SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nhiều kết quả tích cực được xác định sau thời gian xây dựng Chính phủ điện tử vừa qua, nổi bật là nâng cao chất lượng phục vụ, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; đổi mới phương thức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước và phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng tới Chính phủ không giấy tờ. 

cpdt1

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bấm nút khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia  ngày 09/12/2019. Ảnh: Gia Huy

Hoàn thiện thể chế phục vụ triển khai Chính phủ điện tử

Chiều nay (10/3), Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì phiên họp của Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ điện tử (CPĐT). Đối với nhiệm vụ triển khai CPĐT do Văn phòng Chính phủ (VPCP) chủ trì, theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết, thời gian qua VPCP đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai và đạt một số kết quả tích cực trong xây dựng CPĐT.

Từ những chủ trương lớn được vạch ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc: “Nghĩ lớn, nhìn tổng thể, hành động nhanh, bắt đầu từ những việc cụ thể” trong xây dựng, triển khai CPĐT, VPCP đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình để thúc đẩy việc thực hiện.

VPCP đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025, tập trung vào 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ các nút thắt về thể chế, hạ tầng công nghệ, nguồn nhân lực, đồng thời đưa ra cách làm phù hợp để bảo đảm triển khai hiệu quả.

VPCP đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ thành lập Ủy ban Quốc gia về CPĐT do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển CPĐT, còn tại các bộ, ngành, địa phương cũng thiết lập các Ban chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử do Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban.

Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai xây dựng CPĐT đã ban hành như: Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, Nghị định số 09/2019/NĐ-CP quy định về chế độ báo cáo, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về gửi, nhận văn bản điện tử, Quyết định số 45/2018/QĐ-TTg quy định về chế độ họp…

Nâng cao chất lượng phục vụ qua vận hành Cổng DVC Quốc gia

VPCP đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia (DVCQG) trở thành đầu mối kết nối với các Cổng DVC, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh, qua đó, người dân, doanh nghiệp được hỗ trợ thông tin, hỗ trợ việc thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến của tất cả các ngành, lĩnh vực, các địa phương mà không bị hạn chế về thời gian, không gian địa lý.

Cổng dịch vụ công quốc gia góp phần chuẩn hóa việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, Cổng dịch vụ công, hệ thống một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; tiết kiệm chi phí đầu tư của các bộ, ngành, địa phương thông qua cung cấp 04 phân hệ dùng chung tại Cổng dịch vụ công quốc gia, bao gồm (1) Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, (2) Hệ thống phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, (3) Nền tảng trao đổi định danh điện tử của Cổng dịch vụ công quốc gia, (4) Hệ thống thanh toán trực tuyến.

Từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ nhấn nút khai trương (ngày 09/12/2019) với 8 dịch vụ công ban đầu, đến ngày 8/3/2021 đã có hơn 2.800 dịch vụ công được tích hợp, cung cấp trên tổng số gần 6.800 thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền, với hơn 116 triệu lượt truy cập, hơn 468.000 tài khoản đăng ký; hơn 42,5 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; trên 940.000 hồ sơ thực hiện trực tuyến và hơn 67.000 giao dịch thanh toán điện tử (tổng số tiền hơn 26,7 tỷ đồng) trên Cổng; tiếp nhận, hỗ trợ trên 53.000 cuộc gọi, hơn 10.000 phản ánh, kiến nghị.

“Những con số này cho thấy sự quan tâm rất lớn cũng như sự kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp trong việc sử dụng một cổng tập trung để thực hiện các giao dịch trực tuyến với Chính phủ. Chi phí tiết kiệm được khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia là hơn 8.100 tỷ đồng/năm”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cho biết.

cpdt2

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng chạy thử nghiệm hệ thống e-Cabinet trên máy tính bảng. Ảnh: Gia Huy 

Đổi mới phương thức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP, xây dựng CPĐT thời gian qua đã góp phần thúc đẩy việc gửi, nhận văn bản điện tử thông qua Trục liên thông văn bản quốc gia và xử lý văn bản trên môi trường mạng. Cụ thể là triển khai gửi, nhận văn bản điện tử theo Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi quan trọng để thay đổi tác phong, lề lối làm việc từ giải quyết công việc dựa trên giấy tờ sang giải quyết công việc trên môi trường mạng, góp phần giảm đáng kể chi phí, thời gian gửi, nhận văn bản, thời gian xử lý công việc (tiết kiệm trên 1.200 tỷ đồng mỗi năm từ tiền giấy, mực, sao lưu, gửi bưu chính, chi phí thời gian…), nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Trục liên thông văn bản quốc gia đến nay đã kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử ở 02 cấp chính quyền với 94/94 bộ, ngành, địa phương. Tính từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ khai trương Hệ thống ngày 12/3/2019 đến ngày 08/3/2021, đã có hơn 4,5 triệu văn bản điện tử gửi, nhận qua Trục liên thông văn bản quốc gia, số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trong năm 2020 gấp 2,5 lần so với năm 2019.

Với mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ, Hệ thống e-Cabinet đã được đưa vào vận hành kết nối đến 22 bộ, cơ quan ngang bộ, giúp quản lý đồng bộ, đầy đủ các phiên họp của Chính phủ, tổ chức lấy ý kiến các thành viên Chính phủ một cách đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả trên môi trường mạng và góp phần rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí in ấn, sao chụp tài liệu giấy. Từ ngày khai trương (ngày 24/6/2019) đến ngày 08/3/ 2021, Hệ thống e-Cabinet đã phục vụ 28 hội nghị, phiên họp của Chính phủ (các đại biểu sử dụng tài liệu điện tử) và thực hiện xử lý 685 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ thay thế việc phát hành hơn 253.000 hồ sơ, tài liệu giấy. Việc sử dụng Hệ thống giúp tiết kiệm chi phí là hơn 169 tỷ đồng/năm.

Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương tháng 8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay, hệ thống đã kết nối với Hệ thống báo cáo của 14 bộ, cơ quan và 37 địa phương. Tương tác, điều hành trực tuyến thông qua hệ thống mạng dữ liệu của Bộ Quốc phòng, mạng chuyên dùng, Internet với gần 57 điểm cầu tại các bộ, ngành, địa phương; kết nối 32 camera giám sát các hồ đập thủy điện…; cung cấp dữ liệu của 105/200 chỉ tiêu kinh tế-xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 8 chỉ tiêu kinh tế-xã hội hàng tháng.

Các hệ thống thông tin do VPCP chủ trì triển khai nêu trên được đưa vào vận hành giúp tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900 tỷ đồng/năm (theo cách tính của OECD) và nhận được phản hồi tích cực của xã hội; tạo sự thay đổi rõ rệt về phương thức làm việc giữa các cơ quan hành chính nhà nước cũng như trong giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công trực tuyến; vừa tạo lực kéo vừa tạo lực đẩy trong triển khai CPĐT, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số; góp phần thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ vừa phát triển kinh tế vừa hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19.

 

Theo TS Bùi Ngọc Hiền, Học viện Cán bộ TP.HCM, đột phá trong cải cách hành chính phải hướng đến/để phục vụ người dân, doanh nghiệp thì mới đem lại hiệu quả/kết quả là thúc đẩy sự phát triển toàn diện của TP.
 
Một trong ba chương trình đột phá của TP.HCM giai đoạn 2020-2025 là “đột phá đổi mới quản lý”. Trong đó, Đảng bộ TP xác định hàng loạt đầu việc: Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính (CCHC), đột phá về thể chế, thủ tục hành chính…
BNhien
TS Bùi Ngọc Hiền.

Người dân, doanh nghiệp là trung tâm của CCHC

Để tạo bước đột phá trong CCHC, Đảng bộ và các cấp chính quyền TP trong nhiệm kỳ 2020-2025 cần thể hiện rõ hơn mục tiêu cốt lõi trong CCHC là hướng tới phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp. Khi đã xác định “người dân là trung tâm của đô thị” thì người dân, doanh nghiệp cũng chính là trung tâm, là hướng đích/người thụ hưởng kết quả/thành quả của CCHC.

Do đó, các cấp hành chính, các cơ quan công quyền của TP cần rà soát, xác định những nội dung, nhiệm vụ hay thủ tục hành chính nào là trọng tâm để đột phá, tập trung thực hiện cải cách. “Phục vụ người dân, doanh nghiệp” không thể là câu khẩu hiệu, lời động viên tinh thần mà phải trở thành/thể hiện trong từng thái độ, hành vi và hành động cụ thể của cán bộ, công chức, viên chức. 

