SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngày 3/11/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã có buổi làm việc trực tuyến với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An.

Tại buổi làm việc, phía Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An cho biết trong thời gian vừa qua, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp ở tỉnh này từng bước được hình thành và phát triển. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An mong muốn Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM hỗ trợ giới thiệu chuyên gia hỗ trợ thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, đồng thời phối hợp tổ chức và tham gia các sự kiện từ hai phía. Phía Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An cũng đề nghị Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM hỗ trợ xây dựng diễn đàn trao đổi về công nghệ, thiết bị nhằm hỗ trợ tư vấn cho các doanh nghiệp Nghệ An tìm kiếm, tiếp cận công nghệ mới, công nghệ cao trên các lĩnh vực: nông nghiệp, du lịch, dịch vụ, giao thông thông minh, xây dựng thông minh, chuyển đổi số, công nghệ giáo dục...

Phía Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã trao đổi thông tin về mô hình và vận hành Sàn giao dịch công nghệ thành phố. Theo đó, hai bên thống nhất sẽ phối hợp tìm hiểu cụ thể điều kiện tại Nghệ An để gắn nghiên cứu khoa học sát với vấn đề thực tiễn địa phương, cũng như điều kiện thực nghiệm của đơn vị, tổ chức nhận triển khai. Sàn giao dịch công nghệ TP.HCM cũng sẵn sàng chia sẻ chuyên gia, nền tảng cấu trúc và kết nối dữ liệu các sản phẩm, giải pháp khoa học và công nghệ có tiềm năng thương mại hóa và chuyển giao giữa 2 địa phương. Hai bên sẽ trao đổi cụ thể hơn nhằm nắm bắt nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An như công nghệ chế biến sau thu hoạch sản phẩm, phát triển hệ thống kênh tiêu thụ nông sản, chuyển giao mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.

nghean.jpg

Theo đề nghị từ phía Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An, hai bên sẽ hợp tác tổ chức các sự kiện như ngày hội khởi nghiệp, các cuộc thi khởi nghiệp, triển khai dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư. Phía Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng sẽ chia sẻ thêm kinh nghiệm xây dựng chính sách hỗ trợ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại Nghệ An, xây dựng các chương trình hỗ trợ ươm tạo cho các cơ sở ươm tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp, hình thành không gian khởi nghiệp và chia sẻ kinh nghiệm hợp tác quốc tế.

Dịp này, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM gửi lời mời Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An tham dự Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia và Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2023 (TECHFEST-WHISE 2023). Đây là sự kiện lớn nhất trong năm về lĩnh vực đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và khởi nghiệp của Thành phố. Trong đó, Triển lãm Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp với chủ đề “Phát huy tài nguyên đất nước – Nâng tầm Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam hội nhập quốc tế” diễn ra trong 2 ngày 24-25/11/2023 là điểm nhấn khi đồng thời có hàng loạt sự kiện nổi bật của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp TP. HCM.

Hoàng Kim (CESTI)

Giải pháp được kỳ vọng nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong việc theo dõi, đánh giá hiện trạng của việc lấy ý kiến văn bản liên đơn vị. Đồng thời, nâng cao sự hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm trong việc soạn thảo, lấy ý kiến, tổng hợp và hoàn thiện văn bản dự thảo.

Ngày 31/10/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông tổ chức sự kiện Kết nối sáng tạo kỳ 2 tháng 10 với chủ đề “Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp Blockchain trong công tác quản lý nhà nước”. Chương trình thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công (Inno-Coffee) nhằm kết nối chia sẻ khó khăn trong khu vực công và tạo điều kiện các doanh nghiệp, startup đưa ra những sáng kiến giải quyết vấn đề đóng góp cho sự phát triển của Thành phố.

Blockchain2.jpg

Tại sự kiện, đại diện Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM đã trình bày bài toán đặt hàng “Nghiên cứu ứng dụng giải pháp Blockchain trong xây dựng nền tảng tổng hợp, thu thập và quản lý góp ý văn bản”.

Cụ thể, Thành phố có nhu cầu rất lớn trong hoạt động tổng hợp, thu thập và quản lý lấy ý kiến văn bản, đó là việc lấy ý kiến từ các cơ quan nhà nước (về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, lấy ý kiến về kết quả thi đua khen thưởng…), lấy ý kiến người dân - doanh nghiệp. Do chưa có nền tảng phục vụ tổng hợp, thu thập, quản lý lấy ý kiến văn bản nên việc thực hiện chủ yếu là bằng văn bản, email hoặc cổng thông tin điện tử. Vì thế, việc tổng hợp, tiếp thu các ý kiến đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực của người thực hiện, có khả năng dẫn tới thất lạc văn bản trong quá trình gửi - nhận và khó quản lý trong việc lưu trữ, tra cứu thông tin trong tương lai, có thể thiếu tính minh bạch thông tin, thời gian xử lý kéo dài, phức tạp.

Hiện nay, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới triển khai dự án Blockchain trong hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển chính phủ điện tử, mang đến nhiều lợi ích trong việc quản lý dữ liệu và phân tích thông tin. Đại diện Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM nêu nhu cầu cần có một phần mềm hỗ trợ tổng hợp, thu thập, quản lý lấy ý kiến văn bản, hoạt động trên đa nền tảng, đa thiết bị và ứng dụng công nghệ Blockchain. Yêu cầu chi tiết là toàn bộ thông tin đã được ghi nhận vào các khối thì không ai có thể thay đổi hay làm giả mạo, đơn vị lấy ý kiến góp ý có thể dễ dàng tra cứu tình trạng đóng góp ý kiến một cách minh bạch, nhanh chóng và tin cậy. Qua đó, phần mềm quản lý quá trình lấy ý kiến góp ý văn bản dự thảo thông qua ứng dụng cấp phát, quản lý và xác minh chứng nhận số trên nền tảng Blockchain, góp phần nâng cao hiệu quả của quy trình lấy ý kiến, tổng hợp và hoàn thiện văn bản dự thảo, giúp giảm thiểu công sức trong quá trình ghi nhận, tổng hợp ý kiến góp ý và tăng độ chính xác khi xác minh thông tin lấy ý kiến của mỗi văn bản.

Cũng tại sự kiện, ông Trần Huyền Dinh (Chủ nhiệm Ủy ban Ứng dụng Fintech, Hiệp hội Blockchain Việt Nam) đã báo cáo tham luận “Ứng dụng giải pháp Blockchain trong xây dựng nền tảng tổng hợp, thu thập và quản lý góp ý văn bản”. Tiếp đó, ông Đỗ Văn Long (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Vietnam Blockchain) trình bày nội dung “Ứng dụng công nghệ Blockchain trong định danh số và quản lý nhà nước”. Các báo cáo viên đã cùng chia sẻ tình hình ứng dụng blockchain vào quản lý công của thế giới, kinh nghiệm triển khai những dự án tiêu biểu ở Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị.

Blockchain1.jpg

Thông qua việc công bố thông tin đặt hàng “Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp Blockchain trong công tác quản lý nhà nước”, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM và Sở Thông tin và Truyền thông mong muốn các nhà khoa học, chuyên gia và cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể đề xuất các giải pháp phù hợp với thời gian thực hiện, triển khai trong thời gian 6 tháng.

Hoàng Kim (CESTI)

Trong thời gian qua, nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tự đánh mất nhãn hiệu, chưa biết cách sử dụng, quản lý nhãn hiệu sau đăng ký bảo hộ. Nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp về đăng ký bảo hộ, quản lý, khai thác, phát triển nhãn hiệu tại thị trường Việt Nam cũng như quốc tế. Qua đó, giúp doanh nghiệp sử dụng và sở hữu trí tuệ như một công cụ hỗ trợ phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh bền vững.

Ngày 27/10/2023, tại Hội trường Sài Gòn Innovation Hub, 273 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM đã diễn ra Hội thảo “Thực tiễn đăng ký bảo hộ và quản trị nhãn hiệu tại doanh nghiệp”. Hội thảo do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức nhằm chia sẻ kinh nghiệm thông qua câu chuyện của doanh nghiệp và những phân tích, ý kiến của chuyên gia đến cộng đồng với kỳ vọng nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ và quản trị nhãn hiệu trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Khách mời của Hội thảo là 2 chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: Ông Võ Hưng Sơn - Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ Cơ sở, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM và bà Nguyễn Thị Thanh Trúc - Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển thương hiệu Điểm tựa vàng; đại diện doanh nghiệp chia sẻ câu chuyện là bà Nguyễn Thị Hiền - Giám đốc Công ty cổ phần Viet Tiles; đại diện Ban tổ chức có bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng hơn 100 đại biểu là đại diện của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tới từ Hội doanh nghiệp, Hội liên hiệp phụ nữ và các doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM cùng tham dự.

31102023hq.jpg

Hơn 100 đại biểu cùng tham dự Hội thảo

Phát biểu khai mạc Hội thảo, bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và có số lượng đơn đăng ký bảo hộ rất lớn. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung về số lượng các doanh nghiệp trên địa bàn cả nước hiện nay thì con số này vẫn còn rất thấp.

