mở trong cộng đồng. Thị trường công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển sôi động, hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng ngày càng hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, khuyến khích sự ra đời của hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng. 

Số lượng bài báo, công trình khoa học công bố quốc tế và sáng chế của người Việt Nam tăng hằng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp được tăng cường; khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu và ở một số lĩnh vực khoa học có thế mạnh. Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng thêm ba bậc, năm 2019 và 2020 đạt thứ hạng tốt nhất từ trước tới nay, xếp thứ 42 trên 131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp. 

Đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội

Với các tiến bộ trong cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho tiềm lực và trình độ KH&CN, lực lượng KH&CN thật sự đồng hành cùng các cấp, các ngành và địa phương để bám sát thực tiễn, đóng góp ngày càng thiết thực hơn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển hệ thống lý luận mới về vai trò của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững, giúp thay đổi nhận thức và  hành  vi, bồi đắp trí tuệ của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc, góp phần xây dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới tiến bộ.

Khoa học chính trị và kinh tế cung cấp các luận cứ sâu sắc và kịp thời trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện mới. Các công trình nghiên cứu về Biển Đông, đánh giá và dự báo kịp thời cục diện chính trị và ngoại giao trong khu vực, đã phục vụ  đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và an ninh, quốc phòng.  

Khoa học tự nhiên đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất. Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần nâng cao năng lực dự báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan trọng trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, nhất là bậc sau đại học; gia cố nền tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học trẻ đã nhận được các giải thưởng khoa học danh giá trong nước và quốc tế.

Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển lên một tầm cao mới về năng lực và trình độ. Trong nông nghiệp, các nhà khoa học Việt Nam tạo được các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới: Năng suất lúa cao gấp rưỡi Thái Lan và cao nhất ASEAN; năng suất hồ tiêu và cá tra đứng đầu thế giới; năng suất cà phê và cao su đứng thứ hai thế giới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ mới được ứng dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao. 

Trong công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động 5G đã và đang được phát triển. 

Trong lĩnh vực y dược, Việt Nam nằm trong top 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vaccine làm chủ các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và kỹ thuật sinh học phân tử. Trong đại dịch COVID-19, đã kịp thời nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, robot, máy thở, vaccine, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19; góp phần kiểm soát và khống chế thành công dịch bệnh, là minh chứng cho hiệu quả của sự đầu tư kiên trì và chiến lược cho tiềm lực KH&CN nước nhà trong nhiều năm qua.

Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện cơ chế, chính sách

Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc, nhưng KH&CN nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí quốc sách hàng đầu. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy gia tăng về số lượng nhưng thiếu các chuyên gia giỏi đầu ngành trong nhiều lĩnh vực tiên phong. Các công trình nghiên cứu tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với phát triển kinh tế - xã hội còn ít. Tốc độ đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp còn chậm, cho nên chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. KH&CN chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thực trạng đó đặt ra thách thức rất lớn cho lực lượng KH&CN khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, hội nhập ngày càng sâu rộng và chịu sự tác động toàn cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, một trong ba đột phá chiến lược, bên cạnh thể chế và hạ tầng, là đột phá về chất lượng nguồn nhân lực, KH&CN và đổi mới sáng tạo.

Trong thời gian tới, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng KH&CN và đổi mới sáng tạo cần tập trung vào 5 giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật phù hợp cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển KH&CN, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro và độ trễ trong khoa học, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KH&CN.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN theo hướng chú trọng hiệu quả và tác động của nhiệm vụ KH&CN trong giải quyết các bài toán thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chú trọng chất lượng và chỉ số tác động của các bài báo, công trình công bố quốc tế; khả năng ứng dụng và thương mại hóa kết quả KH&CN trong đời sống công nghiệp và xã hội; tăng cường công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Cho phép thử nghiệm chính sách mới, mô hình đổi mới sáng tạo và công nghệ mới.

Thứ hai, đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh. Tiếp tục quan tâm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo lành mạnh. Tăng cường thiết chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ giữa Nhà nước và doanh nghiệp cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển đồng bộ, gắn kết chặt chẽ các ngành khoa học, đồng thời giữ nguyên tắc coi trọng khoa học xã hội và nhân văn, đầu tư nền tảng cho khoa học tự nhiên, ưu tiên khoa học kỹ thuật và công nghệ; nâng cao năng lực đón đầu các ứng dụng KH&CN tiên phong ở trình độ cao. 

Xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ KH&CN, tập trung đầu tư và đầu tư tới ngưỡng để giải quyết các yêu cầu bức thiết trong phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Xem xét khả năng phân quyền và đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN địa phương theo cụm, vùng lãnh thổ để phát huy được thế mạnh tổng hợp và lợi thế của vùng.

Thứ ba, bảo đảm các nguyên tắc công khai, minh bạch, độc lập phản biện (kể cả phản biện quốc tế) trong tuyển chọn và xét chọn nhiệm vụ KH&CN. Trao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN và tổ chức KH&CN công lập, đi đôi với cơ chế bắt buộc chịu sự đánh giá độc lập và giám sát xã hội, công khai kết quả hoạt động KH&CN. Rà soát hiện trạng để đầu tư có chọn lọc đối với một số tổ chức KH&CN trọng điểm, hiệu quả; xem xét chấm dứt đầu tư và giải thể các cơ sở hoạt động kém hiệu quả.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế đầu tư và tài chính cho KH&CN trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, có trọng tâm, trọng điểm, dựa trên chỉ số đo lường kết quả, hiệu quả đầu ra. Linh hoạt và đơn giản hóa thủ tục tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN, thanh quyết toán tài chính theo thông lệ quốc tế, giảm tối đa các gánh nặng hành chính cho các nhà khoa học. Mạnh dạn giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì để thúc đẩy ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KH&CN và có cơ chế kinh tế, tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tham gia mạnh hơn vào hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ.

Thứ năm, tiếp tục đầu tư cải thiện hạ tầng KH&CN, tăng cường trang thiết bị nghiên cứu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành; kiên trì đầu tư tăng cường tiềm lực thông tin KH&CN. Kết hợp đồng bộ giữa hạ tầng nghiên cứu, môi trường học thuật tiên tiến và tự chủ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng và các cơ hội phát triển nghề nghiệp thuận lợi cho nhà khoa học. Mở rộng hợp tác quốc tế và kết nối, thu hút hiệu quả lực lượng khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài. Trọng dụng, đãi ngộ người tài kết hợp đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu. 

Cải tổ bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực quản lý KH&CN; đổi mới tư duy quản lý để ứng phó kịp với các thay đổi không ngừng và nhanh chóng của đời sống KH&CN; áp dụng công nghệ kỹ thuật cao trong quản lý hoạt động KH&CN để giảm thủ tục hành chính đối với các nhà khoa học, tổ chức KH&CN.

Hoàng Giang - nangluccanhtranh.chinhphu.vn

Một trong những nội dung trọng tâm được thảo luận tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương sắp diễn ra là dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 (Nghị quyết 01).

kcnam2021

Kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng tốc trong năm mới 2021. - Ảnh: TNO

Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ, ý kiến góp ý của thành viên Chính phủ và các cơ quan liên quan để hoàn thiện và Bộ đang tiếp tục lấy ý kiến các cơ quan liên quan về dự thảo này.Dự kiến, Nghị quyết này sẽ được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngay từ những ngày đầu năm mới. Ngày 18/12 vừa qua, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thường trực Chính phủ đã họp, thảo luận về dự thảo Nghị quyết 01 – Nghị quyết mang tính xương sống, kim chỉ nam cho chỉ đạo, điều hành cả năm 2021, năm khởi đầu của giai đoạn 5 năm tới.

Dự thảo nhận định, năm 2021, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt. Đại dịch COVID-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhất là đối với đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải hàng không.

Ở trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong bối cảnh nguồn lực hạn chế. Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức. 

Do đó, nhiệm vụ của năm 2021 rất nặng nề, vừa phải cố gắng vượt qua khó khăn, thách thức, quyết tâm hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, vừa phải tích cực chuẩn bị các nhiệm vụ, chương trình, đề án, dự án,… để triển khai các kết luận, nghị quyết của Đảng, Quốc hội cho cả nhiệm kỳ, đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực tối đa, đổi mới sáng tạo, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn trong năm 2021.

11 nhóm giải pháp, 206 nhiệm vụ cụ thể

Trên cơ sở đó, kế thừa những kết quả quan trọng và toàn diện đã đạt được, quyết tâm vượt qua mọi trở ngại, thách thức, tận dụng mọi thời cơ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 và chuẩn bị tốt nhất các điều kiện để triển khai nhiệm vụ của cả 5 năm, dự thảo Nghị quyết nêu 11 nhóm giải pháp và nhiệm vụ chủ yếu.