Khi đã xác định người dân, doanh nghiệp là trung tâm của CCHC thì mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong từng hoạt động, từng công việc cụ thể phải hướng đến hai đối tượng này để phục vụ. Có như vậy cán bộ, công chức, viên chức mới là nhân tố thực hiện có kết quả việc CCHC. 

Từ những đòi hỏi trên, từ chính quyền TP đến từng cơ quan cần xác định quy chuẩn, tiêu chí rõ ràng những phẩm chất, năng lực cần có ở từng nhóm/người cán bộ, công chức, viên chức… Trên cơ sở đó, thực hiện việc tuyển dụng, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của TP đáp ứng yêu cầu quản trị TP trong bối cảnh phát triển mới.

3 chương trình (nhỏ) nằm trong chương trình đột phá về quản lý của TP giai đoạn 2020-2025 là:
- Chương trình chuyển đổi số của TP.HCM.
- Chương trình CCHC, nâng cao chỉ số CCHC (PAR Index).
- Chương trình nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư của TP.HCM giai đoạn 2020-2025. 
btan

Cán bộ tại bộ phận một cửa quận Bình Tân đang hướng dẫn người dân cách làm thủ tục bằng hình thức trực tuyến. Ảnh: LÊ THOA

Xây dựng nền quản trị của chính quyền số 

Trong nội dung CCHC trước nhất cần rà soát một cách khoa học, mạnh dạn bãi bỏ, cắt giảm hay đơn giản hóa các thủ tục hành chính để hướng tới tiết giảm thời gian, ngân sách, nguồn lực của chính quyền, người dân, doanh nghiệp. Thực hiện đúng theo lộ trình trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được xác định trong chương trình chuyển đổi số TP.HCM.

Đây là nhiệm vụ - giải pháp quan trọng mà cấp ủy, chính quyền các cấp của TP.HCM cần quan tâm, nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt, cụ thể trong triển khai thực hiện. Chuyển đổi số cần được coi là nhiệm vụ - giải pháp trọng tâm trong các hoạt động quản trị của chính quyền các cấp để hướng tới tầm nhìn đến năm 2030, 

“TP.HCM trở thành đô thị thông minh với sự đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động của bộ máy chính quyền số, của các doanh nghiệp số và sự thịnh vượng, văn minh của một xã hội số”. Quá trình này đòi hỏi chính quyền TP cần xác lập khung pháp lý, mô hình và lộ trình chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực. LÊ THOA ghi

TP thông minh không thể thiếu sự phản biện của người dân

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và các giải pháp thông minh trong các hoạt động quản trị của chính quyền. Trong thời gian tới, chính quyền TP nên học hỏi kinh nghiệm của một số quốc gia trong ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và các giải pháp thông minh vào các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội. Giải pháp này vừa giúp cho chính quyền TP tinh giản biên chế, vừa làm cho chính quyền TP “thông minh hơn” (smarter) trong quản trị và lắng nghe, thấu hiểu dân tình hơn.

Cuối cùng là cần tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách và thể chế; đề cao vai trò giám sát, phản biện xã hội, tạo sự thống nhất, đồng thuận, chung tay xây dựng và phát triển TP. 