“Trên thực tiễn năm 2022 chúng tôi nhận thấy, các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến vấn đề sở hữu trí tuệ, có nhiều doanh nghiệp cũng đã chú trọng đi đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng đến vấn đề này, phải chờ đến khi doanh nghiệp bán hàng được rồi mới đi đăng ký nhãn hiệu hay thậm chí có những doanh nghiệp tồn tại 5 năm, 10 năm nhưng vẫn chưa có đăng ký, phải cho đến khi xảy ra vấn đề về tranh chấp nhãn hiệu thì mới bắt đầu quan tâm, tìm hiểu hoặc cũng có doanh nghiệp đi đăng ký nhưng chỉ là đề phục vụ hoàn thiện hồ sơ ở các Sở ban ngành khác và đăng ký rồi, có rồi cũng bỏ tủ chứ không thật sự chú trọng đến việc sử dụng nhãn hiệu của mình làm sao để nó trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần giữ ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thúc đẩy doanh nghiệp phát triển hơn, bền vững hơn… và đó chính là câu chuyện về quản trị tài sản sở hữu trí tuệ. Do đó, thông qua Hội thảo này, chúng tôi mong muốn sẽ truyền một thông điệp tới quý doanh nghiệp và cộng đồng là hãy thật sự chú tâm tới tài sản sở hữu trí tuệ vì nó rất là quan trọng. Hiện nay, chúng tôi cũng đang tiếp tục triển khai kế hoạch nhằm thúc đẩy phát triển và hình thành nguồn nhân lực về quản trị tài sản sở hữu trí tuệ trên địa bàn TP.HCM và đây cũng là chương trình với kỳ vọng sẽ nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong câu chuyện này”, bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung bộc bạch.

31102023hq1.jpg

Bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Hội thảo

Cũng tại Hội thảo, ông Võ Hưng Sơn - Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ Cơ sở, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã có phần giới thiệu những quy định về hướng dẫn thủ tục đăng ký cũng như các biện pháp bản vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nước.

Theo ông Võ Hưng Sơn, hiện nay các doanh nghiệp đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh khác, nhưng không phải tất cả các chủ thể đều nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu thông qua việc đăng ký nhãn hiệu và vẫn có những nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và thương hiệu, nhãn hiệu và tên thương mại… điều này rất dễ phát sinh những xung đột quyền giữa tên thương mại, thương hiệu với nhãn hiệu được bảo hộ.

“Về nhãn hiệu đây là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Cũng có nhãn hiệu mang tính chất tập thể và đây là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên, của các tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Bên cạnh đó còn có nhãn hiệu mang tính chất chứng nhận và đây là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ tin cậy, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Căn cứ vào đó nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu đáp ứng thêm được các điều kiện như có dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố nêu trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa và đây cũng là một điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ 2023. Đồng thời, cũng phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”, ông Võ Hưng Sơn thông tin.

31102023ha2.jpg

Ông Võ Hưng Sơn chia sẻ nhiều thông tin về nhãn hiệu và vấn đề sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu

Cũng theo ông Võ Hưng Sơn, doanh nghiệp khi có nhu cầu đăng ký nhãn hiệu cần chuẩn bị các tài liệu sau đây, trước khi nộp đơn: (1) Mẫu nhãn hiệu được in trên giấy, kích thước không quá 8cm x 8cm, số lượng 7 mẫu, trong đó 2 mẫu dán vào 2 tờ khai và 5 mẫu nộp theo đơn đăng ký; (2) Danh mục: sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu, ví dụ sản phẩm như quần, áo, giày, dép, dược phẩm, trái cây tươi ... hay dịch vụ như dịch vụ lưu trú (khách sạn), dịch vụ mua bán, dịch vụ nhà hàng ăn uống… Khi nộp đơn đăng ký phải có tờ khai đăng ký nhãn hiệu kèm theo danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu lấy từ website www.ipvietnam.gov.vn; Mẫu nhãn hiệu; Chứng từ nộp phí, lệ phí. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, với cùng 1 nhãn hiệu nếu có 2 đơn khác ngày ưu tiên cấp cho đơn có ngày ưu tiên sớm hơn còn cùng 1 nhãn hiệu, nếu có 2 đơn cùng ngày ưu tiên, các bên thỏa thuận nộp chung để cùng là đồng sở hữu hoặc bị từ chối.

“Một số dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu như dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế; Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài; Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế; Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ; Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng…”, ông Võ Hưng Sơn chia sẻ.

Tại Hội thảo bà Nguyễn Thị Thanh Trúc - Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển thương hiệu Điểm tựa vàng đã giới thiệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm liên quan đến cách thức và những lưu ý trong đăng ký bảo hộ nhãn hiệu quốc tế và quản trị nhãn hiệu tại thị trường quốc tế.

Cụ thể, đối với vấn đề đăng ký nhãn hiệu quốc tế thường được hiểu là khi tiến hành thủ tục đăng ký nhãn hiệu vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia mà chủ đơn sinh sống. Xét tại lãnh thổ Việt Nam thì có 2 trường hợp: Người Việt Nam đăng ký ra bất kỳ 1 quốc gia nào trên thế giới; Bất kỳ 1 chủ thể quốc gia nào đó trên thế giới nộp đơn đăng ký vào Việt Nam.

Thủ tục đăng ký nhãn hiệu quốc tế có 2 cách: (1) Nộp trực tiếp, nộp hồ sơ vào từng cơ quan sở hữu trí tuệ của từng quốc gia; chịu sự điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ tại từng quốc gia đó và hiện thế giới có hơn 193 quốc gia. (2) Nộp đơn thông quan Wipo, nộp 1 đơn vào Wipo và chỉ định các quốc gia cần được bảo hộ; chịu sự điều chỉnh của 2 hệ thống Luật Sở hữu trí tuệ (riêng của từng quốc gia và chung của Wipo www.wipo.int gồm Nghị định thư Madrid và thỏa ước Madrid), hiện nay có 114 thành viên bao gồm các quốc gia và tổ chức.

31102023hq4.jpg

Bà Nguyễn Thị Thanh Trúc - Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển thương hiệu Điểm tựa vàng chia sẻ tại Hội thảo

“Khi doanh nghiệp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu quốc tế và quản trị nhãn hiệu tại thị trường quốc tế tốt thì sẽ khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo và định hướng nghiên cứu để tránh lãng phí, không những thế nó sẽ thúc đẩy được sự phát triển bền vững của doanh nghiệp… Do đó, doanh nghiệp cần tra cứu thông tin và đăng ký các đối tượng sở hữu trí tuệ trước khi đưa ra thị trường; Gốc rễ của năng lực cạnh tranh là chất lượng sản phẩm, dịch vụ và uy tín của doanh nghiệp; Bản chất của xây dựng các tài sản trí tuệ là hướng đến sự xác nhận của người tiêu dùng và đối tác; Nên kết hợp quyền sở hữu trí tuệ trong cùng một sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh; Cần bền bỉ và lâu dài trong quảng bá, truyền thông, xây dựng và phát triển thương hiệu và càng cũ càng có giá”, bà Nguyễn Thị Thanh Trúc nhận định.

Cũng tại Hội thảo bà Nguyễn Thị Hiền - Giám đốc Công ty cổ phần Viet Tiles đã chia sẻ câu chuyện thực tế của doanh nghiệp về những khó khăn, về việc bảo hộ nhãn hiệu và quá trình giành lại nhãn hiệu cũng như quản trị tài sản trí tuệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Công ty cổ phần Viet Tiles, là nhà cung cấp gạch bông sản xuất bằng phương pháp truyền thống thủ công với những nguyên liệu xanh thân thiện với môi trường, sản phẩm được xuất khẩu trên 40 quốc gia. Tuy nhiên, công ty đã từng gặp khó khăn trong việc đăng ký nhãn hiệu và nguy cơ đánh mất nhãn hiệu”, bà Nguyễn Thị Hiền chia sẻ.

31102023HA5.jpg

Bà Nguyễn Thị Hiền - Giám đốc Công ty cổ phần Viet Tiles chia sẻ tại Hội thảo

Theo bà Nguyễn Thị Hiền, cuối năm 2014 công ty của bà đã nộp đơn đăng ký để được bảo hộ nhãn hiệu, tuy nhiện Cục Sở hữu trí tuệ từ chối vì nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn với 3 nhãn hiệu khác. Công ty cũng đã nộp đơn yêu cầu hủy văn bằng đối với các nhãn hiệu được xem là đối chứng nhưng tới nay vẫn chưa nhận được phản hồi vì phải chờ các đối chứng trên không tiếp tục đăng ký.

“Đây là kinh nghiệm xương máu của riêng bản thân mình cũng như của công ty. Nếu ngay từ những ngày đầu thành lập năm 2013 công ty thực sự quan tâm đến vấn đề bảo hộ thì đã không bị các đối thủ cạnh tranh chiếm mất quyền bằng việc mua tên miền với tên tương tự nhãn hiệu công ty là VIETTILES và VIETTILE. Hiện nay, để khắc phục một phần vấn đề này chúng tôi cũng đang hướng tới phát triển thương hiệu thị trường quốc tế như đăng ký thành công nhãn hiệu tại Malaysia, đang trong quá trình xem xét và chờ cấp đăng ký tại Cambodia và đang hoàn thiện đơn đăng ký tại Korea hay cũng đã đăng ký 6 kiểu dáng công nghiệp để bảo hộ tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp dưới hình thức kiểu dáng công nghiệp của công ty. Cho nên thật sự cũng hy vọng các anh chị, doanh nghiệp phải quan tâm hơn không chỉ là chất lượng sản phẩm, dịch vụ và nội tại của doanh nghiệp mà còn là các quyền và nghĩa vụ của chúng ta nếu hiểu đủ, đúng và thực hiện nghiêm túc”, bà Nguyễn Thị Hiền ngậm ngùi nói.

31102023HA7.jpg

Đại diện các doanh nghiệp đặt câu hỏi, trao đổi cùng các chuyên gia tại Hội thảo

Được biết, trong tháng 11 tới đây, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ phối hợp cùng với Cục Sở hữu trí tuệ tổ chức hội nghị tuyên truyền và tập huấn về những điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ vừa mới được ban hành trong năm nay. 

