SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Kết quả nghiên cứu vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu là tài liệu chính thống về phổ đột biến gene trong bệnh lý Parkinson tại Việt Nam, làm cơ sở ban đầu cho các chương trình quản lý nhóm bệnh nhân này, đồng thời là nguồn tham khảo tốt cho các nhân viên y tế trong công tác tư vấn bệnh nhân Parkinson.

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu khả năng ứng dụng lâm sàng của xét nghiệm gen trên bệnh nhân Parkinson" do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức trong năm 2023, PGS.TS.BS Mai Phương Thảo - chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết Parkinson là bệnh lý thoái hóa thần kinh phổ biến thứ hai sau bệnh Alzheimer, được mô tả lần đầu tiên năm 1817 bởi bác sĩ James Parkinson với các đặc điểm như run không chủ ý, yếu cơ, dáng đi khom về phía trước.

VLK-1502-05.jpg

(Ảnh minh họa)

Bệnh ảnh hưởng đến 0,3% dân số chung, theo đó số bệnh nhân Parkinson trên thế giới ở thời điểm năm 2020 ước đạt 9,4 triệu người, là gánh nặng sức khỏe và ngân sách kinh tế thế giới.

"Điều này nhấn mạnh việc nghiên cứu về bệnh lý Parkinson, bao gồm thể di truyền và vô căn là vô cùng cần thiết", PGS.TS.BS Mai Phương Thảo thông tin.

Cũng theo lời PGS.TS.BS Mai Phương Thảo, thì Parkinson là bệnh đa yếu tố, có thể do sự tương tác bởi nhiều gene hoặc do sự thay đổi tính nhạy cảm của các allen, các yếu tố môi trường, hoặc do tương tác qua lại giữa môi trường và biểu hiện gene, từ đó làm ảnh hưởng não bộ.

"Với những nỗ lực trong việc xác định các đột biến gene gây bệnh bằng kỹ thuật giải trình tự gene thế hệ mới (Next-generation sequencing: NGS), nhiều kết quả ghi nhận một số lớn trường hợp tuy có mang gene nhưng không biểu hiện bệnh", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ nhấn mạnh.

H-1.jpg

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ báo cáo kết quả nghiên cứu

Ngoài ra, vẫn theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu toàn diện nào mô tả đầy đủ phổ bất thường di truyền trong bệnh lý Parkinson. Thay vào đó, các nghiên cứu về đề tài Parkinson chủ yếu tập trung khảo sát đặc điểm lâm sàng (triệu chứng vận động, ngoài vận động) và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Parkinson.

Với những tiến bộ công nghệ di truyền phân tử, đặc biệt là giải trình tự thế hệ mới, đã giúp phát hiện đồng thời nhiều dạng biến đổi di truyền trên nhiều gene liên quan đến bệnh Parkinson, phát triển nghiên cứu hệ thống về di truyền Parkinson tại Việt Nam. Tất cả đều tiến đến việc phát hiện ra thuốc nhắm trúng đích, thử nghiệm phương pháp điều trị mới và phòng ngừa bệnh hoặc làm chậm tiến triển bệnh.

Hiện nay, các nghiên cứu trong lĩnh vực Parkinson đã xác định 23 gene hoặc vùng trên nhiễm sắc thể liên quan đến Parkinson có tính gia đình và di truyền theo quy luật Mendel.

Phân tích sinh hóa ghi nhận sản phẩm của các gene này thường đóng vai trò quan trọng cho quá trình kiểm soát chất lượng protein nội bào cũng như sự dẫn truyền thần kinh, vận chuyển các chất trong tế bào thần kinh. Các nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng liên quan đến xét nghiệm gene trong bệnh Parkinson thu hút rất nhiều sự quan tâm của nhà khoa học cũng như bác sĩ lâm sàng, mở ra hy vọng làm sáng tỏ nguyên nhân gây bệnh và tìm kiếm các liệu pháp điều trị hữu hiệu nhằm phòng ngừa, ngăn chặn tiến triển bệnh.

Trên tinh thần đó, PGS.TS.BS Mai Phương Thảo và nhóm cộng sự tại Đại học Y dược TP.HCM đã nghiên cứu tập trung vào các mục tiêu phân tích các thay đổi di truyền trên các gene liên quan đến bệnh Parkinson; khảo sát thay đổi di truyền trên người thân trực hệ của bệnh nhân Parkinson có mang biến đổi di truyền; phân tích mối liên quan kiểu gene - đặc điểm lâm sàng trên bệnh nhân Parkinson.

Parkinson.jpg

(Ảnh minh họa)

Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập được 208 mẫu tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, trong đó có 83 bệnh nhân EOPARKINSON (bệnh Parkinson khởi phát sớm) và 125 bệnh nhân LOPARKINSON (bệnh Parkinson khởi phát muộn). Sau đó, thực hiện tách chiết DNA của 208 mẫu máu (100% tiến độ) đạt chất lượng và độ tin sạch cần thiết; đồng thời chuẩn bị thư viện giải trình tự và lai-bắt giữ được thư viện trình tự 20 gene mục tiêu đạt yêu cầu.