TS BÙI NGỌC HIỀN, Học viện Cán bộ TP.HCM - plo.vn

1. Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật tiếp tục có bước chuyển biến rõ rệt
Các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung nguồn lực tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 khóa XII về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật có nhiều kết quả tích cực: Trong năm 2020, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật đã phối hợp với các bộ, cơ quan, rà soát 8.779 văn bản; qua đó, đã phát hiện và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, trong đó tập trung vào 10 lĩnh vực có tác động trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh: (1) Quy định về điều kiện gia nhập thị trường, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp; (2) Quy định về phê duyệt, triển khai, tổ chức thực hiện, chấm dứt dự án đầu tư; quy định về tài chính, thuế; (3) Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; (4) Quy định về đất đai, tài nguyên, môi trường, xây dựng và kinh doanh bất động sản; (5) Quy định pháp luật về lao động, việc làm và an sinh xã hội; (6) Quy định về hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh trong kinh doanh, phá sản doanh nghiệp; (7) Quy định về kiểm tra chuyên ngành; (8) Quy định về bổ trợ tư pháp và tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp; (9) Quy định pháp luật đảm bảo đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; (10) Quy định về phân công, phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong quản lý nhà nước về kinh tế.
2. Cắt giảm chi phí, đơn giản hóa quy định đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp
Tiếp tục thực hiện việc rà soát, đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến đầu tư, kinh doanh thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của bộ, cơ quan để triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025...
Việc vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia tiếp tục có nhiều kết quả tích cực. Các bộ, ngành, địa phương đã tăng cường cấu trúc lại quy trình thủ tục hành chính để tích hợp vào Cổng dịch vụ công quốc gia; đẩy mạnh việc kết nối, thanh toán trực tuyến để tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tính đến ngày 19/12/2020, đã có 2.666 thủ tục hành chính cung cấp trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia (1.382 thủ tục của người dân, 1.441 thủ tục của doanh nghiệp), các đơn vị có đang cung cấp nhiều thủ tục hành chínhlà Bộ Tài chính (230 thủ tục), Bộ Công Thương (131 thủ tục), Bộ Giao thông vận tải (114 thủ tục), tỉnh Nam Định (750 thủ tục), tỉnh Tây Ninh (683 thủ tục), tỉnh Thái Bình (553 thủ tục),...; trên 26.8 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái và có 692.570 hồ sơ trực tuyến thực hiện qua Cổng dịch vụ công quốc gia.
3. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nƣớc tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, với một số nội dung quy định mới đáng chú ý là: Số lượng Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40%; đổi tên hai Uỷ ban của Quốc hội,...
Triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, năm 2020, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành 08 nghị định để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.
Một số đơn vị điển hình về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy trong năm 2020: Bộ Nội vụ đã phối hợp với các Bộ, cơ quan tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định về kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cùng với đó, Bộ cũng đã rà soát, ban hành các quy định kiện toàn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị trực thuộc, như: Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Vụ Tổ chức cán bộ và Vụ Cải cách hành chính. Trong năm 2020, ngành Bảo hiểm xã hội đã tích cực rà soát, sắp xếp, tổ chức lại tổ chức bộ máy của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối trung gian và nâng cao hiệu quả hoạt động. Kết quả đạt được sau rà soát, sắp xếp: Ở Trung ương, sau sắp xếp đã giảm 03 đơn vị cấp ban, giảm 13 đơn vị cấp phòng và 14 chức danh lãnh đạo cấp phòng. Tại địa phương, sau sắp xếp, giảm 65 phòng trực thuộc Bảo hiểm xã hộicấp tỉnh; giảm 58 Bảo hiểm xã hộithị xã, thành phố do chuyển giao nhiệm vụ, nhân sự, tài chính, tài sản về Bảo hiểm Xã hội tỉnh thực hiện, quản lý; giảm 06 Bảo hiểm xã hộicấp huyện do sắp xếp địa giới hành chính; giảm 350 chức danh lãnh đạo cấp phòng và tương đương tại Bảo hiểm xã hộicác cấp. Năm 2020, Bộ Tài chính tiếp tục là điểm sáng, đi đầu trong công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Tính trong năm 2020, Bộ đã ban hành 06 quyết định để kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các vụ, cục, tổng cục và tương đương; đồng thời, ban hành hàng chục quyết định để sắp xếp, tổ chức lại và giải thể các cơ quan thuế, kho bạc các cấp.
Trong năm 2020, Tổng cục Thuế đã cắt giảm 85 chi cục thuế tại các cục thuế cấp tỉnh; giảm khoảng 185 đội thuế thuộc chi cục thuế cấp huyện; Kho bạc Nhà nước đã rà soát, kiện toàn và cắt giảm 06 kho bạc nhà nước cấp huyện. Trên cơ sở Quyết định số 520/QĐ-BTC ngày 13/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, từ cuối năm 2018 đến hết tháng 02/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký ban hành 111 Quyết định thành lập chi cục thuế khu vực trực thuộc 63 cục thuế tỉnh, thành phố trong cả nước. Qua đó,đã tiến hành sắp xếp hợp nhất 565 chi cục thuế để thành lập 269 chi cục thuế khu vực, giảm 296 chi cục thuế. Đồng nghĩa, từ con số 711 chi cục thuế, sau khi hợp nhất toàn ngành chỉ còn lại 415 chi cục thuế, tăng 5 đơn vị so với kế hoạch được giao (kế hoạch giảm còn 420 chi cục thuế) và vượt trước thời gian 10 tháng theo Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 520/QĐ-BTCcủa Bộ trưởng Bộ Tài chính. Việc cắt giảm chi cục thuế đã giúp hệ thống thuế tinh gọn bộ máy, giảm bớt các tầng nấc trung gian, các bộ phận quản lý nội ngành để tập trung nguồn lực cho bộ phận quản lý thuế trực tiếp, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.
4. Ban hành Nghị quyết thành lập thành phố Thủ Đức và thành phố Phú Quốc
Tại Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện để thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP.Hồ Chí Minh. Theo đó, TP.Thủ Đức được thành lập trên cơ sở sáp nhập 03 đơn vị hành chính cấp huyện là Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức, kỳ vọng sẽ tạo tiền đề quan trọng để hình thành khu đô thị sáng tạo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TP.Hồ Chí Minh và phát triển Vùng kinh tế phía Nam. Kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, TP.Hồ Chí Minh có 22 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 16 quận, 5 huyện và 1 thành phố; 312 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 58 xã, 249 phường và 5 thị trấn.
Tại Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập TP.Phú Quốc và các phường thuộc TP.Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. TP.Phú Quốc là thành phố đảo đầu tiên của Việt Nam, sẽ phát huy tốt hơn tiềm năng và lợi thế sẵn có về du lịch - thương mại - công nghệ cao để trở thành một trung tâm du lịch, thương mại lớn của cả nước, khu vực và quốc tế. Sau khi thành lập, TP.Phú Quốc có 9 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 2 phường: An Thới, Dương Đông và 7 xã: Bãi Thơm, Cửa Cạn, Cửa Dương, Dương Tơ, Gành Dầu, Hàm Ninh, Thổ Châu. Tỉnh Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấphuyện, gồm 12 huyện và 3 thành phố; 144 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 116 xã, 18 phường, 10 thị trấn.
5. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trƣơng chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện sang cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm
Nhiều địa phương đã triển khai thí điểm việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích ở các mức độ khác nhau, cụ thể là: 36 địa phương đã thí điểm đặt Bộ phận Một cửa tại trụ sở của Bưu điện và bố trí nhân viên thay thế công chức để tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính. Có 03 tỉnh/thành phố đã triển khai thí điểm đặt Bộ phận Một cửa tại Bưu điện, gồm có: 13 Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh; 46 Bộ phận Một cửa cấp huyện và 64 Bộ phận Một cửa cấp xã. Có 32 tỉnh/ thành phố triển khai bố trí nhân viên bưu điện thay cho công chức tại Bộ phận Một cửa để tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ. 47 tỉnh/thành phố đã phối hợp thực hiện việc luân chuyển hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính giữa Bộ phận Một cửa các cấp với các cơ quan hành chính thông qua dịch vụ bưu điện. Cùng với đó, Cổng dịch vụ công của 12 Bộ và 63 tỉnh, thành phố đã thực hiện kết nối kỹ thuật với Bưu điện các tỉnh, thành phố để triển khai việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết hồ sơ đối với các thủ tục hành chính cung cấp trực tuyến mức độ 3 và 4. Trong năm 2020, trong cả nước đã có 19.954.467 hồ sơ được thực hiện qua dịch vụ bưu chính công ích, trong đó, dịch vụtiếp nhận hồ sơ là 3.990.983 lượt, dịch vụ trả kết quả là 15.963.574 lượt.
6. Các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức và nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức tiếp tục được cải cách mạnh mẽ
Triển khai Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ đã ban hành 07 nghị địnhđể cụ thể hóa các quy định mới của Luật, góp phần hoàn thiện thể chế về quản lý công chức, viên chức. Cụ thể là:
Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức có nhiều đổi mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung một số điều kiện về đăng ký dự tuyển công chức, đổi mới quy trình tuyển dụng công chức và các quy định mới về chế độ công chức tập sự,... Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, trong đó, có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung đáng chú ý là: Đổi mới tiêu chí phân loại viên chức; bổ sung thêm 01 hạng chức danh nghề nghiệp; quy định rõ hơn về điều kiện tuổi được dự tuyển viên chức đối với một số lĩnh vực đặc thù; đổi mới quy trình tuyển dụng và thực hiện chế độ tập sự đối với viên chức,...
Các quy định về xác định vị trí việc làm của công chức và người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Chính phủ đã có những điều chỉnh mới liên quan vị trí việc làm của công chức (tại Nghị định số 62/2020/NĐ-CP) và người làmviệc trong đơn vị sự nghiệp công lập (tại Nghị định số 106/2020/NĐ-CP) so với các quy định trước đây, như các đổi mới về: Căn cứ xác định vị trí việc làm, phân loại vị trí việc làm, các trường hợp điều chỉnh vị trí việc làm, căn cứ xác định và điều chỉnh biên chế công chức,...
Cùng với đó, các quy định về đánh giá, xử lý kỷ luật cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn: Tại Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, Chính phủ đã điềuchỉnh một số quy định về tiêu chí, trình tự và thời điểm đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức hàng năm. Tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, Chính phủ đã quy định chi tiết về nguyên tắc xử lý kỷ luật là phải bảo đảm khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, nghiêm minh, đúng pháp luật; quy định rõ các hình thức xem xét kỷ luật và các trường hợp chưa xem xét kỷ luật; đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tinh thần, danh dự, nhân phẩm trong quá trình xử lý kỷ luật.
7. Điều hành ngân sách nhà nƣớc chủ động, hiệu quả, ch t chẽ, tiết kiệm, góp phần quan trọng thực hiện thành công “nhiệm vụ kép” vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bám sát tình hình thực tiễn, Bộ Tài chính đã chủ động xây dựng các phương án điều hành thu, chi và cân đối ngân sách nhà nước phù hợp với các kịch bản tăng trưởng kinh tế, vừa hỗtrợ doanh nghiệp, người dân ứng phó với dịch bệnh, củng cố nền tảng vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa giữ vững cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp ở địa phương, góp phần thực hiện tốt mục tiêu kép “vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và trật tự xã hội”. Để bảo đảm cân đối ngân sách, bên cạnh việc sử dụng nguồn vượt thu ngân sách nhà nước năm 2019, Bộ Tài chính đã yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương tiến hành rà soát, cắt giảm kinh phí hội nghị, công tác phí trong nước và ra nước ngoài, tiết kiệm thêm chi thường xuyên chưa cần thiết, cấp bách... Nhờ vậy, năm 2020, Việt Nam là một trong số ít những nền kinh tế trên thế giới đạt được mức tăng trưởng dương; lạm phát được giữ vững dưới 4%; các chỉ tiêu về bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài giai đoạn 2016 - 2020 đều trong phạm vi Quốc hội quyết định (không quá 3,9% GDP, 65% GDP, 54% GDP, 50% GDP).
8. Tiếp tục hoàn thiện các quy định và đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cấp các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ cho việc xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, đô thị thông minh
Các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng và nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 cho người dân, tổ chức. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, đây được coi là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2020/QĐ-TTg ngày 22/7/2020 vềmã định danh điện tử của các cơ quan, tổ chức phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương, làm căn cứ quan trọng phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương trong thời gian tới. Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai xây dựng, thử nghiệm và chính thức khởi động Cổng dữ liệu quốc gia từ ngày 31/8/2020. Đây là đầu mối truy cập thông tin, dữ liệu trên mạng Internet phục vụ việc công bố dữ liệu mở, cung cấp thông tin về chia sẻdữ liệu của cơ quan nhà nước; cung cấp các tài liệu, dịch vụ, công cụ, ứng dụng xử lý, khai thác dữ liệu được công bố bởi các cơ quan nhà nước.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến; theo đó, đã quy định rõ về việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống cơ sở dữ liệu khác; các nội dung, trình tự về thực hiện đăng ký hộ tịch trực tuyến; đồng thời, xác định các hành vi không được làm trong khi khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử,...
9. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm viêc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Chương trình đã đề ra mục tiêu cơ bản là nhằm triển khai mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.
Trong đó, các mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là: 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh, 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơcông việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ,.... và đến năm 2030: Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam đặt phấn đấu gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI) và thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI); tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử là trên 80%.
10. Khai trương Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Ngày 19/8/2020, Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm Thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được khai trương và chính thức đi vào vận hành. Đây được coi là điểm nhấn quan trọng mang tính đổi mới, thay đổi phương thức chỉ đạo, điều hành từ dựa trên thông tin, số liệu trên văn bản giấy chuyển sang dựa trên dữ liệu số. Theo đó, Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, được kết nối với các trung tâm điều hành, hệ thống thông tin báo cáo, các cơ sở dữ liệu quốc gia, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của bộ, ngành, địa phương, trở thành một trong những thành phần cốt lõi của hạ tầng số thông minh. Từ Trung tâm, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ có thể theo dõi, kiểm tra được các hoạt động theo từng lĩnh vực do các bộ, ngành, địa phương quản lý thông qua dữ liệu số, hình ảnh trực quan, trực tuyến, giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành được diễn ra nhanh chóng, liên tục và mang lại hiệu quả thiết thực.


Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ

Để Khoa học và công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo thực sự là đột phá chiến lược cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế; tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo; chấp nhận rủi ro, độ trễ trong khoa học, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KH&CN. 

htdatbt

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt. Ảnh VGP/Hoàng Giang


Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt đã chỉ ra 5 giải pháp để KH&CN và đổi mới sáng tạo thực sự là một trong ba đột phá chiến lược như Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định.

Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, xem trọng vai trò của KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo, KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng

Trong những năm qua, KH&CN Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Công tác quản lý nhà nước về KH&CN từng bước được đổi mới, hành lang pháp lý trong lĩnh vực KH&CN được tạo lập toàn diện và đồng bộ hơn, tạo môi trường thuận lợi và cạnh tranh lành mạnh trong nghiên cứu sáng tạo.

Đổi mới sáng tạo dần trở thành tư duy mới trong quản lý, điều hành; nhận thức rõ hơn về vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống sáng tạo quốc gia; từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu; áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN; thực hiện cơ chế khoán chi và kiểm soát chi thông thoáng; gắn nhiệm vụ nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn và thị trường; trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH&CN công lập; phát triển thị trường công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hình thành doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; khuyến khích doanh nghiệp thành lập viện nghiên cứu và đầu tư mạnh cho KH&CN; thí điểm mô hình thu hút, trọng dụng cán bộ khoa học tài năng trong nước và trí thức kiều bào.

Những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách đã góp phần nâng cao tiềm lực và trình độ KH&CN của đất nước. Đến nay, cả nước có 687 tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, 236 trường đại học, ba khu công nghệ cao quốc gia, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tám khu công nghệ thông tin tập trung và gần 67 nghìn cán bộ nghiên cứu. Đã hình thành các viện nghiên cứu công nghệ công nghiệp theo mô hình tiên tiến thế giới ở khu vực công lập và tư nhân. Nguồn lực tài chính cho KH&CN từ ngân sách nhà nước được duy trì mức 2% tổng chi hằng năm; đầu tư từ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp quy mô lớn ngày càng tăng mạnh (chiếm 48% tổng chi xã hội cho KH&CN).

Hạ tầng nghiên cứu một số lĩnh vực trọng điểm như: Công nghệ sinh học, hóa dầu, vật liệu, năng lượng, tự động hóa, nano, công nghệ tính toán, y học được đầu tư tăng cường. Nguồn lực thông tin, nền tảng Tri thức Việt số hóa được đầu tư, kết nối và chia sẻ mở trong cộng đồng. Thị trường công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển sôi động, hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng ngày càng hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, khuyến khích sự ra đời của hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng. 

Số lượng bài báo, công trình khoa học công bố quốc tế và sáng chế của người Việt Nam tăng hằng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp được tăng cường; khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu và ở một số lĩnh vực khoa học có thế mạnh. Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng thêm ba bậc, năm 2019 và 2020 đạt thứ hạng tốt nhất từ trước tới nay, xếp thứ 42 trên 131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp. 

Đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội

Với các tiến bộ trong cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho tiềm lực và trình độ KH&CN, lực lượng KH&CN thật sự đồng hành cùng các cấp, các ngành và địa phương để bám sát thực tiễn, đóng góp ngày càng thiết thực hơn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển hệ thống lý luận mới về vai trò của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững, giúp thay đổi nhận thức và  hành  vi, bồi đắp trí tuệ của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc, góp phần xây dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới tiến bộ.

Khoa học chính trị và kinh tế cung cấp các luận cứ sâu sắc và kịp thời trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện mới. Các công trình nghiên cứu về Biển Đông, đánh giá và dự báo kịp thời cục diện chính trị và ngoại giao trong khu vực, đã phục vụ  đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và an ninh, quốc phòng.  

Khoa học tự nhiên đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất. Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần nâng cao năng lực dự báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan trọng trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, nhất là bậc sau đại học; gia cố nền tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học trẻ đã nhận được các giải thưởng khoa học danh giá trong nước và quốc tế.

Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển lên một tầm cao mới về năng lực và trình độ. Trong nông nghiệp, các nhà khoa học Việt Nam tạo được các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới: Năng suất lúa cao gấp rưỡi Thái Lan và cao nhất ASEAN; năng suất hồ tiêu và cá tra đứng đầu thế giới; năng suất cà phê và cao su đứng thứ hai thế giới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ mới được ứng dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao. 

Trong công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động 5G đã và đang được phát triển. 

Trong lĩnh vực y dược, Việt Nam nằm trong top 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vaccine làm chủ các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và kỹ thuật sinh học phân tử. Trong đại dịch COVID-19, đã kịp thời nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, robot, máy thở, vaccine, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19; góp phần kiểm soát và khống chế thành công dịch bệnh, là minh chứng cho hiệu quả của sự đầu tư kiên trì và chiến lược cho tiềm lực KH&CN nước nhà trong nhiều năm qua.

Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện cơ chế, chính sách

Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc, nhưng KH&CN nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí quốc sách hàng đầu. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy gia tăng về số lượng nhưng thiếu các chuyên gia giỏi đầu ngành trong nhiều lĩnh vực tiên phong. Các công trình nghiên cứu tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với phát triển kinh tế - xã hội còn ít. Tốc độ đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp còn chậm, cho nên chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. KH&CN chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thực trạng đó đặt ra thách thức rất lớn cho lực lượng KH&CN khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, hội nhập ngày càng sâu rộng và chịu sự tác động toàn cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, một trong ba đột phá chiến lược, bên cạnh thể chế và hạ tầng, là đột phá về chất lượng nguồn nhân lực, KH&CN và đổi mới sáng tạo.

Trong thời gian tới, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng KH&CN và đổi mới sáng tạo cần tập trung vào 5 giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật phù hợp cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển KH&CN, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro và độ trễ trong khoa học, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KH&CN.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN theo hướng chú trọng hiệu quả và tác động của nhiệm vụ KH&CN trong giải quyết các bài toán thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chú trọng chất lượng và chỉ số tác động của các bài báo, công trình công bố quốc tế; khả năng ứng dụng và thương mại hóa kết quả KH&CN trong đời sống công nghiệp và xã hội; tăng cường công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Cho phép thử nghiệm chính sách mới, mô hình đổi mới sáng tạo và công nghệ mới.

Thứ hai, đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh. Tiếp tục quan tâm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo lành mạnh. Tăng cường thiết chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ giữa Nhà nước và doanh nghiệp cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển đồng bộ, gắn kết chặt chẽ các ngành khoa học, đồng thời giữ nguyên tắc coi trọng khoa học xã hội và nhân văn, đầu tư nền tảng cho khoa học tự nhiên, ưu tiên khoa học kỹ thuật và công nghệ; nâng cao năng lực đón đầu các ứng dụng KH&CN tiên phong ở trình độ cao. 

Xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ KH&CN, tập trung đầu tư và đầu tư tới ngưỡng để giải quyết các yêu cầu bức thiết trong phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Xem xét khả năng phân quyền và đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN địa phương theo cụm, vùng lãnh thổ để phát huy được thế mạnh tổng hợp và lợi thế của vùng.