Nhật Linh (CESTI)

Tại lớp tập huấn, giảng viên sẽ giới thiệu Bộ chỉ số đánh giá quản lý chất lượng tổng thể cho chính quyền địa phương theo Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 (gồm 39 chỉ số đánh giá), và lộ trình áp dụng Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 tại chính quyền địa phương (dự kiến).

Thực hiện kế hoạch số 2103/KH-UBND ngày 19/5 năm 2023 của UBND TP.HCM về triển khai Đề án nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác cải cách hành chính ở các Sở - ngành, UBND các cấp trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2022-2025, Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức 12 lớp tập huấn về Công cụ quản lý năng suất chất lượng 5S và Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 – Hướng dẫn áp dụng TCVN ISO 9001 tại chính quyền địa phương cho các cơ quan trên địa bàn Thành phố.

Đối tượng tập huấn là công chức thuộc Sở, ban, ngành, UBND quận, huyện, thành phố Thủ Đức và UBND phường, xã, thị trấn.

Mục tiêu tập huấn là giúp đội ngũ cán bộ, công chức hiểu cơ bản về khái niệm, lợi ích và các bước thực hiện công cụ 5S tại các cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời, hiểu cơ bản về Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020, vai trò và lợi ích khi áp dụng tại chính quyền địa phương, cũng như nắm bắt được sự khác biệt, điểm mới giữa Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 và TCVN ISO 9001:2015.

tieuchuandoluong2.jpg

Trong năm 2023, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thường xuyên tổ chức hội thảo, hội nghị tuyên truyền phổ biến thông tin đến doanh nghiệp

Các nội dung tập huấn chú trọng tình hình áp dụng, duy trì hệ thống quản lý chất lượng và tính cần thiết trong việc áp dụng Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 tại chính quyền địa phương. Tại lớp tập huấn, giảng viên cũng sẽ giới thiệu Bộ chỉ số đánh giá quản lý chất lượng tổng thể cho chính quyền địa phương theo Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 (gồm 39 chỉ số đánh giá), và lộ trình áp dụng Tiêu chuẩn TCVN ISO 18091:2020 tại chính quyền địa phương (dự kiến).

Các lớp sẽ diễn ra từ ngày 7/11 đến 13/12/2023, tại Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – 263 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM. Giảng viên đứng lớp là nhân sự thuộc Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.

Theo đó, UBND quận, huyện, thành phố Thủ Đức sẽ gửi danh sách đăng ký tham dự về Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Thông tin chi tiết liên hệ: Chị Kim Ngọc (Phòng Quản lý Năng suất chất lượng, Điện thoại: 0934035484, Email: vtkngoc.skhcn@tphcm.gov.vn).

Hoàng Kim (CESTI)

Để có được sự bứt phá này, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã đề xuất với UBND Thành phố mức chi cao hơn để dành riêng cho các đơn vị muốn trở thành trung tâm nghiên cứu mạnh, xuất sắc theo chuẩn quốc tế và trong tháng 11 tới đây sẽ trình Hội đồng Nhân dân Thành phố thông qua… Quy chế mới (Quy chế 35) theo Quyết định số 35/2023/QĐ-UBND ký ngày 21/8/2023 của Uỷ ban nhân dân Thành phố về ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM đã được ban hành và đây cũng là sự kỳ vọng của Thành phố đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học vì nhiều quy định mới của Quy chế 35 khắc phục, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của Quy chế 48 cũ như về chi ngân sách, về tiền thù lao cho nhà khoa học, về tư vấn và đánh giá của Hội đồng, về yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ…

Đó là chia sẻ của TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tại Hội nghị công bố và hướng dẫn triển khai thực hiện “Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM” vừa được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức vào chiều ngày 27/10/2023, tại Trung tâm Hội nghị 272 Võ Thị Sáu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM nhằm phổ biến thông tin đồng thời hướng dẫn các tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện Quy chế nêu trên.

30102023qc.jpg

Hội nghị đã thu hút được hơn 300 đại diện tới từ các trường, viện, tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM cùng tham dự

Thông tin thêm tại Hội nghị, TS. Nguyễn Việt Dũng chia sẻ, trước đây TP.HCM có Quy chế 48 - cũng là Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước Thành phố trên địa bàn TP.HCM nhưng sau hơn 5 năm thực hiện thì Quy chế này cũng đã phát sinh một số vấn đề bất cập. Do đó, trong thời gian vừa qua được sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố, Sở Khoa học và Công nghệ đã lấy ý chuyên gia, các đơn vị liên quan để tham mưu cũng như triển khai đánh giá lại nhằm khắc phục những bất cập của Quy chế này. Trên tinh thần đó Quy chế mới - Quy chế 35 ra đời cùng với đó là một số thay đổi cơ bản, được kỳ vọng sẽ tạo bức phá cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ nói riêng cũng như hiện thực hóa quá trình thương mại hóa các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới phục vụ cho cuộc sống nói chung thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM và cả nước.

Ngoài việc, phổ biến thông tin và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện Quy chế nêu trên thì Sở Khoa học và Công nghệ cũng sẽ hướng dẫn cơ chế tài chính mới theo Thông tư số 03/2023/TT-BTC quy định về việc lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (Thông tư 03) được Bộ Tài chính ký ban hành vào ngày 10/01/2023, thay thế cho Thông tư liên tịch số 55/2015/TT/BTC-BKHCN; Và Thông tư 02/2023/TT-BKHCN hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước được Bộ Khoa học và Công nghệ ký ban hành vào ngày 08/5/2023.

“Ủy ban nhân dân Thành phố ưu tiên các nghiên cứu giải quyết các vấn đề của địa phương, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đối với các công nghệ mang tính đột phá so với sản phẩm cùng loại trên thị trường cũng như sản phẩm có tiềm năng phát triển trong tương lai sẽ được xem xét hỗ trợ 100% kinh phí. Đối với nhà khoa học mức chi thù lao nghiên cứu cũng đã tăng rất nhiều so với trước và để đảm bảo tiến độ đề tài, tính chuyên nghiệp trong quá trình nghiên cứu thì phải thực hiện định kỳ báo cáo 3 tháng một lần thay vì 6 tháng như quy định cũ. Ngoài ra hiện nay, xu hướng của các nghiên cứu là hợp tác công tư, huy động nguồn lực xã hội tham gia, nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ một phần… Do đó, khi tham gia đề tài, nhà khoa học, nhóm nghiên cứu nếu có đối tác là doanh nghiệp đầu tư sẽ giúp tăng độ tin cậy của nghiên cứu với Hội đồng thẩm định và chắc chắn riêng cá nhân tôi tin rằng, nghiên cứu đó sẽ có khả năng ứng dụng tốt và tiềm năng thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu tốt hơn”, TS. Nguyễn Việt Dũng nhận định.

30102023qc1.jpg

TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Hội nghị

Cũng tại Hội nghị, TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã có phần báo cáo tham luận thông tin về nội dung và hướng dẫn triển khai thực hiện “Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM”, theo đó, Quyết định số 35/2023/QĐ-UBND ngày 21/8/2023 của Uỷ ban nhân dân Thành phố về ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM (Quy chế 35) có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký, bao gồm 6 chương và 28 điều. Đây là Quyết định thay thế cho Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 24/11/2016 về việc ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ trên địa bàn TP.HCM và Quyết định số 42/2018/QĐ-UBND ngày 07/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ trên địa bàn TP.HCM ban hành kèm theo Quyết định 48/2016 ngày 24/11/2016 của Uỷ ban nhân dân Thành phố. Riêng các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên địa bàn TP.HCM đã được cấp có thẩm quyền duyệt nhiệm vụ trước ngày Quyết định số 35/2023/QĐ-UBND có hiệu lực thì tiếp tục áp dụng theo Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND và Quyết định số 42/2018/QĐ-UBND cho đến khi kết thúc thời gian thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hợp đồng đã được phê duyệt.

Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quy chế 35 quy định việc quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM cũng như áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân quản lý, thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.

30102023QC2.jpg

TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM trình bày phần tham luận tại Hội nghị

Theo TS. Lê Thanh Minh, Quy chế 35 bao gồm 6 chương và 28 điều, tuy nhiên sẽ có một số nội dung cần lưu ý như sau: Yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ; Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ; Tổ thẩm định kinh phí thực hiện nhiệm vụ; Tổ chức quản lý nhiệm vụ; Tổ chức thực hiện; Nguyên tắc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ; Giao trực tiếp đơn vị sự nghiệp công lập khoa học và công nghệ của Thành phố thực hiện nhiệm vụ.

Cụ thể, yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ theo Quy chế 35 thì nhiệm vụ chỉ có 01 chủ nhiệm nhiệm vụ. Trong đó, điều kiện đối với tổ chức đăng ký chủ trì đã bổ sung một số trường hợp tổ chức không đủ điều kiện tham gia tuyển chọn như có sai phạm dẫn đến bị đình chỉ thực hiện nhiệm vụ sẽ không được đăng ký tham gia tuyển chọn, giao trực tiếp trong thời gian 01 năm kể từ khi có quyết định đình chỉ của Sở Khoa học và Công nghệ hay như vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ. Còn điều kiện đối với cá nhân đăng ký chủ nhiệm thì không quy định số lượng nhiệm vụ do cá nhân chủ trì và nếu cá nhân có vi phạm dẫn đến bị đình chỉ thực hiện nhiệm vụ do mình làm chủ nhiệm trong thời gian 03 năm kể từ khi có quyết định của Sở Khoa học và Công nghệ thì cũng không đủ điều kiện tham gia tuyển chọn.