Bước đầu, nhóm nghiên cứu ghi nhận 33 bệnh nhân PARKINSON (15,9%) mang biến thể nhóm P/LP/R (biến thể gây bệnh/giống gây bệnh/nguy cơ); 47 bệnh nhân (22,6%) mang biến thể nhóm VUS (biến thể không chắc chắn gây bệnh); còn lại là các trường hợp bệnh nhân mang các biến thể lành tính hoặc chưa xác định chức năng.

Tiếp đến, nhóm thực hiện khảo sát bằng kỹ thuật MLPA trên 208 trường hợp bệnh nhân Parkinson, từ đó phát hiện 5 trường hợp có mang đột biến mất/lặp đoạn ở các gene LRRK2, PRKN, PINK1.

Nhóm triển khai nhiệm vụ cũng liên hệ và thu nhận được 50 mẫu người thân của bệnh nhân, trong đó thu được 31 mẫu thân nhân của 18 trường hợp bệnh nhân mang biến thể nhóm P/LP/R và 19 mẫu thân nhân của 7 trường hợp bệnh nhân mang biến thể nhóm VUS.

"Nghiên cứu cũng đã hoàn thành kiểm tra các biến thể có liên quan cho từng mẫu thân nhân", PGS.TS.BS Mai Phương Thảo báo cáo trước hội đồng nghiệm thu.

Là một phần của nhiệm vụ, nhóm các nhà khoa học tại Đại học Y dược TP.HCM đã thiết lập quy trình kết hợp phương pháp giải trình tự thế hệ mới và kỹ thuật MLPA trong phát hiện các biến thể có quan tâm ở 20 gene mục tiêu.

Theo đó, các biến thể có liên quan tới PARKINSON ở Việt Nam tập trung phần lớn ở gene LRRK2, GBA1 và PRKN. Trong đó, biến thể R1628P trên gene LRRK2 chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Điểm đặc biệt là biến thể này không ghi nhận thấy ở người thân của bệnh nhân, qua đó cho thấy đây là biến thể dòng mầm tự phát (germline de novo variant) và có thể rất có ý nghĩa trong đánh giá nguy cơ cho dân số Việt Nam.

Vì thế, nhóm nghiên cứu cho rằng, có thể sử dụng bảng 20 gene mục tiêu giải trình tự thế hệ mới và MLPA của đề tài này trong khảo sát di truyền bệnh Parkinson, đặc biệt trên đối tượng khởi phát sớm (tuổi khởi phát ≤ 50).

Ngoài ra, nhóm triển khai nhiệm vụ đã hoàn thiện các sản phẩm như quy trình xét nghiệm gene liên quan bệnh Parkinson bằng kỹ thuật giải trình tự gene thế hệ mới; báo cáo đặc điểm di truyền học trong bệnh lý Parkinson; báo cáo kết quả về mối liên quan giữa đột biến gene với lâm sàng trong bệnh lý Parkinson.

Có thể khẳng định rằng, việc làm chủ công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới thông qua một nghiên cứu tốt sẽ góp phần tạo nên những ứng dụng cụ thể trong lâm sàng. Trong kỷ nguyên y học bộ gene, các kết quả khảo sát đa gene góp phần nhận diện sớm những người có nguy cơ cao mắc bệnh, từ đó có kế hoạch tầm soát và phát hiện kịp thời cho bệnh nhân. Chưa dừng lại ở đó, kết quả của công trình nghiên cứu sẽ tác động đến nhóm bệnh nhân Parkinson và thân nhân của họ tại Việt Nam. Bệnh nhân sẽ nhận được những tư vấn cần thiết, chọn lựa xét nghiệm phù hợp ngay trong nước với chi phí hợp lý, thủ tục thuận lợi và thời gian có kết quả nhanh chóng, chính xác.

Tại Việt Nam, hiện chưa có công bố nghiên cứu nào khảo sát toàn diện các gene liên quan đến bệnh lý Parkinson với số lượng bệnh nhân đủ lớn. Vì thế, số liệu của nghiên cứu này khi được công bố sẽ là tài liệu chính thống về phổ đột biến gene trong bệnh lý Parkinson của bệnh nhân Việt Nam, làm cơ sở ban đầu cho các chương trình quản lý bệnh nhân Parkinson. Các số liệu từ nghiên cứu cũng là nguồn tham khảo tốt cho các nhân viên y tế trong công tác tư vấn bệnh nhân Parkinson.

PGS.TS.BS Mai Phương Thảo

Cũng từ quá trình triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ này, PGS.TS.BS Mai Phương Thảo và các cộng sự đã xây dựng một đội ngũ nhân viên y tế - chuyên gia phòng thí nghiệm để tư vấn di truyền - xét nghiệm và quản lý bệnh nhân Parkinson một cách hiệu quả nhất.

