

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, cần phải có những ngành kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp có khả năng tạo ra động lực, sức lan tỏa mới, phá vỡ quy luật phát triển tuyến tính bình thường.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Diễn đàn quốc gia về Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam 2020. Ảnh: VGP/Đình Nam
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh điều này trong Diễn đàn quốc gia về Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam 2020 với chủ đề “Doanh nghiệp công nghệ số - Động lực thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số Việt Nam”, ngày 23/12, diễn ra tại Hà Nội.
Tự tin, chủ động sáng tạo
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng Diễn đàn ngày hôm nay đã bước đầu định danh được một cộng đồng doanh nghiệp số với tốc độ phát triển rất nhanh.
Sau gần 1 năm thực hiện Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14/1/2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam" đã có trên 13.000 doanh nghiệp công nghệ số ra đời, tăng 28%. Hiện Việt Nam có cộng đồng trên 58.000 doanh nghiệp và mục tiêu 100.000 doanh nghiệp công nghệ số vào năm 2030 có thể đạt được vào năm 2025.
“Make in Viet Nam” trở thành một khẩu hiệu hành động, góp phần thúc giục tinh thần thiết kế, sáng tạo, làm ra sản phẩm tại Việt Nam; thay vì làm gia công, lắp ráp, hãy làm sản phẩm phần mềm, phần cứng, dịch vụ công nghệ thông tin.
Theo Phó Thủ tướng, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới ngày càng bé lại, có nhiều biến động và cũng nhạy cảm hơn, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh và cả an toàn, an ninh mạng. Điển hình, dịch bệnh COVID-19 thậm chí đã có thể làm đảo lộn thế giới, nhiều ngành sản xuất phải mất nhiều năm mới quay lại được trạng thái như trước đây.
“Và thành công trong phòng chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam, dù không phải là nước đứng đầu thế giới về trình độ y tế, là bởi vì chúng ta biết mình đang ở đâu trên bản đồ y tế thế giới, biết được điểm mạnh, hạn chế của ngành y tế, hệ thống quản trị xã hội để có những giải pháp đúng, nhanh và kịp thời từ sự đóng góp, tổng hợp của đông đảo ý kiến chuyên gia và cả những người không làm về y tế”, Phó Thủ tướng chia sẻ và khẳng định Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn ủng hộ các sáng kiến nhằm khơi dậy niềm tự hào, khát vọng, sự thôi thúc người Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ, để chủ động, sáng tạo ra những giải pháp công nghệ, thiết kế những sản phẩm mới có chứa hàm lượng trí tuệ của người Việt Nam”.
Khơi dậy tiềm lực của mọi người Việt Nam
Phó Thủ tướng nêu rõ: Việt Nam luôn đặt mình là một phần của thế giới. Chúng ta luôn nêu cao tinh thần cởi mở, hợp tác quốc tế, tạo điều kiện cho mọi đối tác, doanh nghiệp nước ngoài làm ăn, kinh doanh, và đóng góp vào sự phát triển công nghệ thông tin nói riêng, kinh tế-xã hội nói chung của Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chủ động nắm bắt công nghệ, tự tin thiết kế, sáng tạo ra những giải pháp và cách làm riêng để cạnh tranh bình đẳng trước hết ở thị trường trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam, trước hết là cộng đồng doanh nghiệp số có thể làm được nếu biết khơi dậy tiềm lực của tất cả người Việt Nam trong nước, nước ngoài, và cả những người đang gắn bó với mảnh đất Việt Nam.
Cơ sở niềm tin đó trước hết đến từ truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của mỗi người dân Việt Nam, từ đó khơi dậy được sự sáng tạo và sức mạnh của toàn dân, cùng với sức mạnh thời đại, vượt qua rất nhiều thách thức mà nhiều khi, nhiều người tưởng chừng không thể vượt qua được.
Phó Thủ tướng dẫn chứng: Dù rất khó khăn, chưa hài lòng nhưng thực tế Việt Nam vẫn là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh thuộc nhóm hàng đầu thế giới trong hơn 20 năm liên tục. Mặc dù thu nhập bình quân GDP theo đầu người của Việt Nam mới ở khoảng 100, nhưng chỉ số phát triển bền vững của chúng ta xếp thứ 49. Điều đó thể hiện sự ưu việt của chế độ và con đường phát triển của Việt Nam là đúng, tương đồng với 17 nhóm tiêu chí và 169 tiêu chí cụ thể của Chương trình nghị sự phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc thể hiện khát vọng chung của nhân loại như: Xây dựng môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển kinh tế, chăm lo cho tất cả mọi người đặc biệt là những người yếu thế, bảo vệ thiên nhiên, môi trường…
Sự tự tin còn đến từ số lượng doanh nghiệp công nghệ số thành lập mới hay những “doanh nghiệp kỳ lân”, số lượng dịch vụ số của doanh nghiệp Việt Nam được thế giới và chính người Việt Nam sử dụng. Cùng với đó là chất lượng đào tạo nhân lực của Việt Nam với chỉ số giáo dục phổ thông tiếp cận với nhóm các nước OECD, giáo dục đại học dần được cải thiện thứ hạng, chỉ số sáng tạo đứng thứ 42 trên thế giới, trong khi nếu tính về chỉ số thu nhập GDP bình quân trên đầu người Việt Nam đứng ở thứ hạng khoảng 100 và nhiều chỉ số khác trên các bảng xếp hạng quốc tế thì thường ở vị trí 70 đến 80 như năng lực cạnh tranh quốc gia, môi trường kinh doanh, chính phủ điện tử…
“Đấy là nền tảng cơ sở để chúng ta có thể tự tin nếu có chính sách đúng, cùng nắm tay nhau thì có thể làm được những điều tưởng chừng không thể làm được. Và cộng đồng doanh nghiệp số Việt Nam có thể tự tin góp sức lớn hơn để đưa đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn”, Phó Thủ tướng nói.
Ảnh: VGP/Đình Nam
Bứt phá khỏi quy luật phát triển thông thường
Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh hơn, Phó Thủ tướng cho rằng nhất thiết phải xác định, tạo điều kiện cho những ngành kinh tế có khả năng tạo ra động lực, sức lan tỏa mới, những cộng đồng doanh nghiệp có thể phá vỡ quy luật phát triển tuyến tính bình thường.