Đối với Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ thì Quy chế 35 cũng nêu rõ Hội đồng gồm có 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch (nếu cần), 02 thành viên là ủy viên phản biện, 01 ủy viên thư ký khoa học và các thành viên khác. Số lượng các thành viên trong Hội đồng từ 05 đến 09 thành viên. Các ủy viên phản biện của Hội đồng công tác tại các tổ chức khác nhau.

Đối với Tổ thẩm định kinh phí thực hiện nhiệm vụ đây được xem là một điểm mới so với Quy chế 48 cũ, cụ thể theo Quy chế 35 quy định Tổ thẩm định có từ 03 đến 05 thành viên và ít nhất phải có 01 thành viên có chuyên môn thuộc lĩnh vực tài chính. Nhiệm vụ của Tổ này là đánh giá sự phù hợp của dự toán kinh phí đối với các nội dung nghiên cứu của nhiệm vụ; đánh giá khả năng đối ứng vốn ngoài ngân sách nhà nước; kiến nghị tổng mức kinh phí thực hiện tỷ lệ sở hữu các kết quả nghiên cứu theo quy định; Phương án xử lý tài sản.

“Trước đây, theo Quy chế 48 trường hợp nhiệm vụ có thời gian thực hiện dưới 12 tháng hoặc kinh phí dưới 150 triệu đồng sẽ không cần thực hiện giám định, tuy nhiên Quy chế 35 sẽ có Tổ thẩm định kinh phí cho các nhiệm vụ. Riêng về nguyên tắc cấp kinh phí, quy định cấp tối đa đến 100% tổng kinh phí cho các nhiệm vụ thuộc danh mục nhiệm vụ theo thông báo của Sở Khoa học và Công nghệ hoặc nhiệm vụ được xét giao trực tiếp. Các nhiệm vụ khác được Hội đồng đánh giá đạt từ 80/100 điểm trở lên và có sản phẩm phục vụ cho khu vực công, cộng đồng người dân cũng như nhóm doanh nghiệp TP.HCM hay sản phẩm mang tính đột phá với sản phẩm cùng loại hiện có trên thị trường hoặc sản phẩm có tiềm năng phát triển trong tương lai”, TS. Lê Thanh Minh chia sẻ thêm.

30102023QC3.jpg

Ông Trần Hữu Chương - Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Kế hoạch tài chính, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM giới thiệu và hướng dẫn việc lập dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM

Theo ông Trần Hữu Chương - Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Kế hoạch tài chính, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cho biết, các nhiệm vụ do Thành phố đặt hàng theo quy định và những dự án sản xuất thử nghiệm được hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước thì sẽ được cấp toàn bộ kinh phí.

“Những nhiệm vụ không thuộc quy định tại danh mục nêu trên thì được xem xét cấp một phần kinh phí thực hiện nhưng không quá 1 tỷ đồng đối với lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, không quá 500 triệu đồng đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đối với trường hợp đặc biệt sẽ do Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định. Về dự toán thuê chuyên gia dựa trên sự cần thiết, nội dung yêu cầu công việc thuê, kết quả của việc thuê, tiêu chí đánh giá kết quả thuê chuyên gia với mức từ 15-40 triệu đồng/tháng”, ông Trần Hữu Chương nói.

Cũng theo ông Trần Hữu Chương, một số điểm mới về kinh phí trong công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ như tăng mức chi cho Hội đồng, Tổ thẩm định thêm 30%-50% so với mức chi cũ quy định tại Thông tư 55 và bổ sung thêm nội dung chi thù lao, công tác phí của chuyên gia xử lý các vấn đề kỹ thuật hỗ trợ cho hoạt động của Hội đồng. Quy định mới cũng bổ sung thêm nội dung chi kiểm tra, đánh giá sau khi giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu hoặc họp Hội đồng đánh giá trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

30102023qc6.jpg

TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý khoa học và ông Trần Hữu Chương - Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Kế hoạch tài chính chủ trì phần trao đổi, hỏi đáp tại Hội nghị

30102023QC4.jpg

Các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các viện trường, trung tâm nghiên cứu, các tổ chức khoa học công nghệ và doanh nghiệp cùng trao đổi, đặt câu hỏi với tinh thần cởi mở, tích cực tại Hội nghị

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, trường viện, trung tâm nghiên cứu, tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM cho rằng, các quy định mới hiện đã thuận lợi hơn cho các đơn vị và được kỳ vọng sẽ tạo động lực để đẩy mạnh hoạt động phát triển khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, còn tạo điều kiện để các Sở ban ngành, quận huyện đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ nhằm giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội tại TP.HCM.

30102023QC5.jpg

Lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng đại diện các phòng chuyên môn thuộc Sở chụp hình lưu niệm với các chuyên gia, nhà khoa học tới từ các trường, viện, tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM

Nhật Linh (CESTI)

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng chủ đạo và tất yếu của ngành nông nghiệp Thành phố, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ phát triển đô thị theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, giá trị gia tăng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường.

Ngày 24/10/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Sự kiện Kết nối sáng tạo tháng 10 chủ đề “Ứng dụng công nghệ sinh học chọn tạo giống trong nông nghiệp (Trồng trọt, Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản)”. Sự kiện nhằm công bố thông tin rộng rãi đến cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, với mong muốn tìm kiếm các giải pháp ứng dụng trong việc chọn tạo giống phát triển ngành nông nghiệp Thành phố. Từ đó, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu, sản xuất giống, nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ giống chất lượng cao, góp phần thực hiện thành công định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2020 - 2030.

Phát biểu khai mạc sự kiện, ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết, hiện nay Thành phố đang kỳ vọng nâng cao năng lực nghiên cứu công nghệ sinh học, cụ thể là chọn và lai tạo nguồn giống có chất lượng, nhằm cung cấp cho nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị - nông nghiệp công nghệ cao cho cả Thành phố cùng các tỉnh thành lân cận. Do đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM mong muốn nhận được các đề xuất, kiến nghị của nhà khoa học, chuyên gia cũng như các cơ quan – đơn vị để tiến hành đặt hàng nghiên cứu, triển khai các giải pháp, mô hình ứng dụng vào nông nghiệp trong thời gian tới.

Ketnoisangtao101.jpg

Ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) phát biểu khai mạc sự kiện

Từ những kinh nghiệm “xương máu” về quá trình nghiên cứu giống vật nuôi - cây trồng nhiều gian nan và thách thức, ông Đinh Minh Hiệp (Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) gợi mở các đơn vị, tổ chức và doanh nghiệp cần có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhau. Điển hình là phân bổ vị trí nuôi trồng có dự phòng, để khi chẳng may có sự cố thì vẫn còn khả năng duy trì để tiếp tục lai tạo giống.

Ketnoisangtao102.jpg

Ông Đinh Minh Hiệp (Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) công bố các nội dung đặt hàng

Dịp này, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đặt hàng nhiều nội dung, thời gian thực hiện từ nay đến năm 2030, bao gồm:

+ Chọn tạo và phát triển các giống cây trồng mới năng suất, chất lượng cao, có giá trị thương phẩm cao, chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi, cải tiến tính trạng các giống cây trồng như: cây rau, hoa lan, mai vàng, hoa nên, cây ăn quả và một số cây trồng khác có chất lượng cao và thích ứng với biên đổi khí hậu.

+ Ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, tạo ra những giống nấm có năng suất, chất lượng cao đặc tính tốt, giá trị kinh tế và y sinh. Hoàn thiện quy trình tạo ra giống nấm gốc có giá trị.

+ Quản lý đàn heo giống bằng công nghệ thông tin (phần mềm thu thập và quản lý cơ sở dữ liệu); đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng sản phấm.

+ Ứng dụng nhanh công nghệ chọn tạo giống tiên tiến của thế giới bằng phương pháp BLUP và GEN BLUP, xây dựng hệ thống đánh giá di truyền cho các trại giống heo thuần trên toàn địa bàn Thành phố. Từ đó, xây dựng hệ thống giống theo mô hình một tháp giống 4 cấp chung cho toàn Thành phố, bao gồm cả trang trại vệ tinh, nhằm đánh giá di truyền thông qua chỉ số EBV kết hợp ứng dụng công nghệ sinh học về gen trong chọn lọc để cải thiện nhanh chất lượng đàn giống heo của Thành phố, tổ chức liên kết trao đổi, khai thác nguồn gen tốt giữa các trại giống.

+ Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử (công nghệ gen) để đánh giá tính trạng di truyền, chọn lọc cá thể có tính trạng tốt làm giống cụ kỵ, ông bà…

+ Triển khai quản lý giống bò sữa, bò thịt theo phương pháp cải thiện chất lượng đàn bò (Dairy/Beef Herd Improvement - DHI/BHI), nhằm thu thập dữ liệu cá thể giống, các yếu tố ảnh hưởng đến cải thiện chất lượng đàn bò sữa (dinh dưỡng, chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng, thú y... ), năng suất, chất lượng sữa tại các trại chăn nuôi. Tăng cường loại thải các cá thể năng suất kém, giữ lại đàn cao sản phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm để tiếp tục nhân giống.

+ Đánh giá hiện trạng di truyền A1 - A2 của đàn bò sữa Thành phố để chọn đàn bò hạt nhân A2 chất lượng cao.

+ Tăng cường công tác quản lý giống bò sữa, bò thịt băng cơ sở dữ liệu như ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phương pháp tiên tiến trong đánh giá tiềm năng di truyền, ước tính giá trị giông (EBV), giúp việc chọn lọc và nhân giống đạt hiệu quả cao.