Mô hình này có thể triển khai cho các chuyên ngành khác trong tương lai nhằm khai thác hiệu quả những tiến bộ khoa học - công nghệ vào công tác nghiên cứu y khoa và chăm sóc sức khỏe người dân. Bên cạnh đó, việc ứng dụng kỹ thuật giải trình tự gene thế hệ mới và kỹ thuật MLPA trong chẩn đoán sẽ hạn chế được phần nào tình trạng bệnh nhân Việt Nam phải ra nước ngoài xét nghiệm và điều trị, cũng như gián tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế trong lĩnh vực y khoa trong nước.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Y dược TP.HCM

Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, Quận 5, TP.HCM

Điện thoại: (28) 3855 8411

Website: https://ump.edu.vn

Nẹp cổ bàn chân in 3D giúp hiệu quả hơn trong điều trị vì sự chuẩn xác trong kích thước, tính thẩm mỹ cao, đồng thời mở ra cơ hội mới cho ngành sản xuất dụng cụ chỉnh hình và phục hồi chức năng trong nước nhờ năng suất cao, bảo vệ môi trường.

Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng bệnh nhân được chỉ định sử dụng dụng cụ chỉnh hình để hỗ trợ phục hồi chức năng tại các bệnh viện có xu hướng gia tăng, đặc biệt là nhu cầu sử dụng nẹp cổ bàn chân (AFO: Ankle-Foot Orthosis). Theo đó, mỗi bệnh nhân là một cá thể riêng biệt và duy nhất, vì thế nẹp cổ bàn chân cần phải được chế tạo thật chính xác, tiện lợi và phù hợp cho từng chi thể thì mới có thể giảm thời gian điều trị, nâng cao hiệu quả phục hồi chức năng cho bệnh nhân.
TS. Lê Phan Hoàng Chiêu, chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu thiết kế, chế tạo nẹp cổ bàn chân bằng công nghệ in 3D" do Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG TP.HCM) là cơ quan chủ trì, cho biết: chất lượng dụng cụ chỉnh hình ngày càng phải đáp ứng yêu cầu cá thể hóa cho bệnh nhân trong điều trị phục hồi chức năng và hướng tới tiêu chuẩn chất lượng của thế giới. Do vậy, các xưởng dụng cụ chỉnh hình trong nước cần đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu điều trị phù hợp theo xu hướng y học cá thể.

H-1.jpg

Nẹp cổ bàn chân được sản xuất thử nghiệm phục vụ nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Cũng theo lời TS. Lê Phan Hoàng Chiêu, hiện nay quy trình sản xuất dụng cụ chỉnh hình được triển khai theo phương pháp thủ công truyền thống, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu điều trị của bác sỹ. Công đoạn đo đạc còn thủ công, thiếu chính xác, dẫn đến sản phẩm chế tạo cần chỉnh sửa nhiều lần, gây khó chịu cho bệnh nhân. Chất lượng sản phẩm không đồng bộ, chưa có quy trình quản lý chất lượng sản phẩm trong các khâu gia công - sản xuất. Quy trình chế tạo phức tạp, phụ thuộc vào tay nghề của người thợ, tốn nhiều thời gian, dẫn đến năng suất còn thấp. Quá trình bó bột tạo khuôn bằng thạch cao phức tạp, gây ô nhiễm môi trường.
Nhìn chung, phương pháp sản xuất thủ công truyền thống không đáp ứng được yêu cầu về năng lực sản xuất, thời gian chế tạo và chất lượng sản phẩm, không còn phù hợp cho sự phát triển ngành công nghiệp sản xuất dụng cụ chỉnh hình trong nước.

Trong thời gian qua, công nghệ sản xuất dụng cụ chỉnh hình trên thế giới đã có những bước tiến bộ đáng kể thông qua việc sử dụng các công cụ hỗ trợ thiết kế (CAD), hỗ trợ tính toán (CAE) và hỗ trợ sản xuất (CAM) để thiết kế tùy chỉnh và chế tạo sản phẩm chính xác, phù hợp với chi thể của bệnh nhân. Tuy nhiên, cuộc cách mạng thực sự là kết quả của việc ứng dụng công nghệ tạo mẫu nhanh (in 3D) trong việc chế tạo dụng cụ chỉnh hình và tay chân giả.
Các công nghệ in 3D như FDM (in từ sợi nhựa), SLS (in từ bột nhựa) và SLA/DLP (in từ nhựa lỏng) từng bước được triển khai ứng dụng trong sản xuất dụng cụ chỉnh hình cho nhu cầu phục hồi chức năng, và đây là lĩnh vực kỹ thuật đang phát triển cũng như đầy tiềm năng trong thời gian tới.

