Văn hóa đổi mới sáng tạo phải được xây dựng ngay từ giáo dục tiểu học để hướng dẫn cho học sinh cách làm việc đội nhóm, hình thành tư duy xây dựng giải pháp giải quyết vấn đề…
Đó là ý kiến của TS. Kevin Murphy - Chủ tịch J.E. Austin Associates tại sự kiện Kết nối sáng tạo Inno - Coffee tháng 12 chủ đề “Đánh giá tác động và tăng cường năng lực mạng lưới đổi mới sáng tạo cho phát triển bền vững của Thành phố Hồ Chí Minh”. Sự kiện do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức vào ngày 6/12/2024 nhằm tham khảo ý kiến chuyên gia nước ngoài về bức tranh toàn cảnh tính kết nối giữa đổi mới sáng tạo và sự phát triển kinh tế bền vững ở Thành phố, về cách thức phát triển mạng lưới đổi mới sáng tạo thêm hiệu quả. Ông Hub Langstaff – Giám đốc Quốc gia Swiss EP Vietnam cũng tham dự sự kiện này.
Chia sẻ tại sự kiện, TS. Kevin Murphy cho rằng đổi mới sáng tạo phải là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Theo ông, cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo. Tuy đã có một số thành tựu về đổi mới sáng tạo nhưng Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để đạt được vị thế mới (xếp hạng 44/133 quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024, chưa có mặt trong Top 100 cụm khoa học và công nghệ thế giới).
Báo cáo “Một quốc gia nhỏ, không giáp biển có thể trở thành mô hình đổi mới toàn cầu như thế nào” từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho thấy Thụy Sĩ có hệ thống giáo dục vững chắc từ bậc mẫu giáo đến sau đại học. Nước này có mật độ các trường đại học nằm trong Top 500 tính theo đầu người cao nhất thế giới, dẫn đầu là những ngôi sao sáng trên toàn cầu là Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ (Zurich) và EPFL (Lausanne). Quy mô nhỏ đã giúp phát triển các lĩnh vực đổi mới theo chủ đề. Trong số đó có Hiệp hội Crypto Valley, có nguồn gốc từ Zug và tập trung vào phát triển chuỗi khối quốc tế; Drone Valley, với hai cơ sở tại Lausanne và Zurich, tập trung vào việc phát triển máy bay không người lái có ứng dụng trong các lĩnh vực như năng lượng mặt trời và bảo vệ môi trường; và Swiss Food and Nutrition Valley, nơi tăng cường đổi mới hệ thống thực phẩm. Thụy Sĩ chi hơn 3% GDP cho R&D, trong đó khu vực tư nhân chiếm khoảng hai phần ba.
Theo đó, khuyến nghị cho sự phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp ở TP.HCM, TS. Kevin Murphy cho rằng đổi mới sáng tạo đợi đến đại học mới bắt đầu là quá muộn. Theo ông, văn hóa đổi mới sáng tạo phải được xây dựng ngay từ giáo dục tiểu học để hướng dẫn cho học sinh cách làm việc đội nhóm, hình thành tư duy xây dựng giải pháp giải quyết vấn đề, hình thành cách suy nghĩ như thế nào để giải quyết vấn đề, chủ động phối hợp với bạn học có giải pháp tốt hơn để giải quyết vấn đề. Ở bậc trung học thì tổ chức các buổi ngoại khóa nhằm tăng cường khả năng làm việc đội nhóm ở học sinh.
Hoàng Kim (CESTI)
GRP không chỉ là công cụ giảm thiểu các rào cản pháp lý mà còn góp phần nâng cao năng suất và chất lượng của doanh nghiệp. Bằng cách đơn giản hóa các quy định, minh bạch hóa quy trình, giảm gánh nặng hành chính, TP.HCM đang phấn đấu để tạo nền tảng vững chắc cho một môi trường kinh doanh thân thiện và hiệu quả.
Sáng ngày 29/11/2024, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức buổi tập huấn về thực hành xây dựng thể chế, quy định tốt GRP. Sự kiện mang đến một diễn đàn trao đổi chuyên sâu về phương pháp và công cụ quản lý hiện đại nhằm cải thiện chất lượng thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị công tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc buổi tập huấn, bà Nguyễn Thị Mai Phương (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia) cho biết, thủ tục hành chính phức tạp không chỉ gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước. Những năm gần đây, Việt Nam bắt đầu triển khai nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc xây dựng và thực thi các thể chế, quy định nhằm phù hợp với yêu cầu thực tế, cụ thể qua việc cắt giảm thành phần hồ sơ, thời gian thực hiện... Trong bối cảnh đó, với tiềm năng cải thiện môi trường pháp lý, tăng cường niềm tin của công chúng, khả năng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy định tốt GRP (Good Regulatory Practices) được kỳ vọng sẽ tạo đà bật cho môi trường kinh doanh hiện đại, trở thành lợi thế cạnh tranh lớn của Việt Nam trong thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế.
Theo bà Phương, GRP được hiểu là tập hợp những quá trình, hệ thống, công cụ, phương pháp đã được các tổ chức quốc tế công nhận, giúp xây dựng, thực thi các quy định/chính sách một cách hiệu quả, minh bạch, toàn diện và bền vững.
Bà Nguyễn Thị Mai Phương (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia) trình bày các nội dung tại buổi tập huấn.
Cụ thể, các quy trình của GRP gồm: hệ thống rà soát các quy tắc và quy định hiện tại; hệ thống kiểm tra và cải thiện các quy tắc và quy định mới; phương pháp để tham vấn và góp ý với các bên có liên quan; các sáng kiển để cải thiện việc thực thi quy định; tiếp cận về các thực hành đổi mới trong quản lý quy định. Hỗ trợ cho từng quy trình là các công cụ tương ứng: đánh giá sau thực thi – chương trình rà soát và cắt giảm gánh nặng thủ tục hành chính; đánh giá tác động quy định/ RIA – RIS; tham vấn công chúng, thông báo và góp ý; chiến lược tuân thủ/ cải cách thực thi và kiểm tra; quy định linh hoạt – Agile Regulation/ Regulatory Sandbox, quy định dựa trên nguyên tắc đạo đức, nghiên cứu hành vi/ chiến lược tầm nhìn.
Trên thế giới, GRP đã được áp dụng tại nhiều quốc gia như Anh, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Singapore... giúp cải thiện môi trường pháp lý, tăng cường năng suất lao động và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các nguyên tắc của GRP như minh bạch, tham vấn cộng đồng, đánh giá tác động quy định (Regulatory Impact Assessment - RIA), rà soát sau thực thi đã trở thành “tiêu chuẩn vàng” để đảm bảo hiệu quả và sự đồng thuận khi ban hành chính sách. Nhìn lại trong nước, Việt Nam cũng đã áp dụng các công cụ của GRP trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như RIA từ 2008, tham vấn công chúng đối với các dự thảo và đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc áp dụng GRP sẽ tạo ra những quy định dễ hiểu hơn, giảm chi phí và thời gian tuân thủ cho doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế. Không chỉ vậy, GRP còn hỗ trợ xây dựng các khung pháp lý nhất quán, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Dù có nhiều tiềm năng, việc triển khai GRP tại Việt Nam vẫn đối mặt với các thách thức như nhận thức chưa đồng đều, thiếu sự phối hợp giữa các cấp quản lý và hạn chế về nguồn lực. Trao đổi tại buổi tập huấn, bà Phương cũng đề xuất các hoạt động ngắn hạn nhằm thực hiện hiệu quả GRP gồm: nâng cao nhận thức và tăng cường cam kết thông qua các diễn đàn, hội nghị và chiến dịch tuyên truyền; tổ chức các buổi đào tạo nghiêm túc, xây dựng kỹ năng thực thi GRP; thực hiện các chương trình thí điểm, từ đó rút ra bài học để triển khai trên diện rộng; tận dụng công nghệ số để cải thiện hiệu quả quản lý và giám sát quy định; thúc đẩy đổi mới và cạnh tranh lành mạnh giữa các tỉnh, ngành trong áp dụng GRP; phát động phong trào GRP, tạo động lực mạnh mẽ cho các bên tham gia; thể chế hóa GRP, đưa GRP vào khung pháp lý quốc gia; tận dụng GRP như một thế mạnh bền vững, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút đầu tư.