+ Nghiên cứu làm chủ và phát triển công nghệ chọn tạo giống bố mẹ và kỹ thuật sản xuất giống đối với giống thủy sản chủ lực nước ngọt, nước mặn lợ (tôm sú, tôm thẻ, tôm càng xanh, cá, giống nhuyễn thể...) và cá cảnh.

+ Nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số cá cảnh có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục chọn lọc và phát triển các dòng cá bản địa; sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử để đánh giá tính trạng di truyền các loài cá cảnh, tôm giống bố mẹ.

+ Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa trong sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản...) tại các quận, huyện còn diện tích đất sản xuất nông nghiệp tập trung trên 5 sản phẩm chủ lực (rau quả, hoa kiểng, heo, bò sữa, tôm) và 1 sản phẩm tiềm năng (cá cảnh) của ngành nông nghiệp Thành phố.

+ Nghiên cứu phát triển quy trình công nghệ tổng hợp và cơ giới hóa, tự động hóa quá trình trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản... và thu hoạch, bảo quản, sơ chế, chế biến các loại sản phẩm nông nghiệp đảm bảo an toàn sinh học quy mô công nghiệp, trang trại

+ Ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ trí tuệ nhân tạo, công nghệ thủy canh, tưới nước tiết kiệm, hệ thống tưới tự động, hệ thống năng lượng mặt trời, cơ giới hóa, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật an toàn, giá thể, xử lý ra hoa, điều tiết tự động dinh dưỡng, ánh sáng, chăm sóc, thu hoạch, sử dụng vật liệu trong bao gói sản phẩm; nghiên cứu phát triển quy trình công nghệ thâm canh và quản lý cây trồng tổng hợp; quy trình công nghệ sản xuất cây trồng an toàn.

+ Tự động hóa quá trình chăn nuôi quy mô công nghiệp, trang trại quy mô lớn khép kín đảm bảo an toàn sinh học, thiết bị tự động hóa, hệ thống đệm lót sinh học, hệ thống năng lượng mặt trời, công nghệ thông tin,công nghệ dọn phân bằng robot, có sử dụng hệ thống chuồng kín, hệ thống điều hòa nhiệt độ, độ ẩm phù hợp, hệ thống phân phối và định lượng thức ăn tại chuồng, hệ thống thu gom xử lý chất thải chăn nuôi tiên tiến, hiện đại đảm bảo điều kiện vệ sinh không gây ô nhiễm môi trường...

+ Nghiên cứu phát triển quy trình công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ nano, công nghệ RAS, tự động hóa... trong nuôi thâm canh, nuôi siêu thâm canh, tạo ra vacxin thế hệ mới phòng ngừa một số bệnh trong nuôi trồng thủy sản, công nghệ xử lý môi trường trong nuôi trồng một số loài thủy sản chủ lực.

+ Tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ tự động hóa, công nghệ cảm biến, công nghệ thông tin, công nghệ số và công nghệ hiện đại, tiên tiến khác từ nước ngoài phù hợp với điều kiện nông nghiệp tại Thành phố thông qua Sàn giao dịch công nghệ Thành phố. Hỗ trợ các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hiệu quả cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, nông dân hàng năm theo hình thức hợp tác công tư (nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, xây dựng quy trình, kỹ thuật, đào tạo, quảng bá...; doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, nông dân chủ động thực hiện).

+ Thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu vùng sản xuất nông nghiệp an toàn; quản lý thông tin đất và sử dụng đất cho nông lâm nghiệp và thủy sản; giống cây trồng, phân bón; thông tin thị trường, xuất nhập khẩu hàng hóa nông lâm thủy sản; giống vật nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản), thức ăn chăn nuôi, thông tin chăn nuôi tại địa phương; dịch bệnh và diễn biên dịch bệnh; công nghệ cảm biến trong cảnh báo và kiểm soát ô nhiễm môi trường chăn nuôi, cơ sở giết mổ, công tác tiêm phòng dịch trong chăn nuôi và nuôi trông thủy sản; quản lý tàu cá và sổ nhật ký đánh cá; hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quản lý thông tin sâu bệnh, dịch bệnh, công tác phòng bệnh cây trồng nông lâm nghiệp; hệ thông quản lý nông nghiệp thông minh; phần mêm cơ sở dữ liệu quản lý đào tạo nghề.

Hoàng Kim (CESTI)

Hệ thống GIS và viễn thám đã được chứng minh là có giá trị chiến lược cao trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch, xây dựng về nhiều mặt. Trong đó, giúp giảm nguồn lực vận hành, quản trị bằng việc tăng tính hiệu quả, hỗ trợ quá trình ra quyết định nhanh hơn thông qua cơ sở thông tin tốt hơn, dữ liệu trực quan trong quản lý tài nguyên.

Là địa phương đông dân nhất cả nước và có tốc độ đô thị hóa nhanh, TP.HCM đang phải đối mặt với nhiều thách thức, bất cập trong quản lý cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng. Vì vậy, hệ thống thông tin địa lý (GIS) và viễn thám ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạch định các chính sách, định hướng chiến lược của một khu vực. Có thể nói đó là những công cụ không thể thiếu đối với một đô thị thông minh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát sự phát triển đô thị, kinh tế, xã hội.

Hinh dai dien.jpg

(Ảnh minhh họa)

Hiện nay, nhiều đơn vị quản lý nhà nước trên địa bàn TP.HCM như Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch - Kiến trúc, Sở Xây dựng đã từng bước ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám xây dựng các mô hình, dữ liệu, nghiệp vụ, công nghệ, hệ thống thông tin chuyên ngành, mang lại hiệu quả trong công tác quản lý. Từ thực tiễn cho thấy, lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng có sự quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi sự kết nối và chia sẻ thông tin liên tục dữ liệu, nghiệp vụ giữa các Sở ngành và UBND các quận, huyện. Tuy nhiên, do các hệ thống quản lý chuyên ngành và cơ sở dữ liệu chưa có sự liên thông, tích hợp, chia sẻ thông tin một cách đồng bộ, thống nhất nên còn gây không ít khó khăn cho công tác phối hợp giữa các bên. Vì vậy, Trung tâm Ứng dụng Hệ thống Thông tin Địa lý TPHCM (HCMGIS) đã chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Xây dựng kiến trúc tổng thể, chi tiết hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng” nhằm tạo sự liên thông, đồng bộ, thống nhất các dữ liệu, ứng dụng quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng, tạo thuận lợi cho việc quản lý đô thị ở các Sở ngành, quận huyện, phục vụ xây dựng đô thị thông minh và chuyển đổi số quản lý chuyên ngành.

NV-15-H2.png

Mô hình khái quát về kiến trúc tổng thể GIS và viễn thám ngành quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng

Theo ThS. Phạm Đức Thịnh (chủ nhiệm nhiệm vụ), nhóm thực hiện không chỉ tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tiêu chuẩn và công nghệ mở quốc tế, chính phủ điện tử và các Bộ ngành liên quan về GIS và viễn thám để từ đó lựa chọn các tiêu chuẩn cũng như công nghệ tối ưu nhất; mà còn rà soát hiện trạng tại các quận huyện cũng như các Sở ngành liên quan để áp dụng xây dựng kiến trúc tổng thể, chi tiết hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Kiến trúc ứng dụng của hệ thống GIS và viễn thám trong quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng được chia làm 7 tầng khác nhau: Kênh truy cập, Cổng thông tin điện tử, Ứng dụng, Dịch vụ dùng chung, Dữ liệu, Hạ tầng, Nền tảng liên quan.

NV-15-H3.png

Mô hình tổng quát kiến trúc ứng dụng

Công nghệ GIS và viễn thám đã được chứng minh là chìa khóa cho Cơ sở hạ tầng không gian (SDI) để xây dựng đô thị thông minh. Ví dụ, ứng dụng GIS và viễn thám có thể cảnh báo được biến động công trình xây dựng, ngập lụt, lún, theo quy hoạch được sử dụng trong các cơ quan quản lý, hoặc sử dụng dữ liệu GIS để tham chiếu cho các ứng dụng viễn thám. Ngoài việc tăng cường các chức năng xử lý ảnh viễn thám ở các giai đoạn khác nhau, dữ liệu GIS cung cấp một môi trường linh hoạt để nhập, phân tích, quản lý và hiển thị dữ liệu số từ các nguồn khác nhau cần thiết cho các ứng dụng viễn thám. Nhiều dự án cần kết hợp GIS với viễn thám để lưu trữ, tổ chức và hiển thị ảnh chụp từ không gian và mặt đất, ảnh vệ tinh từ đó thực hiện các bài toán phân tích và xử lý theo chuyên môn nghiệp vụ từng phòng ban. Các chức năng xử lý ảnh trong việc tích hợp GIS và viễn thám bao gồm: tiền xử lý, phân tích, khai thác, đánh giá kết quả. Do đó, trong mô hình chi tiết kiến trúc nghiệp vụ, mối quan hệ tương tác giữa các nghiệp vụ trong hệ thống thông tin quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng như sau:

NV-15-H4.png

Mô hình quan hệ giữa các chi tiết kiến trúc nghiệp vụ

Dựa trên yêu cầu của kiến trúc nghiệp vụ, các thành phần ứng dụng được đề xuất cho hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng được phân thành 3 nhóm ứng dụng gồm: nhóm các ứng dụng nghiệp vụ (quản lý văn bản quy phạm pháp luật; quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý giá đất; quản lý thống kê, kiểm kê đất đai; quản lý thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo; quản lý thông tin thuế; quản lý công trình xây dựng; quản lý cơ sở dữ liệu GIS, viễn thám…), nhóm các ứng dụng báo cáo thống kê, nhóm các ứng dụng hỗ trợ (theo dõi và đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất đai; quản trị dữ liệu; cảnh báo, hỗ trợ ngăn chặn; quản lý người dùng; quản lý chữ ký số; hỗ trợ kiểm soát chất lượng và xác định khối lượng, giá trị sản phẩm cơ sở dữ liệu quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng…)

ThS. Phạm Đức Thịnh cho biết, kiến trúc chi tiết hệ thống ứng dụng GIS và viễn thám được thiết kế dựa trên khái niệm TOGAF, tuân thủ mô hình tăng trưởng chính phủ số và tham khảo các kiến trúc chính phủ điện tử hoặc do các Bộ ngành liên quan ban hành.