"Chất lượng dụng cụ chỉnh hình ngày càng được nâng cao nhằm đáp ứng yêu cầu cá thể hóa cho bệnh nhân trong điều trị phục hồi chức năng và hướng tới tiêu chuẩn chất lượng của thế giới", báo cáo của nhóm triển khai nhiệm vụ phân tích, "Trong khi đó, phương pháp thủ công truyền thống không thể đáp ứng được yêu cầu về năng suất, thời gian chế tạo; và hơn hết là chất lượng dụng cụ chỉnh hình chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu điều trị của bác sỹ".

H-2.jpg

TS. Lê Phan Hoàng Chiêu báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ

Trong khi đó, theo phân tích của TS. Lê Phan Hoàng Chiêu và nhóm nghiên cứu, việc ứng dụng kỹ thuật quét 3D, công cụ hỗ trợ thiết kế CAD, CAE và công nghệ in 3D sẽ đẩy nhanh quá trình dựng lại mô hình chi thể bệnh nhân, thiết kế tùy chỉnh và chế tạo sản phẩm chính xác, phù hợp cho từng cá thể. Việc ứng dụng công nghệ in 3D cho phép rút ngắn thời gian chế tạo; đảm bảo độ chính xác; sản phẩm tiện dụng, thẩm mỹ, tạo tâm lý thoải mái, hài lòng cho bệnh nhân trong quá trình điều trị.

Sản phẩm thiết thực, hiệu quả cao
Sau thời gian làm việc nghiêm túc, nhóm các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống đã hoàn thành các nội dung quan trọng của nhiệm vụ khoa học - công nghệ, cụ thể như:
1) Xác định cấu trúc hình học và tính năng kỹ thuật của nẹp AFO;
2) Phân tích quy trình chế tạo dụng cụ chỉnh hình truyền thống làm cơ sở xây dựng quy trình chế tạo bằng công nghệ in 3D;
3) Thiết kế, chế tạo dụng cụ hỗ trợ quét để định vị vị trí vùng cẳng bàn chân trong quá trình quét chi thể bệnh nhân;
4) Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ quét và dựng hình chi thể bệnh nhân. Quét chi thể và chế tạo mô hình vùng cẳng bàn chân bằng công nghệ in 3D FDM, làm mẫu cho bác sỹ phân tích, điều chỉnh thiết kế nẹp;
5) Nghiên cứu xây dựng phương pháp và trình tự thiết kế nẹp AFO. Sử dụng các phần mềm chuyên dụng cho thiết kế nẹp AFO, khai thác chức năng hỗ trợ bác sỹ tham gia vào quá trình thiết kế dụng cụ chỉnh hình;
6) Chế tạo thử nẹp bằng công nghệ in 3D FDM, SLA, DLP với các loại vật liệu khác nhau. Kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm nẹp in 3D (tính chất cơ lý, kích thước hình học và tính thẩm mỹ), phân tích chi phí chế tạo nẹp in 3D. Chọn lựa công nghệ FDM với vật liệu PP và SLA với nhựa resin để chế tạo nẹp AFO có sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng, chi phí phù hợp với khả năng chi trả của bệnh nhân;
6) Xây dựng chế độ công nghệ in FDM với vật liệu PP và công nghệ SLA với nhựa tổng hợp resin để chế tạo nẹp AFO.