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam ở mức dưới 10%. Chúng ta phải đặt ra mục tiêu tăng trưởng doanh nghiệp công nghệ số từ 15-20% và thậm chí là nhanh hơn nữa”, Phó Thủ tướng nêu vấn đề và cho rằng cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo (start-up), các doanh nghiệp số phải có sự khát khao và nhiệt huyết vượt qua tất cả khó khăn bên ngoài, sự cản trở bên trong để vươn lên ngang bằng các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Về yêu cầu bền vững, Phó Thủ tướng đánh giá phần lớn sản phẩm được vinh danh tại Cuộc thi Giải thưởng “Sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam” năm 2020 đã hướng tới phục vụ những nhu cầu thiết yếu của con người, đặc biệt những vấn đề thường ít được nói đến ở một nước đang phát triển như sức khỏe, giáo dục, giao thông, vui chơi giải trí… “Đây chính là những nguồn khách hàng, nơi khởi nguồn dịch vụ mà nếu các doanh nghiệp công nghệ số làm tốt sẽ góp phần làm cho đất nước phát triển bền vững hơn”.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao Giải Nhất hạng mục "Giải thưởng nền tảng số xuất sắc" cho "Base.vn - Nền tảng quản trị và điều hành doanh nghiệp số". Ảnh: VGP/Đình Nam
Lịch sử trao cho sứ mệnh tiên phong
Nhắc lại những ngày đầu mạnh dạn tiên phong, đổi mới của ngành bưu điện trước đây, Phó Thủ tướng nhấn mạnh một lần nữa sứ mệnh tiên phong lại được trao cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin hôm nay.
Để đất nước phát triển nhanh hơn thì công nghệ thông tin, công nghệ số phải đi nhanh hơn nữa bằng những mô hình, giải pháp của Việt Nam. “Công nghệ có thể chưa hoàn toàn là của Việt Nam. Chúng ta cũng không có tham vọng thay tất cả các tập đoàn khổng lồ trên thế giới để làm tất cả các công nghệ nền tảng nhưng quan trọng nhất là làm chủ và có giải pháp để sử dụng hiệu quả nhất. Tinh thần này không chỉ được khơi dậy, thôi thúc trong cộng đồng doanh nghiệp số mà phải đến với mọi doanh nghiệp Việt Nam và ra toàn xã hội”, Phó Thủ tướng nói và khẳng định Chính phủ sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp, từ giữ gìn đất nước hòa bình, ổn định, hợp tác, cải thiện môi trường kinh doanh đến việc đặt ra các “bài toán” để doanh nghiệp mở giải pháp, mở dữ liệu, sáng kiến để kết nối, hỗ trợ lẫn nhau.
“Chúng ta đi sau nên phải rất khẩn trương, nắm chặt tay trong một đội hình bước thật đều, thật nhanh”, Phó Thủ tướng mong muốn và chúc cộng đồng doanh nghiệp số Việt Nam tiếp tục phát triển, đóng góp vào sự nghiệp phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số có được những bước tiến mới,góp phần làm cho đất nước phát triển nhanh hơn và bền vững hơn.
Bộ Khoa học và Công nghệ đang dự thảo Thông tư hướng dẫn một số nội dung về thu hút, sử dụng và trọng dụng nhân tài để lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
1. Thành tích khoa học và công nghệ để xét tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học và chức danh công nghệ; Hội đồng kiểm tra, sát hạch, cách tính điểm để xác định người được tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm, xếp lương vào chức danh khoa học, chức danh công nghệ.
2. Thành tích khoa học và công nghệ để xét bổ nhiệm đặc cách vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ; Hội đồng xét bổ nhiệm đặc cách vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ cao hơn không qua thi thăng hạng, không phụ thuộc vào năm công tác.
3. Đề án định hướng phát triển chuyên ngành khoa học; thành phần, nhiệm vụ, nguyên tắc làm việc của các Hội đồng trong quy trình lựa chọn, công nhận nhà khoa học đầu ngành; việc tiếp tục hoặc dừng áp dụng chính sách trọng dụng đối với nhà khoa học đầu ngành.
Dự thảo nêu rõ, thành tích khoa học và công nghệ để xem xét áp dụng chính sách trọng dụng bao gồm:
1. Bài báo khoa học đã được công bố trên tạp chí khoa học uy tín trong nước và quốc tế; báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế được in trong kỷ yếu hội thảo đã được xuất bản; sách chuyên khảo đã được xuất bản theo quy định của pháp luật. Yêu cầu về bài báo khoa học và sách chuyên khảo thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 01/2020/TT-BKHCN ngày 20/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ.
2. Giải thưởng khoa học và công nghệ trong nước, quốc tế được xác định theo quy định tại Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước và các giải thưởng khác về khoa học và công nghệ, Nghị định số 60/2019/NĐ-CP ngày 05/7/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước và các giải thưởng khác về khoa học và công nghệ và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3. Sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng đã được cấp văn bằng bảo hộ hoặc đã được ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn.
4. Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và được nghiệm thu ở mức đạt trở lên.
5. Dự án, công trình, đồ án thuộc chuyên ngành kỹ thuật là các dự án, công trình, đồ án phát triển, ứng dụng, triển khai công nghệ hoặc các nhiệm vụ khác thuộc phạm vi ngành kỹ thuật, kinh tế-kỹ thuật cá nhân đảm nhiệm, được phân theo loại và cấp (nhóm) tại quy định của pháp luật chuyên ngành.
6. Điểm quy đổi kết quả hoạt động chuyên môn được xác định theo Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 01/2020/TT-BKHCN ngày 20/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất những quy định cụ thể về việc tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ; đặc cách bổ nhiệm vào hạng chức danh nghề nghiệp cao hơn không thông qua thi thăng hạng, không phụ thuộc năm công tác; trọng dụng nhà khoa học đầu ngành…
Ông Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu chỉ đạo tại hội nghị. Ảnh: LÊ THOA
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, ông Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ đánh giá cao những kết quả mà TP.HCM đạt được về cải cách hành chính trong những năm qua.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ khẳng định: TP.HCM là một trong những địa phương chủ động sáng tạo trong cải cách hành chính, có chương trình hành động cụ thể của Thành ủy, có Nghị quyết chuyên đề của HĐND TP và thành lập Ban chỉ đạo về cải cách hành chính.