Kiến trúc bao gồm: kiến trúc nghiệp vụ, kiến trúc ứng dụng, kiến trúc dữ liệu, kiến trúc công nghệ, kiến trúc an toàn thông tin. Kiến trúc nêu ra được điểm mạnh tích hợp GIS và Viễn thám vào ứng dụng, thể hiện xu hướng triển khai kiến trúc trên các nền tảng như điện toán đám mây (cloud), ứng dụng trí tuệ nhân tạo (GeoAI) vào công tác xử lý, phân tích dữ liệu. Hệ thống GIS và viễn thám được triển khai trên nền tảng dịch vụ web tuân thủ theo các tiêu chuẩn an ninh an toàn thông tin và các tiêu chuẩn xây dựng hệ thống. Từng đối tượng người dùng sẽ có thể kết nối với hệ thống thông qua các loại kết nối khác nhau tùy vào vị trí và quyền hạn truy cập. Các cơ quan, đơn vị liên quan đến vận hành, liên thông dữ liệu, cập nhật và khai thác dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố có thể ứng dụng và áp dụng mô hình kiến trúc này để tham khảo và triển khai cho đơn vị. 

NV-15-H5.png

Kiến trúc hệ thống dựa trên đám mây cần thiết cho hệ thống GIS và Viễn thám

Về kế hoạch chuyển đổi áp dụng kiến trúc tổng thể, ThS. Phạm Đức Thịnh chia sẻ, lộ trình triển khai kiến trúc cho hệ thống GIS và viễn thám có thể chia làm 4 giai đoạn (6-12 tháng/giai đoạn) tương ứng với những thay đổi về nghiệp vụ, công nghệ.

Ở giai đoạn 1, cần xây dựng các chính sách về quản lý hệ thống GIS và viễn thám, chuẩn hóa, thống nhất các quy trình nghiệp vụ liên quan đến các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng. Kết hợp xây dựng các thành phần của hệ thống GIS và viễn thám, chuyển đổi từ mô hình quản lý dữ liệu phân tán sang mô hình quản lý dữ liệu thống nhất tập trung, thiết lập mô hình an ninh - an toàn. Ở giai đoạn 2, tiến hành sửa đổi, bổ sung các chính sách về quản lý hệ thống GIS và viễn thám, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về đất đai, quy hoạch và xây dựng, bổ sung, nâng cấp các quy trình nghiệp vụ quản lý đất đai. Trong giai đoạn này, thử nghiệm các ứng dụng quản lý nghiệp vụ thông minh và hoạt động báo cáo hỗ trợ ra quyết định, nâng cấp các thành phần của hệ thống để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dữ liệu khi vận hành. Có thể nghiên cứu, đề xuất phương án tạo nguồn thu từ các dịch vụ liên quan đến hệ thống. Ở giai đoạn 3, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các chính sách về quản lý hệ thống GIS và viễn thám, hoàn thiện cơ sở dữ liệu và các quy trình nghiệp vụ quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng. Đơn vị chủ trì có thể triển khai các ứng dụng quản lý nghiệp vụ thông minh và hoạt động báo cáo hỗ trợ ra quyết định, chủ động thực hiện chia sẻ dữ liệu hệ thống GIS và viễn thám với các ngành, lĩnh vực có liên quan, triển khai phương án tạo nguồn thu từ các dịch vụ liên quan đến hệ thống GIS và viễn thám về đất đai, quy hoạch và xây dựng. Ở giai đoạn 4, đảm bảo hệ thống GIS và viễn thám về đất đai, quy hoạch và xây dựng được duy trì, nâng cấp theo hướng phục vụ người dân.

Như vậy, nhóm thực hiện đã hoàn thiện kiến trúc tổng thể, chi tiết hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng, làm tài về mặt kỹ thuật phục vụ cho việc xây dựng các nhiệm vụ thành phần trong Đề án ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn TP.HCM. Không chỉ hỗ trợ các cơ quan, đơn vị lựa chọn giải pháp kỹ thuật, phương án thực hiện nhằm tiết kiệm nguồn lực và chi phí thực hiện, hệ thống còn là minh chứng cho khả năng liên thông quản lý giữa ba lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng, và xa hơn nữa là mở rộng việc ứng dụng GIS, viễn thám trong các đơn vị, ngành có tính liên thông về nghiệp vụ, dữ liệu và xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Ứng dụng Hệ thống Thông tin Địa lý TP.HCM
Địa chỉ: 244 Điện Biên Phủ, P.Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: (028) 39320963

E-mail: contact@hcmgis.vn

Thực tế cho thấy, hiện nay nhu cầu hồ thủy sinh và kinh doanh cây thủy sinh ngày càng tăng cao, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM. Tuy nhiên, hầu hết loại cây thủy sinh đều được nhập từ Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Indonesia,… với giá thành cao. Trong khi đó, TP.HCM vốn được xem là trung tâm cá cảnh lớn nhất nước, với nhiều cơ sở doanh nghiệp nuôi trồng, nghiên cứu và sản xuất - kinh doanh nhiều giống cá cảnh.

TS. Đỗ Đăng Giáp, chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ "Xây dựng quy trình nhân giống ba loài cây thủy sinh Tiêu thảo lá nhăn (Cryptocoryne wendtii), Bucep (Bucephalandra motleyana) và Trầu bà lá nhỏ (Anubias barteri var. nana) phục vụ thị trường cá cảnh" do Viện Sinh học nhiệt đới (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) là cơ quan chủ trì, dẫn số liệu báo cáo của Chi cục Thủy sản TP.HCM cho biết: sản lượng cá cảnh sản xuất và xuất khẩu tăng đều qua các năm. Từ sự phát triển mạnh mẽ của thị trường cá cảnh cho thấy tiềm năng to lớn của ngành cây thủy sinh và các dịch vụ đi kèm khác. Do đó, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nhân giống và sản xuất cây giống thủy sinh giúp cung cấp nguồn cây kiểng thủy sinh chất lượng, giá thành cạnh tranh sẽ được thị trường đón nhận mạnh mẽ.

Cũng theo lời TS. Đỗ Đăng Giáp, tại TP.HCM diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng thu hẹp, cùng với sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, vì thế nông dân thành phố đang dần chuyển hướng sang nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao chất lượng cũng như sản lượng của cây trồng.

"Do đó, việc ứng dụng ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống cây cảnh thủy sinh sạch bệnh, sẽ giúp sản xuất cây giống nhanh chóng, chất lượng và đặc biệt là tạo nguồn giống sạch bệnh hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tế tại TP.HCM", TS. Đỗ Đăng Giáp nhận định.

Trên tinh thần đó, sau thời gian làm việc nghiêm túc và khẩn trương, nhóm chuyên gia tại Viện Sinh học nhiệt đới đã hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, đó là nghiên cứu, hoàn thiện quy trình nhân giống và sản xuất ba loài cây thủy sinh Tiêu thảo lá nhăn (Cryptocoryne wendtii), Bucep (Bucephalandra motleyana) và Trầu bà lá nhỏ (Anubias barteri var. nana) có giá trị kinh tế cao phục vụ thị trường TP.HCM và xuất khẩu.

H-5.jpg

Từ đầu vào ban đầu là 36 mẫu cây thủy sinh (12 mẫu Tiêu thảo lá nhăn, 12 mẫu Bucep và 12 mẫu Trầu bà lá nhỏ) được thu thập trực tiếp tại thị trường cây thủy sinh trên địa bàn TP.HCM, các nhà khoa học tại Viện Sinh học nhiệt đới đã chọn lọc được các cây thủy sinh tương ứng sạch virus phục vụ cho nhân giống.

Sau quá trình nghiên cứu, nhóm đã xây dựng và hoàn thiện quy trình nhân giống 3 cây thủy sinh trong điều kiện in vitro. Tiếp đó, nhóm nghiên cứu cũng đã xây dựng quy trình nuôi trồng cây giống thủy sinh có nguồn gốc in vitro trong vườn ươm thông qua các nội dung nghiên cứu để xác định điều kiện sống thích hợp cho từng loại cây giống thuỷ sinh in vitro như khảo sát giá thể, cường độ chiếu sáng, nhiệt độ, độ ẩm.

Ngoài ra, nhóm triển khai nhiệm vụ cũng tiến hành nội dung khảo sát sự sinh trưởng của cây giống thủy sinh có nguồn gốc từ nuôi cấy in vitro trong hồ thủy sinh. Theo đó, nhóm chú trọng nghiên cứu tác động của các yếu tố như nồng độ dinh dưỡng, điều kiện chiếu sáng, nhiệt độ và điều kiện sục khí đến sự sinh trưởng và phát triển của cây giống trong hồ thuỷ sinh.