Trong khuôn khổ sự kiện, các đại biểu đã cùng thảo luận, trao đổi về những nội dung liên quan đến vai trò, tầm quan trọng của xây dựng thể chế, quy định tốt trong cải cách thủ tục hành chính, nhằm đảm bảo kết quả của các chính sách/quy định được ban hành hiệu quả, minh bạch, toàn diện và bền vững. Đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm triển khai các mô hình xây dựng thể chế, quy định tốt để cải cách thủ tục hành chính của một số quốc gia trong khu vực nhằm cải thiện chất lượng môi trường pháp lý cho doanh nghiệp, người dân và xã hội.
Chương trình tập huấn ngày 29/11 không chỉ trang bị kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, mà còn đặt nền móng cho việc áp dụng GRP trên phạm vi rộng hơn trong cả nước. Thông qua việc triển khai hiệu quả GRP, TP.HCM sẽ tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong cải cách hành chính, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Minh Nhã (CESTI)
Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi, thảo luận về khả năng hợp tác tiềm năng, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo (AI) và biến đổi khí hậu.
Chiều 28/11, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tiếp và làm việc với ông Philipp AGATHONOS (Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Áo tại Việt Nam) nhân dịp chuyến thăm của ông đến TP.HCM từ ngày 28-29/11/2024.
Ông Philipp AGATHONOS chia sẻ, Chính phủ Áo rất quan tâm, khuyến khích các cơ hội hợp tác với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trong chuyến thăm TP.HCM lần này, Ngài Đại sứ cũng đã có buổi làm việc với Đại học Quốc gia TP.HCM nhằm tìm hiểu, thúc đẩy các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như trao đổi sinh viên, giảng viên, các chương trình đào tạo chung, chương trình nghiên cứu chung.
Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN), ông Philipp AGATHONOS bày tỏ sự quan tâm và đánh giá cao hoạt động của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM trong vai trò hỗ trợ thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các chương trình nghiên cứu phát triển KH&CN của Thành phố. Ngài Đại sứ cũng nhận thấy cơ hội hợp tác với TP.HCM rất rộng mở, đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ môi trường, năng lượng tái tạo, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo, hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển đô thị thông minh,…
Về nghiên cứu ứng dụng AI, ông Philipp AGATHONOS cho biết, Bộ Ngoại giao Áo đang hợp tác với một số tổ chức tư nhân nghiên cứu đưa ra các công cụ AI giải quyết các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công tác của nhân viên ngoại giao. Qua đây cũng cho thấy một số kinh nghiệm trong việc hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Tại nước Áo cũng có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển liên quan đến đổi mới sáng tạo, trong đó có chương trình hỗ trợ trao đổi startup từ Áo đi ra quốc tế (định hướng đi qua châu Á) và ngược lại. Tuy nhiên, cần hình thành báo cáo định hướng về các phương án, chương trình, nội dung hợp tác cụ thể để trình Chính phủ Áo phê duyệt và có chính sách hỗ trợ.
Quang cảnh buổi làm việc
Giới thiệu về hoạt động khoa học và công nghệ tại TP.HCM, bà Nguyễn Thị Thu Sương (Phòng Quản lý khoa học – Sở KH&CN TP.HCM) cho biết, Thành phố đang triển khai một số chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo và biến đổi khí hậu, tập trung vào 6 chương trình gồm: Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ phục vụ Đô thị thông minh và chuyển đổi số; Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ công nghiệp; Chương trình nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; Chương trình nghiên cứu phát triển, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; Chương trình nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý và phát triển đô thị; Chương trình vườn ươm khoa học và công nghệ trẻ.
Thành phố cũng ban hành và triển khai các chính sách đặc thù về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết số 98/2023/QH15, cụ thể như Nghị Quyết số 19/2023/NQ-HĐND về quy định tiêu chí, đối tượng, điều kiện được hưởng ưu đãi tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và các chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập và thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 20/2023/NQ-HĐND về quy định lĩnh vực ưu tiên, tiêu chí, điều kiện, nội dung và mức hỗ trợ dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 20/2024/NQ-HĐND về quy định các tiêu chí, lĩnh vực, nội dung hỗ trợ thử nghiệm có kiểm soát giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (sandbox);…
Về trí tuệ nhân tạo, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 575/QĐ-UBND về phê duyệt Chương trình "Nghiên cứu và phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 - 2030" với nhiều nhiệm vụ cụ thể như: Đề án xây dựng hạ tầng số; Đề án xây dựng hạ tầng tính toán hiệu năng cao; Dự án xây dựng Cổng thông tin giải pháp và ứng dụng AI; Hạng mục xây dựng cơ chế, chính sách về AI; Đề án thành lập Trung tâm hỗ trợ phát triển và chuyển giao AI Thành phố Hồ Chí Minh; Đề án xây dựng mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển AI tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo; Đề án Đào tạo nguồn nhân lực trình độ quốc tế ngành AI;…
Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, Thành phố cũng đã ban hành và triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ về đánh giá biến đổi khí hậu (nghiên cứu các mô hình tính toán về thay đổi các yếu tố khí tượng và mực nước dâng do biến đổi khí hậu, cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu cho TP.HCM,…); nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu (sức khỏe, cơ sở hạ tầng, nguy cơ xảy ra sự cố, khu dân cư,…) và đánh giá khả năng thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu; nghiên cứu các giải pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu, giảm khí nhà kính, các quy trình, công nghệ mới phục vụ bảo vệ môi trường,…
Tại buổi làm việc, bà Sương cũng đề xuất một số hướng hợp tác, cụ thể như chuyển giao công nghệ xây dựng hạ tầng tính toán, nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ phát triển AI tại Việt Nam; mở các khóa đào tạo trực tuyến và ngoại tuyến do chuyên gia Áo giảng dạy; hỗ trợ triển khai các dự án thí điểm sử dụng AI trong quản lý hành chính công và hỗ trợ người dân. Về biến đổi khí hậu, đề xuất hợp tác nghiên cứu và ứng dụng năng lượng mặt trời, gió, và các giải pháp lưu trữ năng lượng; phát triển các dự án bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn và tái trồng rừng; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm thiên tai dựa trên công nghệ; chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ trong quản lý chất lượng không khí, kiểm soát ô nhiễm; tổ chức các hội thảo quốc tế và chương trình giáo dục cộng đồng về biến đổi khí hậu;...
Ông Philipp AGATHONOS, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Áo tại Việt Nam (chính giữa) chụp ảnh lưu niệm cùng đại diện lãnh đạo và đại diện các phòng, ban của Sở KH&CN TP.HCM
Thống nhất với những thông tin trao đổi, chia sẻ và đề xuất tại buổi làm việc, ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết, Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu phấn đấu trở thành trung tâm phát triển KH&CN hàng đầu của cả nước và trong khu vực. Bên cạnh những kết quả đạt được trong giai đoạn 2021 – 2025 về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, Thành phố cũng xây dựng và triển khai các cơ chế chính sách nhằm nâng cao tiềm lực KH&CN như thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế (CoE); thành lập Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo Thành phố; tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vươn tầm ra thế giới; thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu/nhóm nghiên cứu mạnh, thúc đẩy hợp tác quốc tế về nghiên cứu phát triển AI, phát triển bền vững tại TP.HCM,… Do vậy, Sở KH&CN sẵn sàng kết nối hợp tác nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút các chuyên gia từ Áo tham gia vào các hoạt động này. Ông Lê Thanh Minh cũng gởi lời mời đại diện Đại sứ quán Áo tại Việt Nam tham dự chuỗi sự kiện WHISE 2024 (Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp TP.HCM năm 2024), đặc biệt mong muốn Ngài Đại sứ có thể tham gia trình bày tham luận và chia sẻ kinh nghiệm tại Hội thảo khoa học quốc tế định hướng nghiên cứu về AI và ứng dụng cho TP.HCM sẽ diễn ra ngày 18/12 trong khuôn khổ sự kiện WHISE 2024.