H-3B.jpg

Thiết bị định vị hỗ trợ quét lấy mẫu cẳng bàn chân

H-3C.jpg

Thử nghiệm quét 3D cẳng bàn chân tại phòng thí nghiệm

Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, nhóm đã tuyển chọn bệnh nhân, tiến hành quét chi thể, thiết kế chế tạo nẹp AFO in 3D cho 34 bệnh nhân (tại Bệnh viện Y học cổ truyền TP.HCM, và Bệnh viện Phục hồi chức năng - Điều trị bệnh nghề nghiệp TP.HCM), từ đó đánh giá hiệu quả điều trị, sự hài lòng của bệnh nhân.
Kết quả cho thấy đã có sự cải thiện đáng kể trong khả năng di chuyển của bệnh nhân, đáp ứng yêu cầu điều trị; bệnh nhân cảm thấy thoải mái khi mang nẹp và hài lòng vể mặt thẩm mỹ của sản phẩm.
Đáng chú ý, không chỉ xây dựng quy trình công nghệ chế tạo nẹp AFO bằng công nghệ in 3D đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ trong ngành sản xuất dụng cụ chỉnh hình, và triển khai sản xuất thử tại xưởng dụng cụ chỉnh hình của bệnh viện, thì nhóm triển khai nhiệm vụ cũng đề xuất phương án chế tạo nẹp theo một quy trình kết hợp: quét chi thể, chế tạo mô hình chi thể bằng công nghệ in 3D để tạo cốt dương (thay cho quá trình bó bột), sau đó sản xuất nẹp PP theo phương pháp truyền thống.
Sản phẩm chính của đề tài là nẹp AFO chế tạo bằng công nghệ in 3D có tính thẩm mỹ, mang lại sự hài lòng cho bệnh nhân, khả năng di chuyển có sự cải thiện đáng kể sau thời gian mang nẹp, đáp ứng yêu cầu điều trị của bác sỹ. Nẹp đang được các bệnh nhân sử dụng để tiếp tục điều trị phục hồi chức năng đi lại. Trong khi đó, dụng cụ hỗ trợ quét cẳng bàn chân có thể cải tiến, phát triển và thương mại hóa thành thiết bị quét, số hóa chi thể bệnh nhân trong ngành y tế.
"Quy trình này hoàn toàn có thể được dễ dàng áp dụng cho các xưởng chưa có khả năng tài chính để đầu tư máy in 3D vốn dĩ có giá khá cao", nhóm triển khai nhiệm vụ thông tin thêm.
Nhận định về hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiệm vụ, TS. Lê Phan Hoàng Chiêu cho rằng ứng dụng công nghệ in 3D trong chế tạo dụng cụ chỉnh hình góp phần nâng cao năng suất, giảm chi phí sản xuất. Sản phẩm in 3D có tính thẩm mỹ, tiện dụng, phù hợp cho từng cá thể có thể góp phần giảm thời gian và chi phí điều trị cho bệnh nhân.
"Công nghệ quét chi thể bệnh nhân, thay thế bó bột truyền thống góp phần làm giảm chi phí xử lý rác thải y tế trong bệnh viện, giúp bảo vệ môi trường", TS. Lê Hoàng Chiêu khẳng định, "Ngoài ra, quy trình chế tạo dụng cụ chỉnh hình bằng công nghệ in 3D theo hướng công nghiệp hóa được áp dụng sẽ từng bước thay thế quy trình sản xuất truyền thống, là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp dụng cụ chỉnh hình trong nước".

Quy trình công nghệ chế tạo nẹp cổ bàn chân bằng công nghệ in 3D được đăng ký sáng chế và có thể chuyển giao phục vụ đổi mới công nghệ cho các xưởng dụng cụ chỉnh hình trong nước, đặt nền tảng cho việc phát triển ngành công nghiệp sản xuất dụng cụ chỉnh hình và chân tay giả trong nước tiệm cận với trình độ thế giới.

TS. Lê Phan Hoàng Chiêu

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khẳng định rằng, việc hình thành và phát triển ngành dịch vụ chế tạo sản phẩm in 3D trong y tế đáp ứng yêu cầu phát triển y học cá thể, góp phần nâng cao chất lượng khám, chẩn đoán và điều trị, tiến đến hình thành các trung tâm in 3D ngay trong các bệnh viện tương tự như ở các nước phát triển. Ngoài ra, phương pháp quét, dựng hình chi thể bệnh nhân, thay thế bó bột truyền thống, về cơ bản góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các cơ sở y tế, và toàn xã hội.
Có thể khẳng định rằng, kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu và thông qua là động lực thúc đẩy việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ in 3D phục vụ chẩn đoán và điều trị, góp phần xây dựng ngành y tế thông minh của TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung; đồng thời xây dựng được mạng liên kết nguồn lực liên ngành để giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ liên quan.

Thông tin liên hệ:

Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Đại học Bách Khoa TP.HCM)

Địa chỉ: 268 Lý Thường Kiệt, Phường 14, Quận 10, Tp.HCM

Điện thoại: (028) 38647256

E-mail: dcselab@dcselab.edu.vn

Website: http://dcselab.edu.vn

Không chỉ giải quyết bài toán cấp thiết về rau xanh tại huyện Cần Giờ, việc phát triển rau chịu mặn có tính độc đáo được kỳ vọng trở thành sản phẩm OCOP địa phương, hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái.

Là huyện ven biển, nằm về phía Đông Nam TP.HCM, Cần Giờ là địa phương thiếu rau xanh. Nhiều thập kỷ nay, khi giao thông chưa phát triển, dân số chưa cao, người dân chủ yếu sử dụng rau rừng và một số ít loại rau tự trồng xung quanh nhà. Bên cạnh đó, người dân Cần Giờ vẫn sử dụng rau xanh được cung cấp từ nội thành TP.HCM, nhưng số lượng có hạn.

Theo các kịch bản biến đổi khí hậu - nước biển dâng, Cần Giờ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng nước mặn ngày càng lấn sâu vào nội đồng. Để đối phó với tình trạng thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn ngày càng tăng đối với đất nông nghiệp do tác động của biến đổi khí hậu, thế giới đã dần quan tâm đến “nông nghiệp nước muối” - đó là trồng các loại cây có khả năng chịu mặn (halophyte - ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi đất mặn hoặc những nơi chịu ảnh hưởng bởi nước mặn). Trong đó, có hướng tập trung vào việc sử dụng cây chịu mặn như một nguồn genne để cải thiện di truyền về tính chống chịu (stress) phi sinh học của cây trồng như chịu ngập úng, chịu hạn, chịu mặn, chịu sâu bệnh… để đối phó với tình trạng các vùng đất bị nhiễm mặn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Dai dien.jpg