Thứ ba, bảo đảm các nguyên tắc công khai, minh bạch, độc lập phản biện (kể cả phản biện quốc tế) trong tuyển chọn và xét chọn nhiệm vụ KH&CN. Trao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN và tổ chức KH&CN công lập, đi đôi với cơ chế bắt buộc chịu sự đánh giá độc lập và giám sát xã hội, công khai kết quả hoạt động KH&CN. Rà soát hiện trạng để đầu tư có chọn lọc đối với một số tổ chức KH&CN trọng điểm, hiệu quả; xem xét chấm dứt đầu tư và giải thể các cơ sở hoạt động kém hiệu quả.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế đầu tư và tài chính cho KH&CN trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, có trọng tâm, trọng điểm, dựa trên chỉ số đo lường kết quả, hiệu quả đầu ra. Linh hoạt và đơn giản hóa thủ tục tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN, thanh quyết toán tài chính theo thông lệ quốc tế, giảm tối đa các gánh nặng hành chính cho các nhà khoa học. Mạnh dạn giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì để thúc đẩy ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KH&CN và có cơ chế kinh tế, tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tham gia mạnh hơn vào hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ.

Thứ năm, tiếp tục đầu tư cải thiện hạ tầng KH&CN, tăng cường trang thiết bị nghiên cứu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành; kiên trì đầu tư tăng cường tiềm lực thông tin KH&CN. Kết hợp đồng bộ giữa hạ tầng nghiên cứu, môi trường học thuật tiên tiến và tự chủ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng và các cơ hội phát triển nghề nghiệp thuận lợi cho nhà khoa học. Mở rộng hợp tác quốc tế và kết nối, thu hút hiệu quả lực lượng khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài. Trọng dụng, đãi ngộ người tài kết hợp đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu. 

Cải tổ bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực quản lý KH&CN; đổi mới tư duy quản lý để ứng phó kịp với các thay đổi không ngừng và nhanh chóng của đời sống KH&CN; áp dụng công nghệ kỹ thuật cao trong quản lý hoạt động KH&CN để giảm thủ tục hành chính đối với các nhà khoa học, tổ chức KH&CN.

Hoàng Giang - nangluccanhtranh.chinhphu.vn

Một trong những nội dung trọng tâm được thảo luận tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương sắp diễn ra là dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 (Nghị quyết 01).

kcnam2021

Kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng tốc trong năm mới 2021. - Ảnh: TNO

Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ, ý kiến góp ý của thành viên Chính phủ và các cơ quan liên quan để hoàn thiện và Bộ đang tiếp tục lấy ý kiến các cơ quan liên quan về dự thảo này.Dự kiến, Nghị quyết này sẽ được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngay từ những ngày đầu năm mới. Ngày 18/12 vừa qua, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thường trực Chính phủ đã họp, thảo luận về dự thảo Nghị quyết 01 – Nghị quyết mang tính xương sống, kim chỉ nam cho chỉ đạo, điều hành cả năm 2021, năm khởi đầu của giai đoạn 5 năm tới.

Dự thảo nhận định, năm 2021, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt. Đại dịch COVID-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhất là đối với đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải hàng không.

Ở trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong bối cảnh nguồn lực hạn chế. Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức. 

Do đó, nhiệm vụ của năm 2021 rất nặng nề, vừa phải cố gắng vượt qua khó khăn, thách thức, quyết tâm hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, vừa phải tích cực chuẩn bị các nhiệm vụ, chương trình, đề án, dự án,… để triển khai các kết luận, nghị quyết của Đảng, Quốc hội cho cả nhiệm kỳ, đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực tối đa, đổi mới sáng tạo, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn trong năm 2021.

11 nhóm giải pháp, 206 nhiệm vụ cụ thể

Trên cơ sở đó, kế thừa những kết quả quan trọng và toàn diện đã đạt được, quyết tâm vượt qua mọi trở ngại, thách thức, tận dụng mọi thời cơ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 và chuẩn bị tốt nhất các điều kiện để triển khai nhiệm vụ của cả 5 năm, dự thảo Nghị quyết nêu 11 nhóm giải pháp và nhiệm vụ chủ yếu.

Cùng với đó là các phụ lục, nêu rõ các chỉ tiêu chủ yếu, 87 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực và kịch bản tăng trưởng GDP năm 2021.  Đặc biệt, phụ lục số 4 trong dự thảo nêu rõ 206 nhiệm vụ cụ thể, với cơ quan chủ trì theo dõi, đánh giá và mốc thời gian hoàn thành.

Trước ngày 20/1/2021, các bộ, cơ quan, địa phương xây dựng, ban hành Chương trình, Kế hoạch hành động, các văn bản cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết; trong đó xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ (bao gồm nhiệm vụ chủ trì và nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan trong tổ chức thực hiện), tiến độ thực hiện và phân công đơn vị chủ trì.

Nghiên cứu, xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và thực hiện những chính sách cụ thể để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 phù hợp với diễn biến thực tiễn xảy ra trong năm. Các bộ, ngành tổng hợp, phụ trách theo dõi các lĩnh vực kinh tế vĩ mô có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong tham mưu, đề xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể điều hành kinh tế vĩ mô, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, bước vào năm 2021, năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Việt Nam đang hướng đến các mục tiêu: Tập trung thực hiện hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số, xây dựng xã hội số; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để khơi thông các nguồn lực cho phát triển; và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Đưa ‘đổi mới sáng tạo’ vào phương châm hành động

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, theo dự báo tình hình năm 2021 như dự thảo Nghị quyết, khó khăn và thuận lợi sẽ tiếp tục đan xen. Trong đó, điểm nổi bật nhất là tình hình COVID-19 sẽ tiếp tục và diễn biến khó lường.

“Điều này yêu cầu nhiệm vụ điều hành kinh tế - xã hội 2021 nhìn chung phải tiếp tục thực hiện mục tiêu kép mà Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, mặc dù với sự tham gia của nhân tố vaccine, đối sách với COVID-19 có thể sẽ có những thay đổi nhất định”, Thứ trưởng nói.

Thứ trưởng cho biết, số liệu về các kết quả của nền kinh tế đạt được năm 2020 sẽ tiếp tục được cập nhật trong những ngày tới để báo cáo Chính phủ và thảo luận tại Hội nghị. Tuy nhiên, các số liệu của 11 tháng và những ngày đầu tháng 12 đều cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế là khá tốt.

Trong phương châm hành động của Chính phủ, bên cạnh kỷ cương, đoàn kết và quyết liệt hành động vẫn là những yếu tố nền tảng, còn có những điểm mới. Trong đó, đổi mới sáng tạo là chìa khóa để tận dụng được các cơ hội trong những năm tới. Còn khát vọng phát triển là nội dung đã được Hội nghị Trung ương cho ý kiến và Nghị quyết của Chính phủ muốn thể hiện mạnh mẽ khát vọng vươn lên ngay từ năm đầu của chu kỳ kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm.

Về 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, đây đều là những vấn đề cốt lõi, quan trọng nhất trong chỉ đạo, điều hành năm 2021, bao quát toàn diện các lĩnh vực. Trong đó, hai nhiệm vụ đầu (tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp và phòng chống dịch COVID-19) là những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của năm 2021.

Riêng về đầu tư công, năm 2021 sẽ là năm đầu tiên của chu kỳ đầu tư công trung hạn, dự kiến tháng 7/2021, Quốc hội sẽ thông qua kế hoạch đầu tư công trung hạn. Triển khai Nghị quyết 129 của Quốc hội về phân bổ ngân sách trung ương năm 2021, Chính phủ đã hết sức thận trọng, xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhằm phân bổ vốn 2021 đúng quy định, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương triển khai kế hoạch đầu tư công và giải ngân ngay từ đầu năm.

Một nhiệm vụ khác, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương, phải tăng cường công tác bố trí vốn và triển khai công tác chuẩn bị đầu tư cho các dự án quan trọng, các dự án hạ tầng quy mô lớn, có tác động lan tỏa, tạo đà cho tăng trưởng, phát triển trong dài hạn. Chính phủ đã lựa chọn một số dự án như vậy để khởi động ngay từ năm 2021 với mục tiêu, khi bước vào kế hoạch trung hạn, các dự này hoàn toàn có đủ điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân trong các năm tiếp theo. Cùng với đó, ưu tiên nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ, kết thúc sớm các dự án thuộc tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông.

Hà Chính - baochinhphu.vn

Để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, cần phải có những ngành kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp có khả năng tạo ra động lực, sức lan tỏa mới, phá vỡ quy luật phát triển tuyến tính bình thường.

cdsvdd1

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Diễn đàn quốc gia về Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam 2020. Ảnh: VGP/Đình Nam

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh điều này trong Diễn đàn quốc gia về Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam 2020 với chủ đề “Doanh nghiệp công nghệ số - Động lực thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số Việt Nam”, ngày 23/12, diễn ra tại Hà Nội.