Ông Philipp AGATHONOS bày tỏ sự hào hứng và đồng ý với những thông tin chia sẻ cũng như lời mời của Sở KH&CN TP.HCM. Đồng thời mong muốn hai bên sẽ có những hoạt động hợp tác cụ thể trong thời gian tới để cùng tham gia hỗ trợ giải quyết các vấn đề thực tế của TP.HCM, từ đó phát huy các tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Áo.
Lam Vân (CESTI)
Ngày 27/11/2024, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn “Tư duy và hành động 5S, nâng cao hiệu quả làm việc”.
Tại lớp tập huấn, các học viên tiếp cận và tìm hiểu mô hình 5S. Đây là mô hình quản lý, sắp xếp nơi làm việc có nguồn gốc từ Nhật Bản, đã được nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam nghiên cứu và áp dụng. 5S là mô hình mang đến những lợi ích, năng suất chất lượng rất hiệu quả cho các tổ chức, doanh nghiệp nếu thực sự áp dụng, triển khai.
Theo báo cáo viên Nguyễn Thế Nam (Trung tâm Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ 2), mục đích của việc áp dụng 5S không chỉ đơn thuần ở việc nâng cao điều kiện và môi trường làm việc trong một tổ chức, mà quan trọng hơn là làm thay đổi cách suy nghĩ, thói quen làm việc và tăng cường khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân trong tổ chức. Triết lý áp dụng 5S là tự mỗi người giữ cho nơi làm việc của mình sạch và ngăn nắp là cách làm tối ưu; thay vì cố gắng dọn dẹp nơi làm việc, trước tiên hãy cố gắng không làm bẩn nó (phòng bệnh hơn chữa bệnh).
Trong khuôn khổ lớp tập huấn, các học viên đã tìm hiểu và thực hành lần lượt các bước trong 5 khâu Seiri – Sàng lọc, Seiton – Sắp xếp, Seiso – Sạch sẽ, Seiketsu – Săn sóc, Shitsuke – Sẵn sàng. Theo đó, khâu Sàng lọc sẽ giúp phát hiện những vật, tài liệu thừa – không còn sử dụng, hoặc tìm lại được những vật, tài liệu có ích vốn đã thất lạc. Khâu Sắp xếp sẽ giúp nơi làm việc hiệu quả (dễ tìm, dễ thấy, thuận tiện khi sử dụng vật, tài liệu) và hỗ trợ nắm bắt thời hạn tối thiểu và tối đa lưu giữ vật, tài liệu. Khâu Seiso – Sạch sẽ giúp tạo môi trường làm việc sạch sẽ, thoải mái, máy móc được vận hành tốt, và vệ sinh dọn dẹp cũng là một hành động để kiểm tra. Khâu Seiketsu – Săn sóc là duy trì sự sạch sẽ ngăn nắp, động viên khen thưởng cái tốt, cuốn hút mọi người cùng tham gia. Khâu Shitsuke – Sẵn sàng là làm các việc kể trên một cách tự giác, tạo thành thói quen yêu thích thực hành 5S.
Trong quy trình triển khai 5S, tổ chức sẽ thành lập Ban 5S. Người phụ trách 5S trong tổ chức có vai trò cực kỳ quan trọng, là tấm gương về 5S để mọi người noi theo. Việc triển khai 5S cần tuyên truyền cụ thể về mục tiêu, hoạt động, hướng dẫn thực hiện từng S, kết quả đánh giá… 5S cần bắt đầu bằng giáo dục và đào tạo để mọi người đều thấu hiểu và tự nguyện tham gia.
Hoàng Kim (CESTI)
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố nguy cơ để chẩn đoán sớm 6 loại ung thư” do tác giả Hồ Phạm Thục Lan cùng cộng sự (Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) chủ trì thực hiện, nhằm phục vụ chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp ở Việt Nam.
Tại buổi nghiệm thu, ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, ung thư hiện là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Mỗi năm, hàng trăm nghìn người Việt Nam được chẩn đoán mắc ung thư, trong đó, ung thư di căn ở giai đoạn muộn là nguyên nhân của 90% các trường hợp tử vong. Tuy nhiên, các biện pháp chẩn đoán ung thư hiện nay chủ yếu dựa trên hình ảnh học, nội soi và sinh thiết mô thường gây đau đớn, tốn kém và khó thực hiện ở giai đoạn đầu, hoặc nhiều trường hợp khối u khó tiếp cận. Trong bối cảnh này, sinh thiết lỏng có đặc điểm gắn liền với sinh bệnh học của ung thư ngay từ cấp độ tế bào, đã nổi lên như một phương pháp chẩn đoán tiềm năng với nhiều ưu điểm vượt trội. Phương pháp này mang lại độ chính xác cao, mở ra cơ hội phát hiện sớm cũng như theo dõi hiệu quả 6 loại ung thư phổ biến tại Việt Nam là ung thư phổi, vú, đại trực tràng, buồng trứng, gan và dạ dày.
Quang cảnh buổi nghiệm thu.
“Thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi hướng đến mục tiêu ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố dịch tễ lâm sàng cho chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp, góp phần phát triển dấu ấn sinh học mới, tối ưu hóa các phương pháp để phân lập, phân tích những đặc điểm phân mảnh cfDNA giúp tăng hiệu suất chẩn đoán ung thư giai đoạn sớm”, bà Lan chia sẻ thêm.
Cũng theo bà Lan, khác với sinh thiết mô truyền thống, sinh thiết lỏng là phương pháp ít xâm lấn hơn, sử dụng mẫu máu để phát hiện các dấu ấn sinh học ung thư, bao gồm DNA tự do từ tế bào ung thư (cfDNA). Phương pháp này không chỉ giảm thiểu rủi ro và sự khó chịu cho bệnh nhân mà còn có khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm. Hơn nữa, sinh thiết lỏng cho phép theo dõi tiến triển bệnh và hiệu quả điều trị theo thời gian thực.
Với đề tài này, nhóm tác giả đã tiến hành 3 nội dung chính là thu thập đối tượng nghiên cứu (gồm ước tính cỡ mẫu, xây dựng quy trình chọn nhóm bệnh, xây dựng quy trình chọn nhóm chứng: bắt cặp theo tuổi và giới tính của nhóm bệnh); xây dựng dữ liệu cho mô hình chẩn đoán (gồm xác định yếu tố nguy cơ của 6 loại ung thư cho quần thể nghiên cứu và xây dựng profile dữ liệu đột biến gen cho 6 loại ung thư); xây dựng mô hình chẩn đoán sớm cho 6 loại ung thư dựa trên sinh thiết lỏng và yếu tố lâm sàng.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã thu thập 658 ca ung thư từ 4 Bệnh viện ở TP.HCM (Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện Đại học Y Dược, Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch) và 658 ca chứng từ nghiên cứu VOS (nghiên cứu về loãng xương ở Việt Nam), được bắt cặp theo nhóm tuổi và giới tính. Tuổi trung bình của các đối tượng là 56, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ, ngoại trừ trong trường hợp ung thư vú.
Các ca ung thư bao gồm 6 loại thường gặp: phổi, gan, vú, đại trực tràng, dạ dày, thận, tất cả đều ở giai đoạn sớm (I-III) và chưa di căn. Kết quả mô bệnh học tương đồng với các nghiên cứu trong nước, tuy nhiên, phần lớn các ca có độ biệt hoá trung bình hoặc kém, cho thấy bệnh vẫn được phát hiện muộn, đặc biệt đối với ung thư phổi và dạ dày. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn giữa phân loại giai đoạn cTNM (đánh giá phân độ TNM theo lâm sàng) và pTNM (đánh giá phân độ TNM theo giải phẫu bệnh) ở tất cả các loại ung thư.