Theo đó, cây trồng chịu mặn đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa nguồn thực phẩm để đảm bảo an ninh lương thực lâu dài. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 2% các loại thực vật là chịu mặn. Phần lớn thực vật không chịu được mặn, và thường bị chết do độ mặn cao. Một trong những lợi ích quan trọng nhất là cây có khả năng chịu mặn có thể trồng trên đất không sử dụng đươc cho sản xuất nông nghiệp vì nhiễm mặn. Ngoài ra, loại chịu mặn có thể phát triển trên đất cực mặn ở đất khô và có thể tưới bằng nước biển hoặc nước lợ. Bên cạnh đó còn nhiều vấn đề liên quan đến trồng trọt cây chịu mặn, chẳng hạn như thuần hóa giống cây để đạt năng suất, hương vị và phù hợp tập quán nông nghiệp tương đương với các cây trồng thông thường, hoặc tạo ra thị trường để thương mại hóa nông sản từ cây chịu mặn làm rau và thức ăn chăn nuôi.

Các nhà khoa học ở Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga chi nhánh phía Nam đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu chọn và trồng thử nghiệm một số loại rau có khả năng chịu mặn tại Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh” nhằm sưu tầm, chọn trồng thử cây có khả năng làm rau hiện đang sống trong rừng ngập mặn Cần Giờ (chứng tỏ được tính chịu mặn) trên đất nhiễm mặt tại Cần Giờ. Việc tìm kiếm và đưa vào canh tác các loại rau chịu mặn từ rừng ngập mặn Cần Giờ cũng phù hợp với chủ trương đẩy mạnh sử dụng giống cây sẵn có để đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị.

Theo TS. Vũ Mạnh (chủ nhiệm nhiệm vụ), “vựa rau tiềm năng có khả năng chịu mặn” ở Cần Giờ chính là rừng ngập mặn Cần Giờ với diện tích khoảng 35.000 ha. Nhóm thực hiện đã tìm kiếm và xác định được có 44 loại thực vật có thể làm rau, trong đó bao gồm 8 loại cây thân gỗ, 5 loại cây thân bụi, 21 loại cây thân thảo và 10 loại cây thân bò leo. Tuy nhiên, qua khảo sát từ người dân địa phương thì tần suất thu hái đối với các loại thực vật này là khác nhau, khoảng cách dao động rất lớn từ 10-100%. Trong đó, Lìm kìm và rau Bui là hai loại rau được người dân thu hái nhiều nhất với tỷ lệ 86-90%. Kế đến là các loại rau Ngót, rau Diễn, rau Bình bát dây, với tỷ lệ 64-74%. Ba loại rau khác là Điên điển, So đũa và Bồn bồn có tỷ lệ người lấy ít hơn, nhưng cũng ở mức 54-60%. Đáng chú ý, Bình bát dây chỉ được thu hoạch vào mùa khô và Bồn bồn chỉ có trong mùa mưa, còn các rau khác có thể thu hái quanh năm.

Dựa vào một số tiêu chí (được nhiều người dân tìm thu hái về dùng; tỷ lệ bắt gặp trên các tuyến khảo sát lớn; khả năng thích hợp với đất, nước nhiễm mặn của cần giờ; loại đã bắt đầu có tiếng là đặc sản của cần giờ được du khách ưa chuộng; có khả năng dễ trồng, dễ nhân giống), nhóm thực hiện đã chọn nghiên cứu, phát triển 5 loại cây gồm: rau Lìm kìm, rau Bui, rau Diễn, rau Ngót, rau Bình bát dây.

Quá trình triển khai nhiệm vụ tiếp theo nhằm giải đáp những vấn đề chi tiết như các loại rau chịu mặn được chọn trồng có đặc tính sinh thái như thế nào, kỹ thuật trồng và thu hoạch những loại rau chịu mặn ra sao, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội gì. Theo đó, nhóm thực hiện đã lấy đất nhiễm mặn tại xã Long Hòa (huyện Cần Giờ) để canh tác trồng rau. Đất được trộn với phân bón, chia thành luống. Khu vực canh tác có mái che và lắp đặt hệ thống tưới phun sương nhằm đảm bảo điều kiện cường độ ánh sáng xuống luống tương tự với cường độ ánh sáng chiếu xuống rau trong rừng.