Theo ông Nguyễn Trọng Thừa, TP.HCM là điểm sáng về cải cách hành chính, nổi bật lên nhiều mô hình mà cả nước có thể rút kinh nghiệm, nhân rộng. Chẳng hạn mô hình ‘Bình Thạnh trực tuyến’, ‘Bình Tân công dân số’, ‘Phòng họp không giấy’...
“TP.HCM đã luôn coi người dân là trung tâm của cải cách hành chính, coi sự hài lòng của người dân là thước đo. Với mục đích cuối cùng là xây dựng chính quyền kiến tạo, phục vụ dân” – ông Thừa nói.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa trao tặng bằng khen cho ông Huỳnh Văn Hạnh, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh: LÊ THOA
Thứ trưởng Bộ Nội vụ cũng cho rằng TP.HCM là địa phương đầu tiên thí điểm thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm, nghiên cứu về Đô thị thông minh. Đồng thời, kịp thời đề xuất không tổ chức HĐND quận, phường và xây dựng TP Thủ Đức, thể hiện mong mỏi về một TP mới là mang tầm sáng tạo.
Ông Nguyễn Trọng Thừa cũng đề nghị TP.HCM nhìn nhận sâu hơn, khắc phục những tồn tại trong cải cách hành chính. Sắp xếp kiện toàn bộ máy, tăng cường kiểm tra siết chặt kỷ cương hành chính… làm sao để TP.HCM tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế - xã hội của cả nước, là TP thông minh điển hình trên cả nước.
Tiếp thu chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Chủ tịch UBND TP Ngô Minh Châu cũng nhìn nhận, thời gian tới TP.HCM vẫn còn gặp nhiều thách thức, trong đó dịch COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Xu thế cải cách hành chính phải đáp ứng nhu cầu chủ động, tích cực từ phía người dân, doanh nghiệp.
Phó Chủ tịch UBND TP Ngô Minh Châu phát biểu tại hội nghị. Ảnh: LÊ THOA
Theo ông Ngô Minh Châu, TP.HCM cần tập trung xây dựng hình ảnh chính quyền phục vụ nhân dân thân thiện, hiện đại, đoàn kết, nghĩa tình. Thủ trưởng các sở/ngành, Chủ tịch UBND quận/huyện phải chịu trách nhiệm chính đối với công tác cải cách hành chính, lấy tỉ lệ hài lòng làm căn cứ, điều kiện đánh giá cán bộ, bình xét thi đua… nhất là người đứng đầu.
Công tác cải cách hành chính phải gắn với các giải pháp cụ thể, có tính nhân rộng, áp dụng lâu dài, ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân.
Phó Chủ tịch UBND TP chỉ đạo cấp ủy, thủ trưởng các đơn vị phải kịp thời nắm rõ nguyên nhân không hài lòng của cá nhân, tổ chức trong lúc giải quyết thủ tục hành chính để kịp thời chấn chỉnh khắc phục. Các đơn vị cần chủ động tổ chức kiểm tra công vụ đối với các trường hợp hồ sơ trả bổ sung, trễ hạn. Từ đó, hạn chế thấp nhất tình trạng trễ hạn hồ sơ, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, quy hoạch, đầu tư.
“Mỗi cán bộ, công chức, viên chức là một đại sứ cải cách hành chính, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao. Nhiệt tình, thân thiện, vui vẻ khi tiếp xúc, giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp” – Phó Chủ tịch UBND TP chỉ đạo.
Cũng theo ông Ngô Minh Châu, TP.HCM sẽ thực hiện thanh tra, xử lý các phản ánh, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác cải cách hành chính. Kiểm tra đột xuất đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Xử lý nghiêm những cá nhân, cơ quan có hành vi, thái độ gây khó khăn, nhũng nhiễu doanh nghiệp, người dân.
TP còn khuyến khích và tạo thói quen cho người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4. Có giải pháp chuyển dần việc nộp hồ sơ trực tiếp, tiếp xúc với công chức sang nộp hồ sơ thông qua môi trường mạng.
Với quyết tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, TP. Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh các phong trào thi đua về cải cách hành chính, nhiều mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo đã và đang phục vụ có hiệu quả trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố; nhiều mô hình được Trung ương nghiên cứu, triển khai nhân rộng cả nước, trong đó nổi bật một số mô hình như:
Ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa liên thông nhóm thủ tục hành chínhthuộc lĩnh vực hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng ký, quản lý cư trú trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh được các cơ quan Trung ương triển khai nhân rộng cả nước ban hành Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 10/6/2015 của liên Bộ: Tư pháp, Công an, Y tế hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp Thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Nghị quyết số 28/2018/NQ-HĐND ngày 07/12/2018 của Hội đồng nhân dân thành phố về giảm lệ phí thực hiện các thủ tục hành chính áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân thành phố; Ban hành Quy chế thực hiện liên thông nhóm thủ tục đăng ký hộ kinh doanh và đăng ký thuế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Phần mềm “Khảo sát không hài lòng của người bệnh tại các bệnh viện công lập trên địa bàn thành phố”; Giải pháp “Xây dựng Website mời gọi đầu tư các dự án trong các lĩnh vực của TP.Hồ Chí Minh” http://www.ppp.tphcm.gov.vn; Ứng dụng trực tuyến tại các quận – 19 huyện; Ứng dụng trực tuyến về giao thông, quy hoạch đô thị, xây dựng, Tổng đài 1022 tiếp nhận và giải đáp thông tin của người dân, tổ chức...các mô hình tuyên truyền, vận động, hỗ trợ nhân dân giải quyết thủ tục hành chính.