Cùng với đó là các phụ lục, nêu rõ các chỉ tiêu chủ yếu, 87 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực và kịch bản tăng trưởng GDP năm 2021.  Đặc biệt, phụ lục số 4 trong dự thảo nêu rõ 206 nhiệm vụ cụ thể, với cơ quan chủ trì theo dõi, đánh giá và mốc thời gian hoàn thành.

Trước ngày 20/1/2021, các bộ, cơ quan, địa phương xây dựng, ban hành Chương trình, Kế hoạch hành động, các văn bản cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết; trong đó xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ (bao gồm nhiệm vụ chủ trì và nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan trong tổ chức thực hiện), tiến độ thực hiện và phân công đơn vị chủ trì.

Nghiên cứu, xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và thực hiện những chính sách cụ thể để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 phù hợp với diễn biến thực tiễn xảy ra trong năm. Các bộ, ngành tổng hợp, phụ trách theo dõi các lĩnh vực kinh tế vĩ mô có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong tham mưu, đề xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể điều hành kinh tế vĩ mô, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, bước vào năm 2021, năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Việt Nam đang hướng đến các mục tiêu: Tập trung thực hiện hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số, xây dựng xã hội số; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để khơi thông các nguồn lực cho phát triển; và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Đưa ‘đổi mới sáng tạo’ vào phương châm hành động

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, theo dự báo tình hình năm 2021 như dự thảo Nghị quyết, khó khăn và thuận lợi sẽ tiếp tục đan xen. Trong đó, điểm nổi bật nhất là tình hình COVID-19 sẽ tiếp tục và diễn biến khó lường.

“Điều này yêu cầu nhiệm vụ điều hành kinh tế - xã hội 2021 nhìn chung phải tiếp tục thực hiện mục tiêu kép mà Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, mặc dù với sự tham gia của nhân tố vaccine, đối sách với COVID-19 có thể sẽ có những thay đổi nhất định”, Thứ trưởng nói.

Thứ trưởng cho biết, số liệu về các kết quả của nền kinh tế đạt được năm 2020 sẽ tiếp tục được cập nhật trong những ngày tới để báo cáo Chính phủ và thảo luận tại Hội nghị. Tuy nhiên, các số liệu của 11 tháng và những ngày đầu tháng 12 đều cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế là khá tốt.

Trong phương châm hành động của Chính phủ, bên cạnh kỷ cương, đoàn kết và quyết liệt hành động vẫn là những yếu tố nền tảng, còn có những điểm mới. Trong đó, đổi mới sáng tạo là chìa khóa để tận dụng được các cơ hội trong những năm tới. Còn khát vọng phát triển là nội dung đã được Hội nghị Trung ương cho ý kiến và Nghị quyết của Chính phủ muốn thể hiện mạnh mẽ khát vọng vươn lên ngay từ năm đầu của chu kỳ kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm.

Về 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, đây đều là những vấn đề cốt lõi, quan trọng nhất trong chỉ đạo, điều hành năm 2021, bao quát toàn diện các lĩnh vực. Trong đó, hai nhiệm vụ đầu (tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp và phòng chống dịch COVID-19) là những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của năm 2021.

Riêng về đầu tư công, năm 2021 sẽ là năm đầu tiên của chu kỳ đầu tư công trung hạn, dự kiến tháng 7/2021, Quốc hội sẽ thông qua kế hoạch đầu tư công trung hạn. Triển khai Nghị quyết 129 của Quốc hội về phân bổ ngân sách trung ương năm 2021, Chính phủ đã hết sức thận trọng, xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhằm phân bổ vốn 2021 đúng quy định, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương triển khai kế hoạch đầu tư công và giải ngân ngay từ đầu năm.

Một nhiệm vụ khác, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương, phải tăng cường công tác bố trí vốn và triển khai công tác chuẩn bị đầu tư cho các dự án quan trọng, các dự án hạ tầng quy mô lớn, có tác động lan tỏa, tạo đà cho tăng trưởng, phát triển trong dài hạn. Chính phủ đã lựa chọn một số dự án như vậy để khởi động ngay từ năm 2021 với mục tiêu, khi bước vào kế hoạch trung hạn, các dự này hoàn toàn có đủ điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân trong các năm tiếp theo. Cùng với đó, ưu tiên nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ, kết thúc sớm các dự án thuộc tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông.

Hà Chính - baochinhphu.vn

Page 4 of 11

Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537378