H-2.jpg

Quy trình nhân giống đề xuất

Đến thời điểm hiện tại, TS. Đỗ Đăng Giáp và các cộng sự đã hoàn thiện nhiệm vụ với kết quả ghi nhận được là các quy trình nhân giống in vitro, quy trình thuần dưỡng với ba loài cây thuỷ sinh Tiêu thảo lá nhăn, Bucep và Trầu bà lá nhỏ. Cùng với đó, nhóm triển khai nhiệm vụ cũng đã sản xuất 1.500 cây giống thuộc ba loài cây thủy sinh trên theo quy trình nhân giống hoàn thiện. Các sản phẩm cây con khỏe mạnh, chất lượng.

H-1-Hinh dai dien WEB.jpg

Sản phẩm cây thủy sinh ở giai đoạn trồng in vitro

Có thể khẳng định rằng, kết quả của nhiệm vụ đã góp phần đưa công nghệ sinh học ứng dụng trong lĩnh vực nghiên cứu sản xuất các cây kiểng thủy sinh phục vụ nhu cầu thực tiễn tại TP.HCM. Đồng thời, việc nhân giống không chỉ giải quyết nhu cầu của thị trường, làm giảm áp lực với quần thể tự nhiên và cũng như tạo cơ hội phát triển cây thủy sinh thương mại.

Kết quả của nhiệm vụ đã tạo được 6 quy trình, trong đó có 3 quy trình nhân giống: Quy trình nhân giống và 3 quy trình thuần dưỡng đối với cây giống in vitro của 3 loài cây thuỷ sinh là Tiêu thảo lá nhăn, Trầu bà lá nhỏ và Bucep.

Thành quả của nhiệm vụ cũng đã cho thấy Viện Sinh học nhiệt đới hoàn toàn đủ năng lực và kinh nghiệm để tiến hành chuyển giao công nghệ nhân giống, thuần dưỡng và ươm tạo đối với từng loại cây thủy sinh nói trên cho các hộ nuôi trồng thuỷ sinh tại TP.HCM nói riêng cũng như nhiều tỉnh, thành khác nói chung; và các cơ sở sản xuất cây thủy sinh, cơ sở kinh doanh trong tương lai có thể kết hợp với Viện Sinh học nhiệt đới để chủ động ứng dụng kết quả này, từng bước phát triển ngành nông nghiệp đô thị hiện đại.

TS. Đỗ Đăng Giáp

Cũng theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, kết quả nói trên cũng là cơ sở để chuyển giao công nghệ, sản xuất cây giống thủy sinh cung cấp đến các đơn vị, cá nhân, doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh thủy sinh tại TP.HCM, khu vực Đông Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.

Cụ thể hơn, nhận định về khả năng thương mại hóa cho ba loại cây thủy sinh vừa được hoàn thiện quy trình nhân giống này, TS. Đỗ Đăng Giáp khẳng định: "từ kết quả của nhiệm vụ là những giống đẹp, lạ, có khả năng thị trường cao thì quy trình nhân giống mà chúng tôi đề xuất có thể áp dụng vào để sản xuất, đáp ứng được nhu cầu cần thiết của thị trường một cách nhanh chóng". Chưa dừng lại ở đó, kết quả của nhiệm vụ cũng đã đưa ra một quy trình nhân giống có tỷ lệ nhân giống rất cao, đáp ứng nhu cầu nhân giống cho các cơ sở kinh doanh cây thủy sinh hoặc các cơ sở trồng thủy sinh trên địa bàn TP.HCM. Đối với một quy trình như ở Phòng Công nghệ Tế bào Thực vật (Viện Sinh học nhiệt đới) thì hằng năm có thể sản xuất ra từ 100.000 đến 1 triệu cây giống, do đó nếu các cơ sở và nhà vườn cây thủy sinh có nhu cầu thì với những hợp tác trong thời gian lâu dài có thể sản xuất được hàng trăm tới hàng triệu cây giống trong một năm.

Thông tin liên hệ:

Viện Sinh học Nhiệt đới

Địa chỉ: 9/621 Xa lộ Hà Nội, P.Linh Trung, Thành phố Thủ Đức, TP.HCM

Điện thoại: 028 38978798 - 0985 558 589

Email: dodanggiap@gmail.com

Website: https://itb.ac.vn/

Nền tảng H.OIP sẽ giúp kết nối đa phương các thành phần trong hệ sinh thái nhằm tạo ra một nền tảng hỗ trợ toàn diện nâng cao chất lượng cho các startups; thúc đẩy các hoạt động xúc tiến, kết nối thương mại, thu hút vốn đầu tư cho các startups tại TP.HCM.

Chiều 24/10/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới sáng tạo Victory (VIC) tổ chức phiên làm việc mở chia sẻ về nền tảng H.OIP với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các trường đại học, vườn ươm khởi nghiệp, đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại TP.HCM.

Theo bà Phan Thị Quý Trúc (Phó trưởng phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ, Sở KH&CN TP.HCM), H.OIP (Ho Chi Minh City Open Innovation Platform) là nền tảng trực tuyến thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo TP.HCM được Sở KH&CN chủ trương xây dựng và VIC là đơn vị triển khai nhiệm vụ, thuộc đề án "Hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo TP.HCM giai đoạn 2021 – 2025". Phiên làm việc này nhằm tìm kiếm đối tác để phối hợp triển khai vận hành thử nghiệm H.OIP và thu thập các thông tin liên quan đến hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (KNĐMST) của một số đơn vị trong hệ sinh thái KNĐMST cho nền tảng H.OIP.

02HDKHLVlamviecvenentangHOIPh2.jpg

Bà Phan Thị Quý Trúc (Phó trưởng phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ, Sở KH&CN TP.HCM) phát biểu dẫn đề tại buổi làm việc 

Tại buổi làm việc, ông Hoàng Minh Ngọc Hải (đại diện Ban chủ nhiệm đơn vị triển khai nhiệm vụ) cho biết, H.OIP được thực hiện theo "đặt hàng" của Sở KH&CN với sứ mệnh cốt lõi của H.OIP là tạo ra sự kết nối, chuẩn hóa và thúc đẩy. Từ đó H.OIP sẽ giúp kết nối đa phương các thành phần trong hệ sinh thái nhằm tạo ra một nền tảng hỗ trợ toàn diện nâng cao chất lượng cho các startups; chuẩn hóa nguồn lực, tạo môi trường cho các thành phần trong cộng đồng tìm kiếm đối tác, kết nối và chia sẻ các nguồn lực hiện có thông qua các hoạt động tư vấn, đào tạo cộng đồng; thúc đẩy các hoạt động xúc tiến, kết nối thương mại, thu hút vốn đầu tư cho các startups tại TP.HCM.

Với 4 trụ cột chính mà H.OIP tập trung là cơ quan Nhà nước, cơ sở ươm tạo và tăng tốc khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp (startups), nhà đầu tư, H.OIP sẽ tạo ra cơ chế kết nối các đối tượng này nhằm thu hút nguồn lực bổ sung và giảm thiểu chi phí từ các hình thức kết nối truyền thống; nâng cao hiệu quả truyền thông, nâng cao chia sẻ nguồn lực cộng đồng và lan tỏa văn hóa chia sẻ nguồn lực; tạo cơ hội mở để kết nối với các nền tảng giao dịch sở hữu trí tuệ, kết nối dữ liệu số về xác thực sở hữu trí tuệ về cấu phần hồ sơ.

02HDKHLVlamviecvenentangHOIPh3.jpg

Ông Hoàng Minh Ngọc Hải (đại diện Ban chủ nhiệm đơn vị triển khai nhiệm vụ) giới thiệu về nền tảng H.OIP

Hiện tại H.OIP đã mô hình hóa các tương tác, chuẩn hóa dữ liệu (data), tạo ra các công cụ kết nối, tạo ra công cụ để lấy data,… Cùng với đó, H.OIP đã có sự tham gia của hơn 19 chuyên gia, hơn 28 hạng mục chuyển giao, hơn 42 đối tác cùng nhiều cơ hội hợp tác.

Bà Phan Thị Quý Trúc cho biết thêm, Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM dự kiến sẽ được ra mắt đầu năm 2024, đây là cơ hội để H.OIP tham gia kết nối và hình thành mạng lưới gắn kết các hoạt động hỗ trợ hệ sinh thái KNĐMST TP.HCM. H.OIP được kỳ vọng sẽ là cổng thông tin điện tử về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo chính thức của TP.HCM, trở thành nền tảng vững chắc hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp ĐMST, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, hỗ trợ ứng dụng khoa học, công nghệ và ĐMST,... Hiện tại H.OIP đang trong giai đoạn triển khai vận hành thử nghiệm và tìm kiếm thêm các mô hình hợp tác. Dự kiến H.OIP sẽ được ra mắt trong khuôn khổ hoạt động của Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp TP.HCM (WHISE 2023) tổ chức trong tháng 11/2023.

Lam Vân (CESTI)

Sự chủ động trong việc chế tạo preform chai PET giúp doanh nghiệp tăng năng suất và đảm bảo nguồn phụ liệu cho toàn bộ quá trình sản xuất, hoạt động kinh doanh.

Tại Việt Nam hiện nay, một số công ty khuôn mẫu như Duy Tân, Ngọc Nghĩa, và Duy Khanh đã sản xuất được khuôn preform phôi nhựa PET với số lượng cavity (sản phẩm) trên khuôn phổ biến là 16, 24, 32, 48; nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất chai PET với quy mô nhỏ và vừa. Với số lòng khuôn lên đến 96 cavity thì chưa có công ty Việt Nam nào nghiên cứu chế tạo để cung cấp cho các nhà sản xuất chai PET với quy mô lớn, và tất cả các khuôn 96 cavity này đều đang được nhập từ nước ngoài.