Thuc te kiem tra.jpg

Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ kiểm tra thực tế 3 loại rau chịu mặn trồng thực nghiệm tại huyện Cần Giờ

Kết quả phân tích hàm lượng dinh dưỡng và dư lượng kim loại nặng của 5 loại cây rau (đề cập phía trên) cho thấy tất cả đều có hàm lượng Protein khá cao, từ 1,84 đến 2,97%, riêng rau Ngót đạt đến 5,24%. Các chất khoáng như K, Mg và Ca của 5 loại rau cũng ở mức khá, trong đó rau Ngót giàu K nhất với 9,395 mg/kg, thấp nhất như Bình bát dây cũng đạt 3,893 mg/kg. Rau Ngót cũng là loại giàu Ca nhất, ở mức 5,470 mg/kg so với 4 loại khác chỉ khoảng từ 1,559-6,603 mg/kg. Tất cả 5 loại rau rừng đều không phát hiện kim loại nặng. Đây là điều rất quý nếu lưu ý đến việc các loại rau này sống trên đất có hàm lượng As rất cao, vượt ngưỡng giới hạn của đất nông nghiệp. Tuy nhiên, ở yếu tố này, nhóm thực hiện đề xuất cần phải nghiên cứu thêm để đảm bảo chính xác hiện tượng cây sống trên nền As cao nhưng trong lá không có As.

Về việc ươm giống 5 loại rau, nhóm thực hiện cho biết biện pháp giâm hom thích hợp với rau Lìm kìm, rau Ngót, rau Diễn, Bình bát dây. Biện pháp gieo hạt thích hợp cho rau Bui, rau Lìm kìm, rau Bình bát dây. Riêng rau Bui, tuy ươm giống bằng chồi gốc tốt nhưng nguồn vật liệu (chồi gốc) không phong phú và thời gian nhân dài. Nếu ươm bằng hạt thì nguồn hạt phong phú hơn, thời gian ươm giống ngắn hơn. Ngoài ra, dùng hạt có thể ươm bằng vỉ như cách ươm rau hiện rất phổ biến, tiết kiệm nguyên vật liệu và không gian vườn ươm hơn phương pháp giâm chồi gốc. Sau khi trồng 90 ngày, 5 loại rau đều có tỷ lệ sống cao; trong đó thấp nhất (75%) ở rau Bình bát dây, cao nhất (97,5%) ở rau Bui.

"Điều này chứng tỏ tất cả giống rau được chọn đều sinh trưởng nhanh và chất lượng tốt. Tuy vậy, do sự đặc tính sinh học - sinh thái khác nhau, nên sinh trưởng của 5 giống rau này là khác nhau, và có sự biến động khá lớn giữa các cá thể trong cùng loại. Vì thế, căn cứ vào hàm lượng dinh dưỡng và khả năng sinh trưởng, nhóm thực hiện đề xuất chọn 3 loại rau là Lìm kìm, Diễn và Bui để xác định khả năng chịu mặn, kỹ thuật trồng, nuôi dưỡng và thu hoạch.

Rau Dien.jpg

Rau Diễn trồng thực nghiệm tại huyện Cần Giờ (ảnh chụp sáng 16/12/2023 tại buổi nghiệm thu hiệm vụ khoa học - công nghệ)

Kết quả thực nghiệm tiếp theo cho thấy, cả 3 loại rau sống được ở môi trường đất có hàm lượng muối hòa tan dưới 7‰. Thời gian thu hoạch rau vào khoảng 2 tháng sau khi trồng. Xét trên từng m2, nhận giá trị cao ở rau Diễn (0,550 kg/m2), kế đến là rau Lìm kìm (0,450 kg/m2), thấp nhất là rau Bui (0,299 kg/m2). Sản lượng của ba loại rau này biến động rất nhỏ, chứng tỏ sản lượng của ba loại rau này phân bố đòng đều trên mặt đất. Kết quả thu hoạch quy mô 1.000m2, thì sản lượng thu hoạch từ rau Bui, rau Diễn và rau Lìm kìm tương ứng đạt 300, 550 và 299 (kg/1000 m2).

Chưa dừng lại ở đó, nhóm thực hiện cũng tổng kết kinh nghiệm và biên soạn “Sổ tay Hướng dẫn kỹ thuật trồng rau chịu mặn”, ghi chú đầy đủ, chi tiết về phương pháp tạo cây con, cách thức chuẩn bị vườn rau đến phương pháp trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch ba loại rau chịu mặn (rau Lìm kìm, rau Bui và rau Diễn).

Việc tìm kiếm và đưa vào canh tác ba loại rau chịu mặn từ rừng ngập mặn Cần Giờ không chỉ là giải pháp chống chịu với nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu trong tương lai, mà trước mắt sẽ giải quyết bài toán cấp thiết về rau xanh tại Cần Giờ, đưa vào cơ cấu rau của TP.HCM .