Về các yếu tố nguy cơ, mỗi loại ung thư có những yếu tố riêng, tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận các yếu tố kinh điển trong y văn như thuốc lá, rượu bia, tiền sử gia đình, nhiễm khuẩn HBV, HCV và H. pylori. Ngoài ra, chế độ ăn uống nhiều rau củ quả là yếu tố bảo vệ, trong khi ăn nhiều thịt đỏ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Triệu chứng lâm sàng, bao gồm triệu chứng tại chỗ do khối u và các triệu chứng toàn thân, phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước, tuy nhiên, các triệu chứng thường không điển hình, đồng thời xuất hiện ở giai đoạn muộn.
Trong nghiên cứu, phân tích cfDNA được thực hiện trên toàn bộ hệ gen bằng Whole Genome Sequencing, trên tập huấn luyện gồm 100 ca ung thư giai đoạn III-IIIb và 250 ca chứng, sử dụng mô hình mạng nơ-ron. Mô hình tối ưu của nhóm nghiên cứu gồm hai yếu tố: Wise-1 về lệch bội và InsideMonomer của Motif cuối đoạn, với chỉ 2.900 biến, giúp tối giản quy trình xử lý và tối ưu hiệu quả kinh tế.
Khi sử dụng mô hình Wise-1 + InsideMonomer với ba chỉ số LRScore, SVMScore và RFScore trên bộ kiểm định đa ung thư và từng loại ung thư, kết quả ghi nhận độ phân định cao giữa ung thư và không ung thư, nhưng hiệu suất chẩn đoán thay đổi theo loại bệnh, với AUC từ 0,67 đến 0,96, độ nhạy dao động từ 20% đối với ung thư thận và 84% đối với ung thư gan, tại độ đặc hiệu 98%.
Kết hợp thêm các yếu tố nguy cơ lâm sàng của quần thể nghiên cứu vào mô hình di truyền (bao gồm ba chỉ số LRScore, SVMScore, và RFScore), phân tích bằng BMA và các phương pháp học máy, hiệu suất chẩn đoán của mô hình kết hợp không cải thiện nhiều, ngoại trừ ung thư vú, khi AUC tăng từ 0,67 lên 0,83. Tuy vậy, mô hình kết hợp vẫn có giá trị lâm sàng, giúp phân tầng nguy cơ tốt hơn, từ đó lựa chọn đối tượng có nguy cơ cao để thực hiện phân tích di truyền.
ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) báo cáo kết quả đề tài tại buổi nghiệm thu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các mô hình chẩn đoán sớm có thể ứng dụng hiệu quả vào thực tế lâm sàng qua hai bước:
- Bước 1: tại tuyến cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu, sử dụng các mô hình học máy hoặc nomogram dành riêng cho yếu tố nguy cơ để nhận diện các đối tượng có nguy cơ cao. Tiếp theo sẽ rà soát các triệu chứng lâm sàng có liên quan ung thư được ghi nhận từ nghiên cứu. Nếu có triệu chứng gợi ý sẽ chuyển qua bước 2.
- Bước 2: tại tuyến trên chuyên khoa, sẽ thực hiện xét nghiệm sinh thiết lỏng để chẩn đoán sớm ung thư và dùng mô hình chẩn đoán sớm (nomogram và học máy) để quyết định bệnh nhân cần thực hiện tiếp các xét nghiệm để chẩn đoán xác định.
Nhằm hỗ trợ tốt hơn cho việc ứng dụng mô hình vào thực tiễn lâm sàng, nhóm thực hiện đề tài cũng đề xuất một số nội dung như cần có những nghiên cứu đoàn hệ với quy mô lớn, thiết kế riêng cho từng loại ung thư để tìm đặc điểm phân mảnh cfDNA riêng biệt cho mỗi loại khối u, đặc biệt đối với những loại ung thư có tỷ lệ phát hiện thấp; cần tận dụng những tiến bộ trong lĩnh vực học máy, học sâu, mạng nơ-ron để tích hợp hợp lý các yếu tố lâm sàng, sinh thiết lỏng, chẩn đoán hình ảnh và các dữ liệu omics khác (proteomics, microbiomics, metabolomics), nhằm nâng cao độ nhạy, độ đặc hiệu của mô hình, đồng thời giảm thiểu tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả; đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước với các nhóm chuyên về sinh học phân tử, di truyền học, học máy...
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu, đại diện nhóm nghiên cứu nhận định, việc kết hợp xét nghiệm chẩn đoán sớm với phân tầng nguy cơ trên nhóm nguy cơ cao sẽ nâng cao hiệu quả chẩn đoán. Điều này không chỉ mở ra triển vọng cho việc kết hợp sinh thiết lỏng và các yếu tố dịch tễ lâm sàng để phát triển công cụ chẩn đoán sớm hiệu quả, mà còn góp phần giảm thiểu gánh nặng bệnh tật, cải thiện chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư.
Minh Nhã (CESTI)
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa ban hành Kế hoạch tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế định hướng nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo (AI) và ứng dụng cho TP.HCM lần thứ I năm 2024 với chủ đề "Thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực hành chính công tại Thành phố Hồ Chí Minh".
Hội thảo nhằm kết nối hợp tác, trao đổi học tập kinh nghiệm quốc tế về AI; định hướng nghiên cứu và ứng dụng AI tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những hoạt động nhằm góp phần thực hiện Kế hoạch số 4697/KH-UBND ngày 27/12/2023 của Ủy ban Nhân dân Thành phố về "Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo từ môi trường nghiên cứu đến thử nghiệm, ứng dụng thí điểm đến ứng dụng rộng rãi trong xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, tầm nhìn năm 2030".
Dự kiến, Hội thảo được tổ chức ngày 18/12 tại Trung tâm Hội nghị 272 (phường Võ Thị Sáu, Quận 3) với hơn 150 đại biểu tham dự là các chuyên gia trong lĩnh vực AI; đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thành phố Thủ Đức; đại diện các trường, viện nghiên cứu trong nước và quốc tế; đại diện các doanh nghiệp ứng dụng và nghiên cứu trong lĩnh vực AI trong nước và quốc tế;…
Tại hội thảo, các chuyên gia, diễn giả trong nước và quốc tế sẽ trình bày tham luận về AI liên quan đến các lĩnh vực y tế, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, giáo dục và đào tạo, tài nguyên và môi trường, du lịch, văn hóa,… Trong đó, Sở KH&CN sẽ trình chiếu video clip về hoạt động nghiên cứu và ứng dụng AI tại TP.HCM, đại diện Sở Thông tin và Truyền thông sẽ trình bày tham luận nhằm nêu bật các kết quả, thành tựu đạt được cùng những khó khăn, hạn chế trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp, định hướng cho thời gian tới nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng AI tại TP.HCM, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính công.
Được biết, trong Kế hoạch số 4697/KH-UBND, TP.HCM đặt mục tiêu hình thành hệ sinh thái AI tại Thành phố; thúc đẩy gia tăng 20%/năm số lượng các công trình khoa học, bằng độc quyền sáng chế/GPHI hoặc quyền tác giả (đối với phần mềm) về AI hoặc ứng dụng AI tại Thành phố; hàng năm gia tăng 10% số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp số phát triển, ứng dụng AI và gia tăng vốn đầu tư vào lĩnh vực AI; hàng năm tăng 10% nhân lực AI đạt chất lượng phục vụ cho nghiên cứu, triển khai và ứng dụng AI phục vụ đời sống kinh tế, xã hội Thành phố. Đồng thời, phấn đấu đến năm 2030, đảm bảo 100% các sở, ban ngành, quận, huyện và thành phố Thủ Đức có ứng dụng AI phục vụ công tác quản lý nhà nước.