Các mô hình sáng kiến, giải pháp hiệu quả về giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chínhđã mang lại nhiều tác động tích cực như: Giảm thời hạn giải quyết, giảm chi phí đilại cho cá nhân, tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính; góp phần hoàn thành tốt công tác đơn giản hóa thủ tục hành chínhtrong thực hiện nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước các lĩnh vực thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dânquận - huyện, phường - xã, thị trấn; thay đổi phương thức làm việc trong giai đoạn phòng, chống dịch COVID-19, vừa đảm bảo công tác phòng, chống dịch, vừa mang lại hiệu quả trong giải quyết các hồ sơ, thủtục hành chínhcho người dân, doanh nghiệp, đã góp phần để thành phố thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Nguồn: Sở Nội vụ TP. Hồ Chí Minh
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Trong đại dịch COVID-19, CNTT dường như có thêm động lực để phát triển nhanh hơn, gắn sát hơn với cuộc sống thực tiễn. Ảnh: VGP/Đình Nam
Theo Phó Thủ tướng, chuyển đổi số đã dần trở thành xu thế không thể đảo ngược, mở ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân cơ hội phát triển chưa từng có, gắn với đó là những thách thức và yêu cầu phải tự điều chỉnh.Hội nghị Bộ trưởng các nước ITU 2020 tập trung thảo luận quanh chủ đề hoạch định chiến lược số trong và sau COVID-19 và định hướng cho quan hệ hợp tác giữa ITU với các quốc gia thành viên trong triển khai các chương trình chuyển đổi số. Đây cũng là cơ hội để các bộ trưởng và lãnh đạo doanh nghiệp đối thoại về chính sách, chiến lược nhằm phát huy hơn nữa vai trò thiết yếu công nghệ thông tin-viễn thông trong phòng chống đại dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế.
Chuyển đổi số không chỉ là chuyển đổi công nghệ mà quan trọng hơn là chuyển đổi về tư duy thiết kế và nội dung chính sách ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều điều ngày hôm qua, hôm nay là đúng nhưng sẽ phải thay đổi và phải thay đổi rất nhanh.
Là một quốc gia đang phát triển, hơn 30 năm qua Việt Nam đã duy trì được môi trường ổn định, hợp tác, phát triển và tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm ít nước cao nhất thế giới. Trong nỗ lực và kết quả đó có sự góp phần quan trọng - nhiều thời điểm có tính mở đường - của ngành viễn thông và công nghệ thông tin.
Xác định sự cần thiết thúc đẩy chuyển đổi số mạnh mẽ hơn nữa để phục vụ con người, để không ai bị bỏ lại phía sau, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một Chương trình chuyển đổi số quốc gia với những mục tiêu, giải pháp cụ thể.
Ảnh: VGP/Đình Nam
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng việc lựa chọn chủ đề của Hội nghị không chỉ mang tính thời sự nóng bỏng mà còn có ý nghĩa, rất chiến lược lâu dài. Ngay giờ phút này, người dân Việt Nam, hàng tỷ người trên toàn thế giới đang phải căng mình chống dịch COVID-19. Mấy hôm nay, con số nhiễm bệnh mới trên thế giới đã lên tới trên dưới 400.000 ca mỗi ngày.
Là người đứng đầu Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19 của Việt Nam, Phó Thủ tướng chia sẻ sâu sắc trước những khó khăn và vất vả của những người tham gia chống dịch và nhấn mạnh trong “cuộc chiến” này công nghệ thông tin-truyền thông có vai trò và đóng góp rất quan trọng.
“Muốn chiến thắng dịch bệnh thì nhất thiết phải huy động được mọi người dân cùng tham gia chống dịch. Công nghệ thông tin-truyền thông giúp thông tin kịp thời, minh bạch về dịch bệnh và hướng dẫn mỗi người dân phải làm gì để bảo vệ mình và cộng đồng.
Công nghệ thông tin-truyền thông giúp thực hiện truy vết, quản lý người nhiễm và người có nguy cơ lây nhiễm; giúp điều trị hiệu quả hơn. Đặc biệt là giúp kết nối quốc tế, tăng cường hợp tác trong nghiên cứu về virus, sinh phẩm xét nghiệm, vaccine…”, Phó Thủ tướng nói.
Công nghệ thông tin-truyền thông cũng giúp Nhà nước, doanh nghiệp và mọi người tổ chức lại và duy trì các hoạt động của mình trong một trạng thái bình thường mới.
Trong đại dịch COVID-19, công nghệ thông tin dường như có thêm động lực để phát triển nhanh hơn, gắn sát hơn với cuộc sống thực tiễn.
Sau phiên khai mạc Hội nghị và Triển lãm thế giới số 2020 (ITU Digital World) sẽ có 3 phiên thảo luận chuyên đề về kết nối, chuyển đối số và phát triển bền vững. Ảnh: VGP/Đình Nam
Để cùng chung tay thúc đẩy phát triển công nghệ số, thúc đẩy chuyển đổi số vì một thế giới hòa bình, hợp tác và thịnh vượng, trực tiếp hiện nay là chiến thắng đại dịch COVID-19 và ổn định, phát triển trong và sau đại dịch, Phó Thủ tướng nêu một số vấn đề cần trao đổi, thảo luận tại Hội nghị.
Trước hết là sự cần thiết hoạch định một chiến lược số trong và sau đại dịch COVID-19, trong đó có những định hướng cho quan hệ hợp tác giữa ITU với các quốc gia thành viên trong chuyển đổi số.
Các nước thành viên ITU cần thúc đẩy việc xây dựng các chuẩn mở cho công nghệ mạng 5G, tạo cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, giảm chi phí xây dựng mạng lưới; thảo luận tìm sự thống nhất xây dựng công ước quốc tế, hoặc thỏa thuận quốc tế về không gian mạng để thúc đẩy hợp tác trên cơ sở bảo đảm an toàn an ninh mạng, bảo đảm chủ quyền các quốc gia, quyền và lợi ích công dân trên không gian mạng.
Khẳng định cam kết của Việt Nam sẽ cùng các nước thành viên đóng góp và xây dựng ITU hoạt động ngày càng hiệu quả, hoàn thành sứ mệnh cao cả của Liên minh, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tin tưởng Hội nghị sẽ thành công và sẽ đưa ra nhiều sáng kiến cùng các khuyến nghị để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số trên toàn cầu, hướng tới tương lai tương sáng, tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người dân trên thế giới.
Phát biểu chỉ đạo tại đại hội, Phó Bí thư thường trực Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đánh giá những kết quả hoạt động của Đảng bộ khối là khá toàn diện, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ TP.HCM.
Cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm
Tuy nhiên, ông Trần Lưu Quang cũng cho rằng công tác quản lý đảng viên của đảng bộ, chi bộ có nơi chưa chặt chẽ. Một số cấp ủy chưa chủ động thực hiện công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Công tác tự kiểm tra nội bộ, giám sát về phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số cấp ủy cơ sở chưa được quan tâm đúng mức…
Trong nhiệm kỳ 2020-2025, ông Trần Lưu Quang đề nghị Đảng bộ khối cần lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn sát với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các chương trình phát triển của TP.HCM.
“Mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng cần có giải pháp nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện chế độ công chức, công vụ, thực hiện cải cách hành chính, nâng cao đạo đức công vụ, hiệu quả công việc. Cùng đó là xây dựng văn minh công sở, thực hiện công khai, minh bạch, tận tụy trong giải quyết công việc với tổ chức, doanh nghiệp và người dân, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân” - ông Quang nói.
Bên cạnh đó, ông Trần Lưu Quang cũng đề nghị cần tiếp tục có các giải pháp mang tính đột phá hơn nữa để nhận diện và phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đồng thời, tăng cường tính chủ động của các cấp ủy cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; khẩn trương giải quyết những thông tin phản ánh liên quan đến các tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ngoài ra, ông Trần Lưu Quang cũng đề nghị Đảng bộ khối thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm nhiệm vụ tham mưu chiến lược, cán bộ làm việc trong các cơ quan, bộ phận trực tiếp tham mưu, giúp việc.
Ông Trần Lưu Quang, Phó Bí thư thường trực Thành ủy TP.HCM, phát biểu chỉ đạo tại đại hội. Ảnh: PHƯƠNG THÙY
Luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, vươn lên
Trước đó, Bí thư Đảng ủy Khối dân - chính - đảng TP.HCM Võ Ngọc Quốc Thuận cho biết trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ khối luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, động viên mạnh mẽ sức sáng tạo, nỗ lực vươn lên của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ TP.HCM. Hầu hết các chỉ tiêu đều cơ bản đạt và vượt.
2.231 là số lượng đảng viên đã được phát triển trong nhiệm kỳ qua của toàn Đảng bộ (đạt 111,55%), vượt chỉ tiêu so với nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối lần thứ II đề ra là 2.000 đảng viên. |
Bà Lê Thị Hồng Nga, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Khối dân - chính - đảng TP.HCM, cho biết nhiệm kỳ qua, một trong những điểm đột phá của Đảng ủy khối là đã chủ động đề xuất, phối hợp với Ban Tổ chức Thành ủy và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Quyết định 827 ngày 8-3-2017 về quy chế phối hợp công tác giữa Đảng ủy Khối dân - chính - đảng TP với các Ban Thành ủy, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, ban cán sự đảng UBND TP và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị có tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ khối.
Theo bà Nga, quy chế này đã góp phần tháo gỡ điểm nghẽn trong công tác cán bộ, trao đổi, thực hiện quy trình phân công công tác cán bộ, bổ nhiệm cấp trưởng, phó trưởng phòng và tương đương, bổ nhiệm cán bộ là cấp ủy viên các cơ sở Đảng có sự chuyển động tích cực.
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ khối cũng đã xây dựng, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện sáu chương trình trọng tâm của Đảng bộ khối như chương trình chủ động phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phản bác các quan điểm sai trái; nâng cao chất lượng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...
Yêu cầu đẩy nhanh hơn nữa tiến trình chuyển đổi số, Chính phủ điện tử, giao dịch điện tử, theo lý giải của Chính phủ tại Nghị quyết 118 về phiên họp thường kỳ tháng 7/2020 mới ban hành, là nhằm theo kịp xu thế, đáp ứng yêu cầu phát triển, góp phần giảm thiểu rủi ro từ dịch bệnh.
Cũng tại Nghị quyết này, Chính phủ chỉ đạo Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy mạnh tuyên truyền về các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, vận động toàn dân cài đặt ứng dụng Bluezone - phần mềm hỗ trợ truy vết người nhiễm Covid-19.
Bộ TT&TT còn có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường thông tin, tuyên truyền về biện pháp phòng chống dịch Covid-19, các giải pháp, chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội.
Đồng thời, tiếp tục tăng cường kiểm soát, chấn chỉnh thông tin trên mạng xã hội; xử lý nghiêm khắc những trường hợp thông tin sai sự thật, tin độc, hại; báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải pháp tổng thể tháo gỡ khó khăn cho ngành báo chí trong bối cảnh dịch Covid-19.
Riêng với việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan tiếp tục thực hiện nghiêm việc gửi nhận văn bản điện tử và đổi mới phương thức làm việc thông qua xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử, đặc biệt đề cao vai trò của lãnh đạo các cấp gương mẫu, đi đầu trong sử dụng chữ ký số cá nhân để phê duyệt hồ sơ, văn bản điện tử, bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu đề ra.
Khẩn trương ban hành hướng dẫn về mẫu kết quả thủ tục hành chính thuộc ngành, lĩnh vực theo dõi trong tháng 9/2020 để làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền cung cấp kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử theo quy định tại Nghị định 45/2020/NĐ-CP.
Các bộ, cơ quan cũng được yêu cầu tập trung tái cấu trúc quy trình, hoàn thành việc xây dựng, tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia các dịch vụ công ưu tiên năm 2020 và 30% dịch vụ công trực tuyến đang triển khai theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị quyết số 01/NQ-CP, 02/NQ-CP và Quyết định số 411/QĐ-TTg; khẩn trương hoàn thành tích hợp đồng bộ kết quả xử lý hồ sơ và tích hợp thanh toán trực tuyến các nghĩa vụ tài chính trong thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Nghị quyết 118 của Chính phủ nêu rõ, các bộ, cơ quan được giao báo cáo chỉ tiêu kinh tế - xã hội tại Quyết định số 293/QĐ-TTg ngày 24/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ và các địa phương khẩn trương nâng cấp, hoàn thiện các chỉ tiêu, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, kết nối và cung cấp dữ liệu về các chỉ tiêu KT-XH, thông tin báo cáo hàng ngày trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ.
Chính phủ giao Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng Chương trình đầu tư công về xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025 thay cho nhiệm vụ xây dựng Đề án xây dựng Chính phủ điện tử giai đoạn 2021 - 2025, bảo đảm tuân thủ theo các quy định của Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.