Tự tin, chủ động sáng tạo

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng Diễn đàn ngày hôm nay đã bước đầu định danh được một cộng đồng doanh nghiệp số với tốc độ phát triển rất nhanh.

Sau gần 1 năm thực hiện Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14/1/2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam" đã có trên 13.000 doanh nghiệp công nghệ số ra đời, tăng 28%. Hiện Việt Nam có cộng đồng trên 58.000 doanh nghiệp và mục tiêu 100.000 doanh nghiệp công nghệ số vào năm 2030 có thể đạt được vào năm 2025.

“Make in Viet Nam” trở thành một khẩu hiệu hành động, góp phần thúc giục tinh thần thiết kế, sáng tạo, làm ra sản phẩm tại Việt Nam; thay vì làm gia công, lắp ráp, hãy làm sản phẩm phần mềm, phần cứng, dịch vụ công nghệ thông tin.

Theo Phó Thủ tướng, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới ngày càng bé lại, có nhiều biến động và cũng nhạy cảm hơn, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh và cả an toàn, an ninh mạng. Điển hình, dịch bệnh COVID-19 thậm chí đã có thể làm đảo lộn thế giới, nhiều ngành sản xuất phải mất nhiều năm mới quay lại được trạng thái như trước đây.

“Và thành công trong phòng chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam, dù không phải là nước đứng đầu thế giới về trình độ y tế, là bởi vì chúng ta biết mình đang ở đâu trên bản đồ y tế thế giới, biết được điểm mạnh, hạn chế của ngành y tế, hệ thống quản trị xã hội để có những giải pháp đúng, nhanh và kịp thời từ sự đóng góp, tổng hợp của đông đảo ý kiến chuyên gia và cả những người không làm về y tế”, Phó Thủ tướng chia sẻ và khẳng định Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn ủng hộ các sáng kiến nhằm khơi dậy niềm tự hào, khát vọng, sự thôi thúc người Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ, để chủ động, sáng tạo ra những giải pháp công nghệ, thiết kế những sản phẩm mới có chứa hàm lượng trí tuệ của người Việt Nam”. 

Khơi dậy tiềm lực của mọi người Việt Nam 

Phó Thủ tướng nêu rõ: Việt Nam luôn đặt mình là một phần của thế giới. Chúng ta luôn nêu cao tinh thần cởi mở, hợp tác quốc tế, tạo điều kiện cho mọi đối tác, doanh nghiệp nước ngoài làm ăn, kinh doanh, và đóng góp vào sự phát triển công nghệ thông tin nói riêng, kinh tế-xã hội nói chung của Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chủ động nắm bắt công nghệ, tự tin thiết kế, sáng tạo ra những giải pháp và cách làm riêng để cạnh tranh bình đẳng trước hết ở thị trường trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam, trước hết là cộng đồng doanh nghiệp số có thể làm được nếu biết khơi dậy tiềm lực của tất cả người Việt Nam trong nước, nước ngoài, và cả những người đang gắn bó với mảnh đất Việt Nam.

Cơ sở niềm tin đó trước hết đến từ truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của mỗi người dân Việt Nam, từ đó khơi dậy được sự sáng tạo và sức mạnh của toàn dân, cùng với sức mạnh thời đại, vượt qua rất nhiều thách thức mà nhiều khi, nhiều người tưởng chừng không thể vượt qua được.

Phó Thủ tướng dẫn chứng: Dù rất khó khăn, chưa hài lòng nhưng thực tế Việt Nam vẫn là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh thuộc nhóm hàng đầu thế giới trong hơn 20 năm liên tục. Mặc dù thu nhập bình quân GDP theo đầu người của Việt Nam mới ở khoảng 100, nhưng chỉ số phát triển bền vững của chúng ta xếp thứ 49. Điều đó thể hiện sự ưu việt của chế độ và con đường phát triển của Việt Nam là đúng, tương đồng với 17 nhóm tiêu chí và 169 tiêu chí cụ thể của Chương trình nghị sự phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc thể hiện khát vọng chung của nhân loại như: Xây dựng môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển kinh tế, chăm lo cho tất cả mọi người đặc biệt là những người yếu thế, bảo vệ thiên nhiên, môi trường…

Sự tự tin còn đến từ số lượng doanh nghiệp công nghệ số thành lập mới hay những “doanh nghiệp kỳ lân”, số lượng dịch vụ số của doanh nghiệp Việt Nam được thế giới và chính người Việt Nam sử dụng. Cùng với đó là chất lượng đào tạo nhân lực của Việt Nam với chỉ số giáo dục phổ thông tiếp cận với nhóm các nước OECD, giáo dục đại học dần được cải thiện thứ hạng, chỉ số sáng tạo đứng thứ 42 trên thế giới, trong khi nếu tính về chỉ số thu nhập GDP bình quân trên đầu người Việt Nam đứng ở thứ hạng khoảng 100 và nhiều chỉ số khác trên các bảng xếp hạng quốc tế thì thường ở vị trí 70 đến 80 như năng lực cạnh tranh quốc gia, môi trường kinh doanh, chính phủ điện tử…

“Đấy là nền tảng cơ sở để chúng ta có thể tự tin nếu có chính sách đúng, cùng nắm tay nhau thì có thể làm được những điều tưởng chừng không thể làm được. Và cộng đồng doanh nghiệp số Việt Nam có thể tự tin góp sức lớn hơn để đưa đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn”, Phó Thủ tướng nói.

cdsvdd2

Ảnh: VGP/Đình Nam

Bứt phá khỏi quy luật phát triển thông thường

Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh hơn, Phó Thủ tướng cho rằng nhất thiết phải xác định, tạo điều kiện cho những ngành kinh tế có khả năng tạo ra động lực, sức lan tỏa mới, những cộng đồng doanh nghiệp có thể phá vỡ quy luật phát triển tuyến tính bình thường.

“Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam ở mức dưới 10%. Chúng ta phải đặt ra mục tiêu tăng trưởng doanh nghiệp công nghệ số từ 15-20% và thậm chí là nhanh hơn nữa”, Phó Thủ tướng nêu vấn đề và cho rằng cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo (start-up), các doanh nghiệp số phải có sự khát khao và nhiệt huyết vượt qua tất cả khó khăn bên ngoài, sự cản trở bên trong để vươn lên ngang bằng các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.

Về yêu cầu bền vững, Phó Thủ tướng đánh giá phần lớn sản phẩm được vinh danh tại Cuộc thi Giải thưởng “Sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam” năm 2020 đã hướng tới phục vụ những nhu cầu thiết yếu của con người, đặc biệt những vấn đề thường ít được nói đến ở một nước đang phát triển như sức khỏe, giáo dục, giao thông, vui chơi giải trí… “Đây chính là những nguồn khách hàng, nơi khởi nguồn dịch vụ mà nếu các doanh nghiệp công nghệ số làm tốt sẽ góp phần làm cho đất nước phát triển bền vững hơn”.

cdsvdd3

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao Giải Nhất hạng mục "Giải thưởng nền tảng số xuất sắc" cho "Base.vn - Nền tảng quản trị và điều hành doanh nghiệp số". Ảnh: VGP/Đình Nam

Lịch sử trao cho sứ mệnh tiên phong

Nhắc lại những ngày đầu mạnh dạn tiên phong, đổi mới của ngành bưu điện trước đây, Phó Thủ tướng nhấn mạnh một lần nữa sứ mệnh tiên phong lại được trao cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin hôm nay.

Để đất nước phát triển nhanh hơn thì công nghệ thông tin, công nghệ số phải đi nhanh hơn nữa bằng những mô hình, giải pháp của Việt Nam. “Công nghệ có thể chưa hoàn toàn là của Việt Nam. Chúng ta cũng không có tham vọng thay tất cả các tập đoàn khổng lồ trên thế giới để làm tất cả các công nghệ nền tảng nhưng quan trọng nhất là làm chủ và có giải pháp để sử dụng hiệu quả nhất. Tinh thần này không chỉ được khơi dậy, thôi thúc trong cộng đồng doanh nghiệp số mà phải đến với mọi doanh nghiệp Việt Nam và ra toàn xã hội”, Phó Thủ tướng nói và khẳng định Chính phủ sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp, từ giữ gìn đất nước hòa bình, ổn định, hợp tác, cải thiện môi trường kinh doanh đến việc đặt ra các “bài toán” để doanh nghiệp mở giải pháp, mở dữ liệu, sáng kiến để kết nối, hỗ trợ lẫn nhau.