Để thực hiện các mục tiêu trên, UBND Thành phố định hướng các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như tìm kiếm, triển khai các giải pháp AI ở mọi lĩnh vực phục vụ phát triển Thành phố; hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng AI phục vụ sản xuất, kinh doanh; triển khai tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về AI trực tuyến; xây dựng, vận hành phát triển nền tảng chia sẻ dữ liệu AI; tổ chức các cuộc thi AI; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái AI; triển khai các hội nghị, hội thảo quốc tế về nghiên cứu khoa học và ứng dụng AI;…
Sở Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và đơn vị liên quan triển khai thực hiện Kế hoạch này.
Lam Vân (CESTI)
Trong hai ngày 26-27/11, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố".
Đây là một trong 4 lớp tập huấn về năng suất và chất lượng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của TP.HCM năm 2024 nhằm tuyên truyền, phổ biến và chia sẻ kinh nghiệm cũng như cung cấp kiến thức về các giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn Thành phố.
Tại lớp tập huấn, PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) trao đổi và làm rõ các nội dung liên quan đến khái niệm, định nghĩa về năng suất, các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất; tầm quan trọng của năng suất; năng suất và những yếu tố liên quan; tác động của các công nghệ 4.0 đến năng suất và chất lượng; các giải pháp nâng cao năng suất;…
Theo đó, năng suất không còn là một khái niệm mới mẻ, hiện nay, ba hình thức năng suất khác nhau đã được hầu hết các nhà nghiên cứu và thực hành năng suất chấp nhận rộng rãi, bao gồm: năng suất tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng với tất cả các yếu tố đầu vào"; năng suất nhân tố tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng trên tổng số lao động liên quan và các yếu tố đầu vào khác"; năng suất một phần là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng đầu ra với một loại đầu vào".
Lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tổ chức từ ngày 26-27/11
Phân tích một số định nghĩa về năng suất cho thấy, năng suất là mối quan hệ giữa số lượng đầu ra (hàng hóa và dịch vụ được sản xuất) và số lượng đầu vào (bao gồm các nguồn lực như lao động, vật liệu, máy móc và năng lượng) được sử dụng trong sản xuất. Trong định nghĩa "năng suất = hiệu quả x hiệu suất x hiệu năng": hiệu quả là tỷ lệ giữa kết quả đạt được và tổng số nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó; hiệu suất là tỷ lệ giữa thời gian và nguồn lực đã sử dụng để hoàn thành công việc; hiệu năng là tỷ lệ giữa khả năng hoạt động thực tế của hệ thống và khả năng hoạt động trong điều kiện tối ưu nhất.
Qua phân tích một số khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ, và ý kiến về năng suất của một số chuyên gia và tổ chức, ông Tuấn lưu ý, năng suất theo cách tiếp cận mới một cách chung nhất và cơ bản nhất hiện nay nhấn mạnh vào việc giảm lãng phí trong mọi hình thức (giảm lãng phí chứ không phải là giảm đầu vào); năng suất là làm việc thông minh hơn chứ không phải vất vả hơn. Tăng năng suất đồng nghĩa với sự đổi mới, sáng tạo và cải tiến liên tục. Trong thực tế, những cải tiến được tạo ra từ những thay đổi trong thiết kế, sản xuất, giao hàng,… Đây là những thay đổi cần phải có do ảnh hưởng của các yếu tố như công nghệ, quản lý, yêu cầu về sản phẩm và phương pháp làm việc.
PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) là báo cáo viên chính của chương trình
Đạt được năng suất cao hơn là một trong những mục tiêu chính của bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào. Điều này mang lại những lợi ích thiết thực như chi phí sản xuất giảm; tăng lợi thế cạnh tranh; tăng khối lượng bán hàng; lợi nhuận tăng; sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn; sự hài lòng của khách hàng được cải thiện;… Để tăng năng suất và chất lượng cho doanh nghiệo, hàng loạt nội dung về các giải pháp và công cụ đã được đề cập và trao đổi tại lớp tập huấn. Cụ thể như bảy công cụ kiểm soát chất lượng; sản xuất tinh gọn; sáu Sigma; Kaizen; 5S; KPI; một số công cụ đổi mới; phương pháp giải quyết vấn đề sáng tạo; lý thuyết giải quyết các bài toán sáng chế; công thái học trong cải tiến sản phẩm, hệ thống và môi trường làm việc; quản lý dự án; quản lý và cải tiến quy trình; siêu tập trung; trí tuệ nhân tạo; tư duy thiết kế; trí tuệ cảm xúc;...
Trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) là một trong những công nghệ 4.0 có thể cung cấp cho doanh nghiệp những công cụ cần thiết để tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm lãng phí và tăng hiệu quả; tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và nâng cao tính linh hoạt, cải thiện tính minh bạch của chuỗi cung ứng. Bằng cách cung cấp thông tin chi tiết và đề xuất dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực, AI có thể giúp doanh nghiệp cải thiện quá trình ra quyết định, xác định các lĩnh vực cần cải thiện và thực hiện các điều chỉnh để tối ưu hóa quy trình; phát hiện các lỗi trong thời gian thực và thực hiện các điều chỉnh để cải thiện chất lượng sản phẩm. AI cũng có thể được sử dụng để tạo ra những ý tưởng và đổi mới (tạo ra các thiết kế mới hoặc tối ưu hóa các thiết kế hiện có), giúp các sản phẩm và quy trình được cải tiến.
Theo thông tin từ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các lớp tập huấn được tổ chức miễn phí dành cho doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh và tổ chức thử nghiệm hoạt động trên địa bàn Thành phố. Trước đó, 2 lớp tập huấn đã diễn ra là Đánh giá hiệu quả công việc (KPI) và chuyển đổi số (ngày 12-13/11) và Tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn Thành phố (ngày 19-20/11). Sắp tới, lớp tập huấn về "Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" được tổ chức từ ngày 03-04/12.
Lam Vân (CESTI)
“Nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp có số lượng đơn đăng ký nộp nhiều nhất. Tuy nhiên, so với số lượng doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM hiện nay thì con số này vẫn còn thấp…”, đó là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tại Hội nghị tập huấn “Kỹ năng lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu”do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức ngày 14/11/2024 vừa qua.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu tại Hội nghị tập huấn
Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, hiện nay các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến sở hữu trí tuệ, thông qua việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, tham gia các lớp tập huấn sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm, chờ đến khi bán được hàng mới đi đăng ký nhãn hiệu hay thậm chí có những doanh nghiệp tồn tại 5 năm, 10 năm nhưng vẫn chưa đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho đến khi xảy ra tranh chấp nhãn hiệu thì mới bắt đầu tìm hiểu. Hoặc cũng có trường hợp doanh nghiệp đi đăng ký nhưng chỉ để hoàn thiện hồ sơ, phục vụ cho các mục đích khác (quảng cáo, bàn hàng trên trang thương mại điệm tử…). Do đó, Doanh nghiệp cần nhận thức vai trò sở hữu trí tuệ, sử dụng nhãn hiệu (tài sản trí tuệ) của mình để nó trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần ổn định hoạt động sản xuất của kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững… và đó chính là câu chuyện về quản trị tài sản trí tuệ.
Đồng quan điểm với bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung, khi chia sẻ thêm những thông tin liên quan đến các vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ cho rằng, hiện nay doanh nghiệp đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, nhưng không phải tất cả các chủ thể đều nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu thông qua việc đăng ký nhãn hiệu và vẫn có những nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và thương hiệu hay nhãn hiệu và tên thương mại… Điều này rất dễ phát sinh những xung đột quyền giữa tên thương mại, thương hiệu với nhãn hiệu được bảo hộ.
“Về nhãn hiệu đây là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Cũng có nhãn hiệu mang tính chất tập thể và đây là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên, của các tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Bên cạnh đó còn có nhãn hiệu mang tính chất chứng nhận và đây là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ tin cậy, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Căn cứ vào đó nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu đáp ứng thêm được các điều kiện như có dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố nêu trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa và đây cũng là một điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ 2023. Đồng thời, cũng phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”, bà Vũ Thị Phương Giang thông tin.
Bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ nhiều nội dung về cách thức đăng ký nhãn hiệu
Cũng theo bà Vũ Thị Phương Giang, một số dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu như dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế. Hay dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài và dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế cũng như dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ…
“Hiện nay, quy trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu được công khai, các cá nhân, tổ chức nếu có nhu cầu cũng có thể tra cứu thông tin, đăng ký đơn trực tuyến trên cổng thông tin của Cục Sở hữu trí tuệ ở địa chỉ https://www.ipvietnam.gov.vn”, bà Vũ Thị Phương Giang chia sẻ thêm.
Trong khuôn khổ sự kiện, những kiến thức từ buổi tập huấn còn nhanh chóng được vận dụng vào thực hành. Các đại biểu đã được hướng dẫn nhận biết các loại nhãn hiệu, tra cứu thông tin nhằm đánh giá khả năng bảo hộ nhãn hiệu trước khi nộp đơn đăng ký, hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn thực hành lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, xử lý tình huống... Một số doanh nghiệp với mong muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng được các chuyên gia nhiệt tình tư vấn tại Hội nghị tập huấn lần này.
Các cá nhân, tổ chức và đại diện các doanh nghiệp thẳng thắn đặt câu hỏi, trao đổi cùng các chuyên gia tại Hội nghị tập huấn
Ngoài ra, trong Hội nghị “Chương trình thương hiệu quốc gia và các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng phát triển thương hiệu” đã được ông Tạ Mạnh Cường - Trưởng phòng Phòng Phát triển năng lực Cúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương giới thiệu; PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh - Giảng viên cấp cao, trường Đại học Thương mại chia sẻ chuyên đề “Thương hiệu - Tiếp cận tư duy chiến lược” giúp doanh nghiệp tiếp cận thêm thông tin để xây dựng chiến lược, từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường.
Nhật Linh (CESTI)
“Phòng thí nghiệm có hệ thống quản lý chất lượng và bảo đảm năng lực kỹ thuật, có khả năng cung cấp các kết quả tin cậy, chính xác và có giá trị về mặt kỹ thuật”, đó là nhận định của ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng tại lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM. Lớp tập huấn được Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức trong 02 ngày, từ 18 - 19/11/2024 nhằm phổ biến kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, tổ chức về giải pháp nâng cao năng suất chất lượng…
Ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng của lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM chia sẻ nhiều kiến thức mới và kinh nghiệm cho học viên
Theo ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng chia sẻ, trên thế giới hiện nay có nhiều tiêu chuẩn khác nhau liên quan tới chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Một trong những bộ tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến nhất dành cho các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn là ISO/IEC 17025 của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế.
Tiêu chuẩn ISO 17025 là tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý chất lượng (QMS - Quality Management System) dành riêng cho các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn. Tiêu chuẩn này do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO (International Organization for Standardization) kết hợp với Ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế (IEC - International Electrotechnical Commission) xây dựng và ban hành. ISO/IEC 17025 nhằm cung cấp một khuôn khổ cho việc phát triển, thực hiện, giám sát và cải tiến liên tục Hệ thống quản lý chất lượng đối với những tổ chức có các hoạt động thử nghiệm, hiệu chuẩn, lấy mẫu nhằm đảm bảo các kết quả mà phòng thí nghiệm công bố là chính xác và đáng tin cậy.
Bộ tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 ra đời dựa trên nhu cầu về kiểm định năng lực của các phòng thử nghiệm một cách thống nhất trên toàn thế giới. Ban đầu tiêu chuẩn này có tên gọi là ISO/IEC Guide 25 (Tài liệu này được ILAC - Hợp tác Chứng nhận Phòng thí nghiệm Quốc tế, ban hành vào ngày 01/10/1978). ISO Guide 25 không đề cập đến các phòng thí nghiệm hiệu chuẩn mà chỉ đề cập đến các phòng thí nghiệm thử nghiệm. Trong tài liệu có những hướng dẫn chung để các phòng thử nghiệm có thể chứng minh năng lực kỹ thuật của mình. Tuy nhiên, Hướng dẫn vẫn cho phép các cơ quan đánh giá yêu cầu các yêu cầu khác ngoài những yêu cầu đã được nêu trong văn bản Hướng dẫn. Sau này, Tổ chức ISO đã ban hành tiêu chuẩn ISO 17025 để thay thế cho ISO/IEC Guide 25.
Lịch sử của bộ tiêu chuẩn ISO 17025 bắt nguồn từ cuộc họp năm 1975 của tổ chức Hợp tác Công nhận Phòng thí nghiệm Quốc tế (ILAC). Sự kiện đã cho thấy sự cần thiết phải có một hướng dẫn quốc tế về những yêu cầu chung đối với năng lực của các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn.
Bộ tiêu chuẩn ISO 17025 được thể hiện lần đầu tiên dưới dạng hướng dẫn ISO/IEC Guide 25 vào năm 1990. Đến năm 2005 thì bộ tiêu chuẩn này được ra đời phiên bản thứ 2 có bao gồm 5 điều khoản: có yêu cầu quản lý chủ yếu liên quan đến hiệu lực và vận hành hệ thống Quản lý Chất lượng của PTN; Yêu cầu kỹ thuật bao gồm các yếu tố xác định tính chính xác và độ tin cậy của các thử nghiệm và hiệu chuẩn được thực hiện trong phòng thí nghiệm. Phiên bản mới nhất hiện nay của ISO/IEC 17025 được ban hành năm 2017 có 8 điều khoản: Phạm vi áp dụng; Tài liệu viện dẫn; Thuật ngữ và định nghĩa; Yêu cầu chung; Yêu cầu cơ cấu; Yêu cầu nguồn lực; Yêu cầu quá trình; Yêu cầu hệ thống quản lý.
ISO/IEC 17025:2017 là phiên bản mới nhất hiện nay của bộ tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý chất lượng cho phòng thí nghiệm. ISO 17025:2017 được ban hành thay thế cho phiên bản trước đó là ISO 17025:2005. ISO 17025 đưa ra các yêu cầu nhằm xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình thử nghiệm, hiệu chuẩn, lấy mẫu, áp dụng cho mọi quy mô tổ chức. Vì vậy, tất cả các tổ chức cung cấp dịch vụ này đều có thể áp dụng và chứng nhận ISO/IEC 17025. Năm 2018, Việt Nam đã chấp nhận hoàn toàn phiên bản ISO/IEC 17025:2017 và ban hành Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2017 tương đương.
Lớp tập huấn đã thu hút được đông đảo đại diện các đơn vị trên địa bàn TP.HCM tham gia học tập
Nói về sự khác biệt của Tiêu chuẩn ISO 17025:2017 so với các phiên bản cũ, ông Nhan Thanh Liêm cho biết, về quan điểm tiếp cận, hiệu chuẩn cũng như thử nghiệm và phân tích mẫu là các hoạt động hàng ngày của hơn 60.000 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 về “Các yêu cầu chung về năng lực của các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” đã trở thành tài liệu tham khảo Quốc tế quan trọng cho các phòng thí nghiệm muốn chứng minh khả năng cung cấp kết quả đáng tin cậy của họ trên thị trường. Việc đáp ứng các yêu cầu của Tiêu chuẩn này cho phép các phòng thí nghiệm nâng cao khả năng tạo ra các kết quả có giá trị sử dụng ổn định.
Kể từ khi phiên bản ISO/IEC 17025:2005 được ban hành, bối cảnh thị trường và công nghệ đã có sự thay đổi đáng kể, phương pháp tiếp cận quản lý dựa trên tư duy rủi ro đã được đưa vào phiên bản mới ISO 17025:2017. Việc xem xét để sửa đổi, bổ sung và tích hợp những thay đổi trên vào phiên bản mới cho phù hợp là một đòi hỏi khách quan.