Bộ Tư pháp được yêu cầu phải khẩn trương ban hành hướng dẫn thực hiện chứng thực bản sao điện tử từ bản chính.
Bộ Nội vụ hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ được giao tại Quyết định 893 ngày 25/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước.
Bộ TN&MT và Bộ Công an khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo phân công.
Dự kiến, ngày 26/8 tới, Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử họp phiên thứ hai trong năm 2020. Bên cạnh việc rà soát, đánh giá tình hình triển khai Chính phủ điện tử để từ đó đôn đốc các bộ, ngành, địa phương hoàn thành những chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết 17, các đại biểu sẽ trao đổi các kinh nghiệm, cách làm để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc triển khai Chính phủ điện tử, chuyển đổi số tại Việt Nam.
UBND TP đã phê duyệt Đề án “Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử gắn với đành giá hài lòng việc giải quyết thủ tục hành chính”.
Đề án này nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công của các cơ quan nhà nước, đảm bảo phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, hướng tới số hóa hồ sơ, giấy tờ, chuyển hoạt động sử dụng hồ sơ, văn bản giấy, giao dịch trực tiếp sang hoạt động sử dụng hồ sơ, văn bản điện tử, giao dịch điện tử và cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc vào thời gian, địa giới hành chính; thúc đẩy cải cách hành chính (CCHC), nhất là cải cách thủ tục hành chính (TTHC) thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin; cải thiện vị trí của TP về chỉ số CCHC; mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển chính phủ điện tử, hướng tới sự hài lòng cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các TTHC, dịch vụ công trực tuyến.
TP dự kiến cung cấp, tích hợp 50 ngàn tài khoản trong năm 2020; 200 ngàn tài khoản trong năm 2021 và đạt tối thiểu 1 triệu tài khoản trong năm 2023. Trong năm nay, phấn đấu 30% thủ tục hành chính cho phép cung cấp kết quả dạng điện tử; cá nhân, tổ chức có thể sử dụng trong các lần thực hiện dịch vụ công trực tuyến tiếp theo.
* UBND TP cũng giao các cơ quan chức năng trong tháng 9/2020, hoàn thành việc xây dựng và triển khai cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, gồm: đăng ký cấp phiếu lý lịch tư pháp; đăng ký khai sinh (bao gồm đăng ký khai sinh lần đầu, đăng ký khai sinh lại, liên thông đăng ký khai sinh, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi, liên thông đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi); cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trên Cổng dịch vụ công của TP.
* Ngoài ra, UBND TP cũng công bố danh mục 3 thủ tục hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và danh mục 26 thủ tục hành chính trong lĩnh vực lữ hành và lĩnh vực dịch vụ du lịch khác thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Du lịch.
Quyền lợi của người dân bị hạn chế
Tham gia giám sát, các đại biểu (ĐB) HĐND TPHCM đặt ra nhiều vấn đề trong công tác CCHC. ĐB Lê Minh Đức nêu tình trạng người dân đi làm thủ tục còn bị cán bộ làm khó, phải có cái “bôi trơn” mới xong. ĐB Lê Minh Đức đề nghị UBND TPHCM có giải pháp giảm tham nhũng vặt, xóa đi hình ảnh cán bộ nhũng nhiễu để người dân cảm nhận được tinh thần phục vụ. Dẫn chứng nhiều người dân phải đi lại nhiều lần bổ túc hồ sơ khi làm thủ tục tại các chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại quận, huyện, ĐB Cao Thanh Bình đề nghị UBND TPHCM chú trọng CCHC ở các đơn vị này và đơn giản hóa thủ tục về đất đai. Trong khi đó, ĐB Nguyễn Minh Nhựt chỉ rõ, sự phối hợp giữa các sở ngành, quận huyện còn bất cập. Đây là vấn đề làm phiền hà cho nhiều người dân, doanh nghiệp.
Về thực hiện NQ 54, UBND TPHCM đã trình HĐND TPHCM thông qua 32 dự án chuyển mục đích sử dụng trên 10ha đất trồng lúa với tổng diện tích đất trồng lúa hơn 1.843ha. Tuy nhiên, các ĐB bày tỏ lo ngại khi tiến độ các dự án rất chậm. ĐB Triệu Đỗ Hồng Phước dẫn chứng, trong 32 dự án, mới có 1 dự án triển khai bồi thường đạt 100%, còn lại hầu hết là “đứng”; đề nghị đánh giá tại sao 31 dự án chậm trễ; đồng thời đề nghị UBND TPHCM cần rà soát chặt chẽ 32 dự án, có giải pháp đốc thúc các dự án.
Liên quan đến việc ban hành kế hoạch sử dụng đất hàng năm, ĐB Triệu Đỗ Hồng Phước nêu thực tế, thay vì phải ban hành để thực hiện ngay từ ngày 1-1 thì nhiều quận huyện đến giữa năm, thậm chí gần hết năm mới ban hành. Sự chậm trễ này khiến người dân, doanh nghiệp bị hạn chế quyền lợi. Bên cạnh đó, nhiều quận huyện khống chế tỷ lệ chuyển mục đích đất sang đất ở trong khi luật không quy định. ĐB Hồng Phước đề nghị UBND TPHCM tăng cường thanh tra, kiểm tra, có hướng dẫn thống nhất trên toàn TP, tránh tình trạng tự phát sinh thêm thủ tục hoặc giới hạn quyền lợi của người dân, doanh nghiệp.
Chậm trễ giải quyết hồ sơ vì thiếu phối hợp
Trao đổi với đoàn, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Ngô Minh Châu nhìn nhận, dịch vụ công trực tuyến chưa thu hút được nhiều người dân tham gia thực hiện. Các địa phương đang thực hiện Chính phủ điện tử, là bước tiến cơ bản về dịch vụ công trực tuyến trong thời gian tới. Đồng chí cũng đề cập đến các giải pháp khắc phục tình trạng tham nhũng vặt, như: công khai, minh bạch các thủ tục; thủ trưởng đơn vị tăng cường kiểm tra, quản lý cấp dưới. Đặc biệt, thủ trưởng phải làm gương; tăng tiếp công dân, giải quyết đơn thư để người dân thực sự tin tưởng, phản ánh các nhũng nhiễu; chuyển mạnh sang thủ tục trực tuyến để cán bộ không có điều kiện nhũng nhiễu.