“Chúng ta đi sau nên phải rất khẩn trương, nắm chặt tay trong một đội hình bước thật đều, thật nhanh”, Phó Thủ tướng mong muốn và chúc cộng đồng doanh nghiệp số Việt Nam tiếp tục phát triển, đóng góp vào sự nghiệp phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số có được những bước tiến mới,góp phần làm cho đất nước phát triển nhanh hơn và bền vững hơn.

Đình Nam - baochinhphu.vn

Bộ Khoa học và Công nghệ đang dự thảo Thông tư hướng dẫn một số nội dung về thu hút, sử dụng và trọng dụng nhân tài để lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định.

sdcnhan

 Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)


Theo đó, dự thảo Thông tư nhằm Hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ và Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định số 27/2020/NĐ-CP), gồm: 

1. Thành tích khoa học và công nghệ để xét tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học và chức danh công nghệ; Hội đồng kiểm tra, sát hạch, cách tính điểm để xác định người được tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm, xếp lương vào chức danh khoa học, chức danh công nghệ.

2. Thành tích khoa học và công nghệ để xét bổ nhiệm đặc cách vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ; Hội đồng xét bổ nhiệm đặc cách vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ cao hơn không qua thi thăng hạng, không phụ thuộc vào năm công tác.

3. Đề án định hướng phát triển chuyên ngành khoa học; thành phần, nhiệm vụ, nguyên tắc làm việc của các Hội đồng trong quy trình lựa chọn, công nhận nhà khoa học đầu ngành; việc tiếp tục hoặc dừng áp dụng chính sách trọng dụng đối với nhà khoa học đầu ngành.

Dự thảo nêu rõ, thành tích khoa học và công nghệ để xem xét áp dụng chính sách trọng dụng bao gồm:

1. Bài báo khoa học đã được công bố trên tạp chí khoa học uy tín trong nước và quốc tế; báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế được in trong kỷ yếu hội thảo đã được xuất bản; sách chuyên khảo đã được xuất bản theo quy định của pháp luật. Yêu cầu về bài báo khoa học và  sách chuyên khảo thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 01/2020/TT-BKHCN ngày 20/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ.

2. Giải thưởng khoa học và công nghệ trong nước, quốc tế được xác định theo quy định tại Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước và các giải thưởng khác về khoa học và công nghệ, Nghị định số 60/2019/NĐ-CP ngày 05/7/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước và các giải thưởng khác về khoa học và công nghệ và các văn bản hướng dẫn thi hành.

3. Sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng đã được cấp văn bằng bảo hộ hoặc đã được ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn.

4. Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và được nghiệm thu ở mức đạt trở lên.

5. Dự án, công trình, đồ án thuộc chuyên ngành kỹ thuật là các dự án, công trình, đồ án phát triển, ứng dụng, triển khai công nghệ hoặc các nhiệm vụ khác thuộc phạm vi ngành kỹ thuật, kinh tế-kỹ thuật cá nhân đảm nhiệm, được phân theo loại và cấp (nhóm) tại quy định của pháp luật chuyên ngành.

6. Điểm quy đổi kết quả hoạt động chuyên môn được xác định theo Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 01/2020/TT-BKHCN ngày 20/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ.

Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất những quy định cụ thể về việc tiếp nhận vào viên chức và bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ; đặc cách bổ nhiệm vào hạng chức danh nghề nghiệp cao hơn không thông qua thi thăng hạng, không phụ thuộc năm công tác; trọng dụng nhà khoa học đầu ngành…

 

Anh Cao - moha.gov.vn

Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Ngô Minh Châu chỉ đạo, mỗi cán bộ, công chức, viên chức là một đại sứ cải cách hành chính, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao.
 
Ngày 30-10, UBND TP.HCM đã tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, chương trình hành động số 18 của Thành ủy và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030.

cchc-tphcm
Ông Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu chỉ đạo tại hội nghị. Ảnh: LÊ THOA

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, ông Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ đánh giá cao những kết quả mà TP.HCM đạt được về cải cách hành chính trong những năm qua.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ khẳng định: TP.HCM là một trong những địa phương chủ động sáng tạo trong cải cách hành chính, có chương trình hành động cụ thể của Thành ủy, có Nghị quyết chuyên đề của HĐND TP và thành lập Ban chỉ đạo về cải cách hành chính.

Theo ông Nguyễn Trọng Thừa, TP.HCM là điểm sáng về cải cách hành chính, nổi bật lên nhiều mô hình mà cả nước có thể rút kinh nghiệm, nhân rộng. Chẳng hạn mô hình ‘Bình Thạnh trực tuyến’, ‘Bình Tân công dân số’, ‘Phòng họp không giấy’...

“TP.HCM đã luôn coi người dân là trung tâm của cải cách hành chính, coi sự hài lòng của người dân là thước đo. Với mục đích cuối cùng là xây dựng chính quyền kiến tạo, phục vụ dân” – ông Thừa nói.

cchc-tphcm
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa trao tặng bằng khen cho ông Huỳnh Văn Hạnh, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh: LÊ THOA

Thứ trưởng Bộ Nội vụ cũng cho rằng TP.HCM là địa phương đầu tiên thí điểm thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm, nghiên cứu về Đô thị thông minh. Đồng thời, kịp thời đề xuất không tổ chức HĐND quận, phường và xây dựng TP Thủ Đức, thể hiện mong mỏi về một TP mới là mang tầm sáng tạo.

Ông Nguyễn Trọng Thừa cũng đề nghị TP.HCM nhìn nhận sâu hơn, khắc phục những tồn tại trong cải cách hành chính. Sắp xếp kiện toàn bộ máy, tăng cường kiểm tra siết chặt kỷ cương hành chính… làm sao để TP.HCM tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế - xã hội của cả nước, là TP thông minh điển hình trên cả nước.

Tiếp thu chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Chủ tịch UBND TP Ngô Minh Châu cũng nhìn nhận, thời gian tới TP.HCM vẫn còn gặp nhiều thách thức, trong đó dịch COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Xu thế cải cách hành chính phải đáp ứng nhu cầu chủ động, tích cực từ phía người dân, doanh nghiệp.

 

cchc-tphcmPhó Chủ tịch UBND TP Ngô Minh Châu phát biểu tại hội nghị. Ảnh: LÊ THOA

Theo ông Ngô Minh Châu, TP.HCM cần tập trung xây dựng hình ảnh chính quyền phục vụ nhân dân thân thiện, hiện đại, đoàn kết, nghĩa tình. Thủ trưởng các sở/ngành, Chủ tịch UBND quận/huyện phải chịu trách nhiệm chính đối với công tác cải cách hành chính, lấy tỉ lệ hài lòng làm căn cứ, điều kiện đánh giá cán bộ, bình xét thi đua… nhất là người đứng đầu.

Công tác cải cách hành chính phải gắn với các giải pháp cụ thể, có tính nhân rộng, áp dụng lâu dài, ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân.

Phó Chủ tịch UBND TP chỉ đạo cấp ủy, thủ trưởng các đơn vị phải kịp thời nắm rõ nguyên nhân không hài lòng của cá nhân, tổ chức trong lúc giải quyết thủ tục hành chính để kịp thời chấn chỉnh khắc phục. Các đơn vị cần chủ động tổ chức kiểm tra công vụ đối với các trường hợp hồ sơ trả bổ sung, trễ hạn. Từ đó, hạn chế thấp nhất tình trạng trễ hạn hồ sơ, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, quy hoạch, đầu tư.

“Mỗi cán bộ, công chức, viên chức là một đại sứ cải cách hành chính, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao. Nhiệt tình, thân thiện, vui vẻ khi tiếp xúc, giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp” – Phó Chủ tịch UBND TP chỉ đạo.

Cũng theo ông Ngô Minh Châu, TP.HCM sẽ thực hiện thanh tra, xử lý các phản ánh, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác cải cách hành chính. Kiểm tra đột xuất đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Xử lý nghiêm những cá nhân, cơ quan có hành vi, thái độ gây khó khăn, nhũng nhiễu doanh nghiệp, người dân.

TP còn khuyến khích và tạo thói quen cho người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4. Có giải pháp chuyển dần việc nộp hồ sơ trực tiếp, tiếp xúc với công chức sang nộp hồ sơ thông qua môi trường mạng.