Để phản ánh những thay đổi mới nhất của điều kiện khách quan, phiên bản ISO/IEC 17025: 2017 đã bao quát các hoạt động và cách thức làm việc mới của các phòng thí nghiệm hiện nay, bao gồm các thay đổi về kỹ thuật, thuật ngữ và các phát triển về kỹ thuật công nghệ thông tin, đồng thời điều chỉnh để ISO 17025:2017 phù hợp với ISO 9001:2015 về quản lý chất lượng.
Trên cơ sở quan điểm tiếp cận nêu trên, phiên bản ISO 17025:2017 đã có nhiều thay đổi mang tính toàn diện về cả nội dung lẫn bố cục so với phiên bản ISO 17025:2005. Những thay đổi chính được tổng hợp lại bao gồm: Mở rộng phạm vi bao gồm tất cả các hoạt động trong phòng thí nghiệm như lấy mẫu, thử nghiệm, hiệu chuẩn; Điều chỉnh phương pháp tiếp cận theo quá trình để phù hợp với các tiêu chuẩn mới hơn có liên quan như ISO 9001 (quản lý chất lượng), ISO 15189 (chất lượng phòng thí nghiệm y tế) và ISO/IEC 17021-1 (yêu cầu đối với tổ chức đánh giá và chứng nhận hệ thống); Nhấn mạnh vào kết quả của quá trình thay vì mô tả chi tiết các nhiệm vụ và các bước của nó; Tập trung nhiều hơn vào việc áp dụng công nghệ thông tin, kết hợp việc sử dụng hệ thống máy tính, hồ sơ điện tử vào các kết quả, báo cáo dạng điện tử; Bổ sung chương mới giới thiệu khái niệm về tư duy dựa trên rủi ro và mô tả những điểm tương đồng với phiên bản mới ISO 9001:2015; Cập nhật thêm một số thuật ngữ để phu hợp với thế giới ngày nay, bao gồm những thay đổi trong Từ vựng Đo lường Quốc tế (VIM) và sự liên kết với những thay đổi về thuật ngữ của ISO/IEC. Cụ thể, ban hành một tài liệu riêng về những thuật ngữ và định nghĩa chung cho tất cả các tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp, thay đổi trong hoạt động vận hành và quản lý phòng thí nghiệm. Ví dụ như hiện nay các bản cứng của sổ tay, hồ sơ và báo cáo thử nghiệm đang dần bị loại bỏ theo hướng chuyển sang các phiên bản điện tử….
Gợi ý một số bước cơ bản trong quy trình xây dựng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 17025, bao gồm:
Bước 1: Tìm hiểu về tiêu chuẩn ISO 17025 (Nắm vững nội dung, yêu cầu và nguyên tắc của tiêu chuẩn ISO 17025; Hiểu rõ các khái niệm và nguyên tắc chung về quản lý chất lượng).
Bước 2: Xác định phạm vi và mục tiêu của Hệ thống QMS (Xác định rõ ràng phạm vi của Hệ thống QMS bao gồm các quy trình, hoạt động và phòng ban tham gia; Đặt ra các mục tiêu cụ thể mà tổ chức mong muốn đạt được thông qua Hệ thống QMS).
Bước 3: Xây dựng và triển khai Hệ thống QMS (Xây dựng các quy trình, chức năng và phương pháp liên quan đến việc quản lý chất lượng; Phân công trách nhiệm cho các hoạt động và quy trình trong Hệ thống QMS; Triển khai các biện pháp cần thiết để tuân thủ yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 17025).
Bước 4: Đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn ISO 17025 (Xác định các chỉ số và tiêu chí đo lường để kiểm tra mức độ tuân thủ tiêu chuẩn; Thực hiện kiểm tra và đánh giá định kỳ để đảm bảo rằng quy trình và hoạt động đang tuân thủ yêu cầu ISO 17025).
Bước 5: Đào tạo (Đào tạo nhân viên về các yêu cầu và quy trình trong hệ thống quản lý chất lượng; Tạo cơ hội cho việc học hỏi và nâng cao kỹ năng để cải thiện hiệu suất).
Bước 6: Đánh giá và cải thiện liên tục (Thực hiện các cuộc đánh giá nội bộ và ngoại bộ để xác định các điểm mạnh và điểm yếu của Hệ thống QMS; Dựa trên kết quả đánh giá, tiến hành các biện pháp cải thiện liên quan đến quy trình, chất lượng và hiệu suất tổng thể).
Bước 7: Chứng nhận và duy trì hệ thống QMS (Khi hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng đủ yêu cầu tiêu chuẩn, tổ chức có thể xin cấp chứng nhận ISO 17025 từ cơ quan chứng nhận uy tín; Duy trì hệ thống qua việc tiếp tục tuân thủ yêu cầu, kiểm tra và cải thiện liên tục).
Lưu ý: Việc triển khai Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn ISO 17025 là một quá trình phức tạp và đòi hỏi sự cam kết từ các cấp quản lý và nhân viên. Tùy thuộc vào quy mô và ngành nghề của tổ chức, các bước cụ thể có thể thay đổi.
Được biết, lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM là chuỗi chương trình tập huấn được Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức miễn phí nhằm phổ biến kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, tổ chức về giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, giới thiệu các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Qua đó, nâng cao nhận thức và năng lực của các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn TP.HCM, đẩy mạnh hoạt động đánh giá hiệu quả công việc (KPI) và chuyển đổi số tại từng đơn vị. Chuỗi chương trình tập huấn này sẽ còn lại 2 lớp, với chủ đề: Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố; Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố.
Doanh nghiệp, tổ chức quan tâm có thể đăng ký tham dự trực tuyến các lớp tiếp theo tại: https://forms.gle/Z3ydgbSyY9gJG5Bw5.
Nhật Linh (CESTI)
Buổi làm việc nhằm thảo luận về định hướng hợp tác, đồng hành cùng các công ty Khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI. Cũng như, về việc thành lập Trung tâm tính toán AI… Đây là những nội dung nằm trong các nhóm mục tiêu lớn mà Tập đoàn NVIDIA đang hướng đến TP.HCM, điểm đầu tư chiến lược tại khu vực Châu Á.
Sáng ngày 15/11/2024, tại trụ sở của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã diễn ra buổi gặp gỡ và làm việc giữa Sở Khoa học và Công nghệ cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố (Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM, Công ty TNHH MTV Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung…) với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA. Đây là hoạt động nhằm tìm hiểu, thúc đẩy hợp tác và đầu tư của Tập đoàn NVIDIA hướng đến TP.HCM trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI.
Buổi làm việc giữa Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA
Đại diện nhóm chuyên gia cấp cao của Tập đoàn NVIDIA chia sẻ, ngành công nghệ AI là một trong những ngành quan trọng của thế giới bởi sự chi phối đang hiện hữu trong toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống và kinh tế toàn cầu. Việc Tập đoàn NVIDIA tìm hiểu, lựa chọn TP.HCM là điểm đầu tư chiến lược tại khu vực châu Á xuất phát từ thực tế TP.HCM đang có đầy đủ yếu tố để phát triển và làm chủ ngành công nghệ AI.
Hiện, NVIDIA mong muốn cùng TP.HCM xây dựng AI có chủ quyền, đây là AI đề cập đến khả năng của một quốc gia trong việc sản xuất trí tuệ nhân tạo bằng cách sử dụng cơ sở hạ tầng, dữ liệu, lực lượng lao động và mạng lưới kinh doanh của riêng mình.
Các quốc gia từ lâu đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong nước để phát triển nền kinh tế, kiểm soát dữ liệu của riêng họ và tận dụng các cơ hội công nghệ trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, truyền thông, thương mại, giải trí và chăm sóc sức khỏe.
AI, công nghệ quan trọng nhất của thời đại chúng ta, đang thúc đẩy sự đổi mới trong mọi khía cạnh của xã hội. Nó được kỳ vọng sẽ tạo ra hàng nghìn tỷ đô la lợi nhuận kinh tế và tăng năng suất.