Trong
thực hiện NQ 54, đồng chí Ngô Minh Châu yêu cầu Sở TN-MT cần sâu sát hơn và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan để đẩy nhanh tiến độ các dự án chuyển mục đích sử dụng trên 10ha đất trồng lúa. Đồng thời Sở TN-MT làm đầu mối, phối hợp đưa ra tiêu chí cụ thể trong chuyển đổi mục đích, không để quận huyện tùy tiện đặt ra tỷ lệ. Sở TN-MT cần làm việc với 5 huyện và các quận vùng ven đang đô thị hóa để sớm đưa ra kế hoạch sử dụng đất hàng năm, áp dụng ngay từ ngày 1-1 hàng năm.
Phát biểu tại buổi giám sát, Phó Chủ tịch HĐND TPHCM Phan Thị Thắng đề nghị UBND TPHCM chú trọng quy trình nội bộ về phối hợp giữa các sở ngành, không để hồ sơ trễ hạn, rắc rối do sở ngành xin ý kiến lẫn nhau, chậm trả lời cho dân; đồng thời UBND TPHCM cần chỉ đạo các quận huyện thống nhất lại cách hiểu, cách giải thích, cách triển khai các thủ tục về đất đai, tránh cùng một sự việc nhưng mỗi nơi hướng dẫn mỗi khác.
Phó Chủ tịch HĐND TP Phan Thị Thắng cũng lưu ý, mục tiêu trong thực hiện NQ 54 là TPHCM có nguồn thu từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn thu lớn nhất khi thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù. Tuy nhiên, việc thực hiện chậm trễ nên UBND TPHCM cần cụ thể lộ trình thực hiện, thể hiện sự quyết liệt của TP.
Phó Chủ tịch HĐND TP Phan Thị Thắng nhận xét, việc 5 dự án nhóm A được HĐND TPHCM thông qua chủ trương đầu tư giúp cải thiện nhiều về thời gian thông qua so với trình Trung ương. Tuy nhiên, Phó Chủ tịch HĐND TP đề nghị UBND TPHCM lý giải vì sao từ ngày 5 dự án được thông qua đến nay chưa có dự án nào được khởi công. Đề nghị UBND TPHCM có giải pháp triển khai nhanh đối với 32 dự án chuyển mục đích sử dụng trên 10ha đất trồng lúa, nếu không triển khai thì cần trả lại quyền lợi cho người dân ở khu vực này.
Mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xử lý các bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thi hành; nội luật hóa các cam kết quốc tế, tạo khuôn khổ pháp lý cụ thể cho hoạt động SHTT của Việt Nam; bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật SHTT, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng.
Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN), Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) của Việt Nam. Đạo luật này đã thay đổi toàn bộ cấu trúc của hệ thống các văn bản pháp luật trước đây về SHTT, chuyển từ hệ thống các văn bản pháp luật đơn hành thành một đạo luật chuyên ngành thống nhất, đồng bộ, làm nền tảng pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến việc bảo hộ và thực thi quyền SHTT.
Là sự hợp nhất của ba đối tượng được bảo hộ quyền SHTT bao gồm: (i) quyền tác giả (QTG), quyền liên quan đến quyền tác giả (QLQ); (ii) quyền sở hữu công nghiệp (SHCN); và (iii) quyền đối với giống cây trồng (GCT), hiện tại ngoài Luật SHTT, còn có 11 Nghị định quy định chi tiết (17 nếu tính cả các lần sửa đổi) và 22 Thông tư/ Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành (30 nếu tính cả các lần sửa đổi).
Con số này thoạt nhìn có thể tạo ấn tượng về một hệ thống SHTT với các quy định đồ sộ về số lượng. Tuy nhiên, nếu tính trên công thức chung của hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam quy định về một lĩnh vực cụ thể thường có cấu trúc tầng bậc từ Luật - Nghị định quy định chi tiết - Thông tư hướng dẫn thi hành, bên cạnh đó có thể có thêm 1 Nghị định xử phạt hành chính, Thông tư hướng dẫn Nghị định xử phạt hành chính và một Thông tư liên quan đến tài chính thì sẽ thấy các văn bản pháp luật trong lĩnh vực SHTT cũng đi theo một cấu trúc và một số lượng tương tự. Bên cạnh đó, đối với một số vấn đề có sự giao thoa giữa lĩnh vực SHTT và các lĩnh vực khác thì có thêm một số thông tư hoặc thông tư liên tịch cho từng vấn đề cụ thể mà thôi (Ví dụ: vấn đề tên miền, tên doanh nghiệp xâm phạm quyền SHTT, vấn đề bảo mật dữ liệu thử nghiệm trong đăng ký thuốc, hay vấn đề kiểm soát biên giới đối với hàng giả mạo và sao chép lậu v.v.).
Một điểm đáng lưu ý là do đây là một đạo luật được ra đời trong bối cảnh kế thừa và khắc phục các hạn chế của các luật đơn lẻ trước đó, đồng thời tiếp thu những tiến bộ cũng như đáp ứng các yêu cầu khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nên về cơ bản, nội dung của Luật SHTT đã bảo đảm tiêu chuẩn về tính đầy đủ và hiệu quả, mà bằng chứng cụ thể nhất là quãng thời gian thi hành ổn định tới 15 năm kể từ khi ban hành, trừ một số sửa đổi mang tính bổ sung vào năm 2009.
Tuy nhiên, trước bối cảnh mới với nhiều chuyển biến mạnh mẽ tác động đến mọi mặt của kinh tế - xã hội như quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng của Việt Nam thông qua việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, làn sóng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng cũng như mục tiêu hướng tới một Chính phủ kiến tạo, việc sửa đổi Luật SHTT trong giai đoạn hiện nay trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là “hoàn thiện thể chế về SHTT theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền SHTT được bảo vệ và thực thi hiệu quả”.
Theo đó, mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xử lý các bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thi hành; nội luật hóa các cam kết quốc tế, tạo khuôn khổ pháp lý cụ thể cho hoạt động SHTT của Việt Nam; bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật SHTT, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng.