 LÊ THOA - plo.vn

Với quyết tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, TP. Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh các phong trào thi đua về cải cách hành chính, nhiều mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo đã và đang phục vụ có hiệu quả trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố; nhiều mô hình được Trung ương nghiên cứu, triển khai nhân rộng cả nước, trong đó nổi bật một số mô hình như:

Ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa liên thông nhóm thủ tục hành chínhthuộc lĩnh vực hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng ký, quản lý cư trú trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh được các cơ quan Trung ương triển khai nhân rộng cả nước ban hành Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 10/6/2015 của liên Bộ: Tư pháp, Công an, Y tế hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp Thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Nghị quyết số 28/2018/NQ-HĐND ngày 07/12/2018 của Hội đồng nhân dân thành phố về giảm lệ phí thực hiện các thủ tục hành chính áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân thành phố; Ban hành Quy chế thực hiện liên thông nhóm thủ tục đăng ký hộ kinh doanh và đăng ký thuế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

Phần mềm “Khảo sát không hài lòng của người bệnh tại các bệnh viện công lập trên địa bàn thành phố”; Giải pháp “Xây dựng Website mời gọi đầu tư các dự án trong các lĩnh vực của TP.Hồ Chí Minh” http://www.ppp.tphcm.gov.vn; Ứng dụng trực tuyến tại các quận – 19 huyện; Ứng dụng trực tuyến về giao thông, quy hoạch đô thị, xây dựng, Tổng đài 1022 tiếp nhận và giải đáp thông tin của người dân, tổ chức...các mô hình tuyên truyền, vận động, hỗ trợ nhân dân giải quyết thủ tục hành chính.

Các mô hình sáng kiến, giải pháp hiệu quả về giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chínhđã mang lại nhiều tác động tích cực như: Giảm thời hạn giải quyết, giảm chi phí đilại cho cá nhân, tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính; góp phần hoàn thành tốt công tác đơn giản hóa thủ tục hành chínhtrong thực hiện nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước các lĩnh vực thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dânquận - huyện, phường - xã, thị trấn; thay đổi phương thức làm việc trong giai đoạn phòng, chống dịch COVID-19, vừa đảm bảo công tác phòng, chống dịch, vừa mang lại hiệu quả trong giải quyết các hồ sơ, thủtục hành chínhcho người dân, doanh nghiệp, đã góp phần để thành phố thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.

Nguồn: Sở Nội vụ TP. Hồ Chí Minh

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chia sẻ điều này tại phiên khai mạc Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), trong khuôn khổ Hội nghị và Triển lãm thế giới số 2020 (ITU Digital World) theo hình thức trực tuyến, chiều 20/10.
 

vddcds2

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Trong đại dịch COVID-19, CNTT dường như có thêm động lực để phát triển nhanh hơn, gắn sát hơn với cuộc sống thực tiễn. Ảnh: VGP/Đình Nam
Theo Phó Thủ tướng, chuyển đổi số đã dần trở thành xu thế không thể đảo ngược, mở ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân cơ hội phát triển chưa từng có, gắn với đó là những thách thức và yêu cầu phải tự điều chỉnh.Hội nghị Bộ trưởng các nước ITU 2020 tập trung thảo luận quanh chủ đề hoạch định chiến lược số trong và sau COVID-19 và định hướng cho quan hệ hợp tác giữa ITU với các quốc gia thành viên trong triển khai các chương trình chuyển đổi số. Đây cũng là cơ hội để các bộ trưởng và lãnh đạo doanh nghiệp đối thoại về chính sách, chiến lược nhằm phát huy hơn nữa vai trò thiết yếu  công nghệ thông tin-viễn thông trong phòng chống đại dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế. 

Chuyển đổi số không chỉ là chuyển đổi công nghệ mà quan trọng hơn là chuyển đổi về tư duy thiết kế và nội dung chính sách ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều điều ngày hôm qua, hôm nay là đúng nhưng sẽ phải thay đổi và phải thay đổi rất nhanh.

Là một quốc gia đang phát triển, hơn 30 năm qua Việt Nam đã duy trì được môi trường ổn định, hợp tác, phát triển và tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm ít nước cao nhất thế giới. Trong nỗ lực và kết quả đó có sự góp phần quan trọng - nhiều thời điểm có tính mở đường - của ngành viễn thông và công nghệ thông tin.

Xác định sự cần thiết thúc đẩy chuyển đổi số mạnh mẽ hơn nữa để phục vụ con người, để không ai bị bỏ lại phía sau, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một Chương trình chuyển đổi số quốc gia với những mục tiêu, giải pháp cụ thể. 

vddcds1

Ảnh: VGP/Đình Nam

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng việc lựa chọn chủ đề của Hội nghị không chỉ mang tính thời sự nóng bỏng mà còn có ý nghĩa, rất chiến lược lâu dài. Ngay giờ phút này, người dân Việt Nam, hàng tỷ người trên toàn thế giới đang phải căng mình chống dịch COVID-19. Mấy hôm nay, con số nhiễm bệnh mới trên thế giới đã lên tới trên dưới 400.000 ca mỗi ngày. 

Là người đứng đầu Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19 của Việt Nam, Phó Thủ tướng chia sẻ sâu sắc trước những khó khăn và vất vả của những người tham gia chống dịch và nhấn mạnh trong “cuộc chiến” này công nghệ thông tin-truyền thông có vai trò và đóng góp rất quan trọng.

“Muốn chiến thắng dịch bệnh thì nhất thiết phải huy động được mọi người dân cùng tham gia chống dịch. Công nghệ thông tin-truyền thông giúp thông tin kịp thời, minh bạch về dịch bệnh và hướng dẫn mỗi người dân phải làm gì để bảo vệ mình và cộng đồng.

Công nghệ thông tin-truyền thông giúp thực hiện truy vết, quản lý người nhiễm và người có nguy cơ lây nhiễm; giúp điều trị hiệu quả hơn. Đặc biệt là giúp kết nối quốc tế, tăng cường hợp tác trong nghiên cứu về virus, sinh phẩm xét nghiệm, vaccine…”, Phó Thủ tướng nói.

Công nghệ thông tin-truyền thông cũng giúp Nhà nước, doanh nghiệp và mọi người tổ chức lại và duy trì các hoạt động của mình trong một trạng thái bình thường mới.

Trong đại dịch COVID-19, công nghệ thông tin dường như có thêm động lực để phát triển nhanh hơn, gắn sát hơn với cuộc sống thực tiễn.

vddcds3

Sau phiên khai mạc Hội nghị và Triển lãm thế giới số 2020 (ITU Digital World) sẽ có 3 phiên thảo luận chuyên đề  về kết nối, chuyển đối số và phát triển bền vững. Ảnh: VGP/Đình Nam

Để cùng chung tay thúc đẩy phát triển công nghệ số, thúc đẩy chuyển đổi số vì một thế giới hòa bình, hợp tác và thịnh vượng, trực tiếp hiện nay là chiến thắng đại dịch COVID-19 và ổn định, phát triển trong và sau đại dịch, Phó Thủ tướng nêu một số vấn đề cần trao đổi, thảo luận tại Hội nghị.

Trước hết là sự cần thiết hoạch định một chiến lược số trong và sau đại dịch COVID-19, trong đó có những định hướng cho quan hệ hợp tác giữa ITU với các quốc gia thành viên trong chuyển đổi số.

Các nước thành viên ITU cần thúc đẩy việc xây dựng các chuẩn mở cho công nghệ mạng 5G, tạo cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, giảm chi phí xây dựng mạng lưới; thảo luận tìm sự thống nhất xây dựng công ước quốc tế, hoặc thỏa thuận quốc tế về không gian mạng để thúc đẩy hợp tác trên cơ sở bảo đảm an toàn an ninh mạng, bảo đảm chủ quyền các quốc gia, quyền và lợi ích công dân trên không gian mạng.

Khẳng định cam kết của Việt Nam sẽ cùng các nước thành viên đóng góp và xây dựng ITU hoạt động ngày càng hiệu quả, hoàn thành sứ mệnh cao cả của Liên minh, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tin tưởng Hội nghị sẽ thành công và sẽ đưa ra nhiều sáng kiến cùng các khuyến nghị để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số trên toàn cầu, hướng tới tương lai tương sáng, tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người dân trên thế giới.

Đình Nam - baochinhphu.vn

Page 3 of 9

Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537378