Các quốc gia đang đầu tư vào AI có chủ quyền để phát triển và khai thác những lợi ích như vậy cho riêng mình. AI có chủ quyền đề cập đến khả năng của một quốc gia trong việc sản xuất trí tuệ nhân tạo bằng cách sử dụng cơ sở hạ tầng, dữ liệu, lực lượng lao động và mạng lưới kinh doanh của riêng mình.
Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA làm việc tại Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM và chia sẻ về các thành tố quan trọng của AI có chủ quyền
Cũng theo nhóm chuyên gia cấp cao của Tập đoàn NVIDIA, nhu cầu cấp thiết toàn cầu đối với các quốc gia trong việc đầu tư vào năng lực AI có chủ quyền đã tăng lên kể từ khi AI thế hệ xuất hiện, đang định hình lại thị trường, thách thức các mô hình quản trị, truyền cảm hứng cho các ngành công nghiệp mới và chuyển đổi các ngành khác - từ trò chơi đến dược phẩm sinh học. Nó cũng đang viết lại bản chất của công việc, khi mọi người trong nhiều lĩnh vực bắt đầu sử dụng “phi công phụ” do AI hỗ trợ.
AI có chủ quyền bao gồm cả cơ sở hạ tầng vật lý và dữ liệu. Cơ sở hạ tầng sau bao gồm các mô hình nền tảng có chủ quyền, chẳng hạn như các mô hình ngôn ngữ lớn, được phát triển bởi các nhóm địa phương và được đào tạo trên các tập dữ liệu địa phương.
Ví dụ, các mô hình AI nói có thể giúp bảo tồn, thúc đẩy và phục hồi ngôn ngữ bản địa. Và mô hình ngôn ngữ lớn này không chỉ để dạy AI ngôn ngữ của con người, mà còn để viết mã phần mềm, bảo vệ người tiêu dùng khỏi gian lận tài chính, dạy robot các kỹ năng vật lý và nhiều hơn nữa.
Ngoài ra, khi trí tuệ nhân tạo và điện toán tăng tốc ngày càng trở thành công cụ quan trọng để chống biến đổi khí hậu, thúc đẩy hiệu quả năng lượng và bảo vệ chống lại các mối đe doạ an ninh mạng, AI có chủ quyền có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho mọi quốc gia để tăng cường nỗ lực phát triển bền vững.
Hơn hết phải tính đền các “nhà máy AI”, gồm cơ sở hạ tầng mới, thiết yếu cho sản xuất AI, nơi dữ liệu đi vào và trí thông minh đi ra. Đây là các trung tâm dữ liệu thế hệ tiếp theo lưu trữ các nền tảng điện toán tiên tiến, tăng tốc toàn bộ ngăn xếp cho các tác vụ tính toán chuyên sâu nhất.
Các quốc gia đang xây dựng năng lực điện toán trong nước thông qua nhiều mô hình khác nhau. Một số đang mua sắm và vận hành các đám mây AI có chủ quyền hợp tác với các nhà cung cấp hoặc tiện ích viễn thông do nhà nước sở hữu. Những quốc gia khác đang tài trợ cho các đối tác đám mây địa phương để cung cấp nền tảng điện toán AI dùng chung cho khu vực công và tư nhân sử dụng.
Hiện các quốc gia trên thế giới đang đầu tư vào AI có chủ quyền. Kể từ năm 2019, sáng kiến AI Nations của NVIDIA đã giúp các quốc gia trên khắp thế giới xây dựng năng lực AI có chủ quyền, bao gồm cả việc hỗ trợ hệ sinh thái và phát triển lực lượng lao động, tạo điều kiện cho các kỹ sư, nhà phát triển, nhà khoa học, doanh nhân, nhà sáng tạo và quan chức trong khu vực công theo đuổi tham vọng AI của họ tại quốc gia mình ví như: Pháp, Thuỵ Sĩ, Ý, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore...
Lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố làm việc với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA
Trên tinh thần trao đổi cởi mở, thiện chí, hợp tác giữa hai bên, đại diện cho các Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố tham dự buổi làm việc, ông Nguyễn Việt Dũng - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM thống nhất sẽ báo cáo, tham mưu và đề xuất cho Lãnh đạo Thành phố những nội dung quan trọng đối với định hướng hợp tác, đồng hành của Tập đoàn NVIDIA cho các công ty Khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI. Đặc biệt là việc thành lập Trung tâm tính toán AI tại TP.HCM…
“Chúng tôi sẽ tham mưu cho Lãnh đạo Thành phố để đẩy nhanh quá trình hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, đề xuất với NVIDIA tiếp tục ngồi lại với chúng tôi để từ đây cho tới cuối năm 2024, cùng nhau nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch cụ thể hơn về nhu cầu AI của Thành phố. Tiếp đến, về vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng chúng tôi nhận thấy nếu đầu tư dàn trải ở tất cả các đơn vị thì rất lãng phí, do đó sẽ đề xuất với Thành phố trước mắt nên đầu tư một hệ thống dùng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp của nhà nước cũng như tư nhân và cả cộng đồng đều dùng được, nhưng vấn đề về bảo mật thông tin, bảo mật dữ liệu phải được đảm bảo và việc đặt ở đâu hai bên sẽ thống nhất. Riêng, về phía Sở Khoa học và Công nghệ, chúng tôi cũng mong muốn có sự phối hợp của NVIDIA đối với quá trình đào tạo nguồn nhân lực về AI cho hệ sinh thái tại Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo Thành phố và mời NVIDIA cùng tham gia vào không gian làm việc mở của Trung tâm này. Chúng tôi cũng mong muốn được NVIDIA huấn luyện cho các chương trình ươm tạo về AI mà Thành phố đang triển khai và hơn hết là có thể đầu tư vào các nhóm Startup tiềm năng”, ông Nguyễn Việt Dũng chia sẻ.
Được biết, tại buổi làm việc giữa ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM với ông Keith Strier - Phó Chủ tịch Tập đoàn NVIDIA (Hoa Kỳ) vào hồi tháng 4/2024. Chủ tịch UBND Thành phố Phan Văn Mãi cũng đã đề nghị các cơ quan chức năng liên quan cùng với Tập đoàn NVIDIA thành lập ngay tổ công tác để tạo điều kiện thuận lợi cho tập đoàn sớm vào đầu tư tại TPHCM. Tổ công tác này cũng sẽ hoạch định tầm nhìn, định hướng lộ trình, mục tiêu, cơ chế để phát triển công nghệ AI, cũng như tư vấn cho Thành phố những mục tiêu ưu tiên, trọng tâm và lộ trình ứng dụng AI trong hoạt động điều hành, quản lý. Thành phố cam kết phát triển hình thức hợp tác công tư để đẩy nhanh việc xây dựng hạ tầng cho ngành công nghệ AI.
NVIDIA là tập đoàn đa quốc gia của Mỹ có trụ sở chính tại Santa Clara, California chuyên về lĩnh vực công nghệ. Lĩnh vực chính của NVIDIA là phát triển bộ xử lý đồ họa (GPU) cho thị trường gaming và đồ họa chuyên nghiệp.
Ngoài sản xuất GPU, NVIDIA còn cung cấp một giao diện lập trình ứng dụng (API) được gọi là CUDA nhằm mục đích giúp các nhà khoa học, lập trình viên tận dụng khả năng tính toán song song của GPU để tăng tốc độ thực hiện các tác vụ như xử lý hình ảnh, video, phân tích và tính toán các thuật toán cũng như tác vụ AI, machine learning (máy học).
Cũng vào hồi đầu năm nay 29/02, sau hơn 09 tháng thương thảo với NVIDIA, trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã chính thức nhập về siêu máy chủ AI NVIDIA DGX A100 nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu, phát triển các ứng dụng, thuật toán AI.
Thêm vào đó, NVIDIA còn tham gia sản xuất bộ xử lý di động Tegra cho điện thoại thông minh, máy chơi game, máy tính bảng cũng như hệ thống định vị và giải trí trên xe.
Nhật Linh (CESTI)