Nội dung sửa đổi Luật SHTT lần này cơ bản sẽ tập trung vào 7 nhóm chính sách lớn, bao gồm: (i) Bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu QTG, người biểu diễn, chủ sở hữu QLQ trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền; (ii) Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước; (iii) Tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký và xác lập quyền; (iv) Đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng; (v) Tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về SHTT; (vi) Nâng cao hiệu quả của hoạt động thực thi quyền SHTT; và (vii) Bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập.
Đây là các nhóm chính sách lớn có tác động đến quan điểm, cách tiếp cận và hướng xử lý đối với cả hệ thống SHTT, bắt đầu từ các khâu sáng tạo, xác lập quyền, bảo hộ quyền, khai thác và thực thi quyền SHTT. Trong mỗi nhóm chính sách sẽ lại có những vấn đề bất cập của các đối tượng quyền SHTT khác nhau (QTG, QLQ, quyền SHCN, quyền đối với GCT) tại các công đoạn khác nhau, các điều khoản liên quan và phương hướng xử lý các bất cập này. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, các quy định liên quan đến xác định chủ thể nắm giữ quyền tài sản (chủ sở hữu, tác giả, người biểu diễn) sẽ được quy định rõ ràng và cụ thể hơn, giúp cho quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng trong các hợp đồng chuyển nhượng, chuyển giao QTG, QLQ được thuận lợi hơn.
Thứ hai, các quy định liên quan đến việc xác định quyền sở hữu, quyền khai thác đối với các nghiên cứu khoa học do nhà nước đầu tư vốn sẽ được quy định rõ ràng và chi tiết hơn, để từ đó khuyến khích phong trào biến các kết quả nghiên cứu thành các tài sản được bảo hộ quyền SHTT (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí), tạo tiền đề để khai thác thương mại đối với các tài sản này trên thị trường được hiệu quả hơn.
Thứ ba, dù là quyền được xác lập tự động mà không qua đăng ký (trong lĩnh vực QTG, QLQ) hay phải đăng ký (lĩnh vực SHCN), thì các quy định liên quan đến thủ tục, thời hạn, thành phần hồ sơ v.v. cũng cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ, nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch để khuyến khích, gia tăng hoạt động đăng ký, xác lập quyền SHTT nhằm tạo cơ sở, bằng chứng vững chắc trong việc xác định chủ thể quyền và đối tượng được bảo hộ, làm tiền đề cho việc khai thác quyền cũng như thực thi quyền sau này.
Thứ tư, các quy định liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHTT cần được rà soát, cân đối để bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng giữa một bên là quyền lợi của chủ thể quyền và một bên là quyền sử dụng, quyền tiếp cận tri thức, công nghệ của xã hội. Theo đó, việc rà soát, sửa đổi sẽ tập trung xử lý các vấn đề liên quan tới quyền tiếp cận tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; hợp lý hóa cơ chế bảo hộ đối với sáng chế; bổ sung các trường hợp sáng chế, nhãn hiệu bị hủy bỏ hiệu lực nếu không đáp ứng những điều kiện nhất định; hợp lý hóa cơ chế bảo hộ quyền đối với giống cây trồng (cân đối giữa quyền của nhà tạo giống và quyền giữ giống của nông dân).
Thứ năm, các quy định nhằm đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ cho hệ thống SHTT (bao gồm hoạt động đại diện, giám định) cũng được rà soát để sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định trách nhiệm rõ ràng hơn, phân loại phạm vi hoạt động cụ thể và chi tiết hơn, đồng thời cắt giảm các điều kiện kinh doanh không thích hợp để phù hợp với quá trình cải cách thủ tục hành chính chung của đất nước.
Thứ sáu, các quy định liên quan đến thực thi quyền sẽ được sửa đổi nhằm bảo đảm cơ chế bảo vệ quyền SHTT được hiệu quả, hợp lý và khả thi hơn. Theo đó, việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính sẽ được quy định cụ thể, tránh chồng lấn sang các biện pháp mang bản chất dân sự, hoàn thiện các quy định về thực thi quyền trong môi trường số, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến cách thức và phạm vi áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng xuất, nhập khẩu.
Thứ bảy, các quy định hiện có trong Luật SHTT nhưng chưa hoàn toàn tương thích với các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam mới là thành viên (như cơ chế bảo mật dữ liệu thử nghiệm đối với nông hóa phẩm; kiểm soát biên giới của cơ quan hải quan v.v.) hay các quy định chưa xuất hiện nhưng phải thi hành theo cam kết quốc tế (như bảo hộ nhãn hiệu âm thanh; cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế do chậm trễ trong thủ tục cấp phép lưu hành thị trường của dược phẩm là sáng chế v.v.) cũng sẽ được rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Toàn bộ nội dung các chính sách cũng như các điều khoản dự kiến liên quan tới từng vấn đề trong mỗi chính sách đều đã được công bố công khai để lấy ý kiến trên trang thông tin điện tử của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng như của Chính phủ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT để trình Quốc hội. Kết thúc Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV hồi tháng 6 vừa qua, Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT đã chính thức được Quốc hội đồng ý đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 với dự kiến sẽ xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV vào tháng 6/2022.
Hiện nay, Đề cương các điều khoản cần sửa đổi, bổ sung trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT đang bắt đầu được dự thảo trên cơ sở các vấn đề đặt ra trong 7 nhóm chính sách nêu trên. Dự kiến, dự thảo Luật sẽ bắt đầu được đăng tải và gửi đi lấy ý kiến rộng rãi vào tháng 02/2021 theo đúng quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Có thể nói, hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực SHTT là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình hoàn thiện hệ thống SHTT nói riêng và trong lộ trình lồng ghép vấn đề SHTT trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Bởi lẽ, nếu được xây dựng và và hoàn thiện trên cơ sở vừa đáp ứng nhu cầu nội tại của đất nước, vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, lại vừa bảo đảm tính tương thích với xu hướng phát triển chung về SHTT toàn cầu, chính sách SHTT mới thực sự trở thành một động lực của kinh tế tri thức, của khoa học công nghệ, để từ đó kinh tế tri thức, khoa học công nghệ tiếp tục là động lực cho sự vươn mình của đất nước.