Hhinh dai dien.jpg

Khuôn preform 96 cavity do doanh nghiệp cơ khí trong nước sản xuất giúp các công ty sản xuất nước giải khát và thực phẩm chủ động hơn trong việc chuẩn bị nguồn nguyên liệu đầu vào

Trong khi đó, các nhà sản xuất quy mô lớn (như công ty nước giải khát như Tân Hiệp Phát, Pepsi Co, Coca Cola,…) mong muốn tìm nhà cung cấp ở Việt Nam để đặt hàng khuôn 96 cavity trong nước. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có các công ty sản xuất lớn về các sản phẩm phôi preform để thổi chai nhựa PET như Ngọc Nghĩa, Bảo Vân, Nhựa Tân Tiến, Nhựa Rạng Đông,… đang chiếm lĩnh thị phần bao bì nhựa dùng trong đóng gói sản phẩm cũng có nhu cầu đặt khuôn 96 cavity để nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Do đó, nhu cầu sử dụng khuôn preform trên thị trường là tương đối cao, là cơ hội tiếp cận để cung cấp các khuôn preform cho các doanh nghiệp này.

Bên cạnh đó, các tập đoàn nước ngoài cũng đang mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm chai nhựa tại Việt Nam. Với quy mô sản xuất lớn thì việc ứng dụng khuôn preform 96 cavity là hoàn toàn khả thi.

H-1.jpg


Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh thử khuôn preform 96 cavity tại một nhà máy sản xuất nước giải khát

Kỹ sư Đặng Khiêm Cương (công ty TNHH cơ khí Duy Khanh) cho biết, ngày nay, trên thế giới với trình độ công nghệ ngày càng phát triển, nên việc sản xuất các máy ép nhựa cỡ lớn trở nên phổ biến để sử dụng cho các khuôn preform với số lòng khuôn lớn như 96 cavity. Do nhu cầu ngày càng tăng, các nhà sản xuất chai PET dần dần đều chuyển sang đầu tư dây chuyền sản xuất cho các khuôn preform cỡ lớn ngày càng phổ biến để giảm chi phí trong sản xuất, tăng năng suất và giảm giá thành sản phẩm. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu của dây chuyền cho khuôn lớn 96 cavity cao hơn khuôn dưới 50 cavity nhưng xét về quá trình sản xuất lâu dài với quy mô sản lượng lớn thì khuôn 96 cavity cho hiệu quả kinh tế tốt hơn rất nhiều.

Nhận thấy nhu cầu là rất lớn từ các nhà máy sản xuất nước giải khát và hàng tiêu dùng nhanh trong nước, nhóm kỹ sư và chuyên gia tại công ty TNHH cơ khí Duy Khanh (quận Tân Phú, TP.HCM) đã chủ động đề xuất triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu công nghệ và thiết kế, chế tạo khuôn preform phôi PET 96 cavity phục vụ cho sản xuất thổi chai nhựa PET".

Kỹ sư Đặng Khiêm Cương, thành viên triển khai nhiệm vụ cho biết, mục tiêu tổng quát được nhóm nghiên cứu đặt ra là nghiên cứu, tính toán, mô phỏng, thiết kế và chế tạo hoàn chỉnh khuôn preform phôi nhựa PET 96 cavity, phục vụ cho quá trình sản xuất chai nhựa tại các nhà máy sản xuất chai PET, các nhà máy sản xuất nước giải khát tại Việt Nam.

Trong đó, mục tiêu cụ thể được xác định là (1) Làm chủ được quá trình tính toán thiết kế và công nghệ gia công chế tạo bộ khuôn preform 96 cavity cũng như hướng đến thiết kế, chế tạo các bộ khuôn nhiều cavity hơn tại Việt Nam khi thị trường có nhu cầu; (2) Tạo ra sản phẩm khuôn 96 cavity tại Việt Nam với chất lượng tốt, giảm giá thành so với ngoại nhập, thay thế hàng nhập khẩu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước; và (3) Nâng cao năng lực tự nghiên cứu, năng lực thiết kế, sản xuất chế tạo, lắp ráp khuôn của đội ngũ cán bộ, nhân viên công ty TNHH cơ khí Duy Khanh tham gia đề tài.

H-2.jpg

Sơ nguyên lý hoạt động tổng thể khuôn preform 96 cavity

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cho biết, so với các kỹ thuật khác trên thị trường (như kỹ thuật đùn thổi), kỹ thuật ép phun nhựa PET được lựa chọn rất nhiều nhờ những lợi ích mang lại, đặc biệt với nhu cầu sản xuất chai nhựa lớn hiện nay thì việc sử dụng công nghệ ép phun nhựa PET trên khuôn preform 96 cavity lại càng mang lại lợi ích lớn.

Công nghệ ép phun nhựa PET với áp suất phun nhựa cao đảm bảo rằng vật liệu nóng chảy đạt đến mọi kẽ hở của khuôn trước khi đóng rắn, giúp tăng độ chính xác, chất lượng bề mặt và cơ tính tốt hơn.

 

Để sản xuất chai PET, preform phôi PET phải được sản xuất và sau đó đưa vào khuôn thổi. Cả hai quy trình có thể được thực hiện độc lập bằng cách sử dụng các máy móc khác nhau: quy trình 1 giai đoạn (còn gọi là 1,5 bước) hoặc trong quy trình 2 giai đoạn. Trong quy trình 1 giai đoạn, nhựa PET được ép tạo phôi preform và chuyển sang thổi thành chai trong một máy.

Còn trong quy trình 2 giai đoạn, preform phôi PET được sản xuất trên máy ép phun. Sau đó, các phôi preform đã hoàn thành với một cổ chai hoàn chỉnh có thể được làm nóng lại để thổi thành chai trong máy thổi chai ở bước 2.

Hiện nay, chai PET đa phần được chế tạo bằng phương pháp ép 2 giai đoạn độc lập do đây là phương pháp có nhiều ưu điểm vượt trội như là một loại phôi có thể sản xuất nhiều loại chai với mẫu mã khác nhau, cung cấp cho nhiều đối tác khách hàng khác nhau; năng suất cao hơn, ổn định hơn; chi phí đầu tư máy tối ưu hơn.

Sau thời gian nghiên cứu nghiêm túc, đội ngũ kỹ sư - chuyên gia tại công ty TNHH cơ khí Duy Khanh đã thiết kế 3D hoàn thiện của 2 bộ khuôn preform 13,25g và 15,6g 96 cavity, cùng với đó là 2 bộ khuôn preform 13,25g và 15,6g 96 cavity được lắp ráp hoàn chỉnh. Ngoài ra, nhóm cũng hoàn thiện quy trình công nghệ gia công chế tạo các chi tiết quan trọng trong khuôn preform phôi nhựa PET 96 cavity.

Sản phẩm khuôn được đưa vào thử nghiệm thực tế tại một công ty nước giải khát, ghi nhận năng suất ép sản phẩm thực tế trên khuôn đạt năng suất yêu cầu đề ra ở mức 26.584 sản phẩm/giờ. Kích thước sản phẩm sau khi ép thử lần cuối đạt dung sai, cũng như yêu cầu kỹ thuật bản vẽ sản phẩm.

Đại diện lãnh đạo công ty TNHH cơ khí Duy Khanh khẳng định, hiệu quả khoa học - công nghệ của nhiệm vụ chính là đã làm chủ được quá trình tính toán thiết kế và công nghệ gia công chế tạo bộ khuôn preform 96 cavity cũng như hướng đến thiết kế, chế tạo các bộ khuôn nhiều cavity hơn tại Việt Nam khi thị trường có nhu cầu. Đồng thời, tạo được cơ sở dữ liệu, làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu cũng như cho quá trình tính toán, thiết kế và chế tạo khuôn preform 96 cavity tương tự hoặc nhiều hơn 96 cavity (144 cavity,…) tại Việt Nam trong tương lai.

Chia sẻ về hiệu quả kinh tế - xã hội, kỹ sư Đặng Khiêm Cương cho biết nhiệm vụ đã giúp tạo ra sản phẩm khuôn 96 cavity tại Việt Nam với chất lượng tốt, giảm giá thành so với ngoại nhập, thay thế hàng nhập khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hóa cho các ngành sử dụng khuôn preform.

Nhận định về kết quả của nhiệm vụ, ông Đỗ Phước Tống - Chủ tịch hội đồng thành viên Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh, Chủ tịch Hội Cơ khí - Điện TP.HCM (HAMEE) cho biết: đề tài nghiên cứu và chế tạo khuôn preform 96 cavity thực sự là một đề tài khó, vì sản phẩm rất phức tạp, rất chính xác, và đây là lần đầu tiên mà một doanh nghiệp Việt Nam dám nghiên cứu và chế tạo.

"Đề tài này đã hoàn tất hoàn hảo, ứng dụng thử nghiệm và được đánh giá cao, vì thế Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh nhận thấy sản phẩm này hoàn toàn có thể thương mại hóa, phổ biến rộng rãi cho các khách hàng khác, bởi vì sản phẩm có chất lượng cao tương đương giải pháp ngoại nhập mà giá thành giảm đến 20-30%", ông Đỗ Phước Tống nhấn mạnh.

Cũng theo lời đại diện Hội Cơ khí - Điện TP.HCM (HAMEE), kết quả của đề tài nghiên cứu này cũng là nội dung để đội ngũ giảng viên và sinh viên tại các trường đại học, viện nghiên cứu có thể học hỏi, và thông qua đó phát triển những nghiên cứu sâu rộng hơn trong ngành khuôn mẫu.

Thông tin liên hệ:

Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh

Địa chỉ: 310A Lũy Bán Bích, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM

Điện thoại: 028.38650265

Email: duykhanh@duykhanh.com - cuongdk@duykhanh.com

Website: www.duykhanh.com.vn

Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353