Rau Bui (2).jpg

Rau Bui trồng thực nghiệm tại huyện Cần Giờ (ảnh chụp sáng 16/12/2023 tại buổi nghiệm thu hiệm vụ khoa học - công nghệ)

Hơn thế, việc phát triển rau chịu mặn lại có tính độc đáo, có thể trở thành sản phẩm OCOP của Cần Giờ, tạo việc làm cho người dân địa phương, lại có nguồn rau đặc sản phục vụ phát triển du lịch sinh thái. Ngoài ra, nguồn giống rau chịu mặn ở Cần Giờ cũng có thể được chọn để tăng cường nghiên cứu, phát triển nhằm canh tác được trên nhiều vủng đất nhiễm mặn khác ngoài Cần Giờ, đặc biệt tại các khu vực hải đảo.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga (chi nhánh phía Nam)

Địa chỉ: Số 3 đường 3/2, Quận 10, TP.HCM
Điện thoại: 069653800

Ngày 26/12/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã tổ chức Hội thảo Khoa học “Ứng dụng khoa học và công nghệ trong xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội TP.HCM”. Hội thảo đã thu hút hơn 1.000 đại biểu là đại diện tới từ các trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức và cá nhân quan tâm đến tham dự trực tiếp tại số 244 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM và theo dõi trực tuyến trên nền tảng Facebook - https://www.facebook.com/DOSTHCM.

27122023ht.jpg

Đại biểu tham dự Hội thảo Khoa học "Ứng dụng khoa học và công nghệ trong xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội TP.HCM” trực tiếp tại trụ sở của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa Học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, việc chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn hiện đang trở thành xu hướng toàn cầu. Trong bối cảnh Việt Nam nói chung và TP.HCM phải đối mặt với nhiều thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu cũng như yêu cầu tất yếu cần thực hiện các Hiệp định, Thỏa thuận quốc tế đã cam kết về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do, thì kinh tế tuần hoàn được xác định là giải pháp tối ưu hướng đến một nền kinh tế xanh - tăng trưởng kinh tế hài hòa cùng lợi ích xã hội và môi trường. 

Hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn vừa qua của Thành phố đã đạt nhiều thành tựu, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Từ 2016 đến 2022, kinh tế của Thành phố phát triển mạnh, với GRDP tăng trung bình 5,47%, đóng góp hơn 17% vào GDP quốc gia và 26,2% vào tổng thu ngân sách Nhà nước. Thành phố đã đầu tư 13.657 tỷ đồng vào khoa học và công nghệ chiếm 2,55% ngân sách, tuân theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ. Trong số này, 4.628 tỷ đồng dành cho sự nghiệp khoa học và công nghệ và 9.028 tỷ đồng cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Chỉ số TFP tăng mạnh, đạt trung bình 46,7%, với 74% đóng góp từ khoa học và công nghệ. Năng suất lao động của Thành phố cao gấp 2 lần so với cả nước và năng suất lao động trong doanh nghiệp công nghệ cao vượt trội, gấp 1,67 lần so với mức chung của Thành phố.

Trong giai đoạn 2020-2025, với mục tiêu xây dựng Thành phố thông minh và bền vững, giữ vị thế đầu tàu kinh tế quốc gia, Thành phố định hướng triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn và kinh tế chia sẻ, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tuy nhiên, việc áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn hoàn chỉnh hiện nay vẫn là một thách thức lớn. Hiện nay, Thành phố cũng chỉ xuất hiện đơn lẻ một số mô hình gần với kinh tế tuần hoàn, điển hình như: mô hình 3R và Quỹ Tái chế chất thải, Chương trình giảm ô nhiễm môi trường, sáng kiến Không xả thải ra thiên nhiên. Dù thông tin còn hạn chế, nhưng có thể nhận thấy các hoạt động chủ yếu tập trung vào bảo vệ môi trường, chưa chuyển hóa thành hoạt động kinh tế có lợi ích cụ thể.

27122023HT1.jpg

TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa Học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Hội thảo

Cũng theo, TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa Học và Công nghệ TP.HCM, để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực và nền tảng xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta cần:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn cho các đối tượng liên quan, với việc phát triển chiến lược truyền thông giáo dục về trách nhiệm đối với sản phẩm, nâng cao ý thức phân loại rác tại nguồn để hỗ trợ quá trình tái sử dụng và tái chế.

Thứ hai, xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng để hỗ trợ sự hình thành và phát triển của kinh tế tuần hoàn, từ chủ trương của Đảng đến pháp luật Nhà nước, đặt ra chính sách khuyến khích áp dụng mô hình này.

Thứ ba, có lộ trình và ưu tiên trong phát triển kinh tế tuần hoàn dựa trên nhu cầu thị trường và xã hội. Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là giải quyết chất thải nhựa và túi nilon trong 5 năm tới. Cần áp dụng mô hình hiệu quả cho chất thải nhựa và túi nilon, sau đó mở rộng cho các ngành sản xuất khác với cách tiếp cận từ nguyên liệu.

Thứ tư, phát triển kinh tế tuần hoàn cần phải dựa trên các mô hình kinh tế gần với cách tiếp cận kinh tế tuần hoàn, từ đó bổ sung hoàn thiện và có sự lựa chọn phù hợp cho từng ngành, lĩnh vực từ thí điểm đến triển khai nhân rộng. Cần có nghiên cứu đánh giá đúng các ngành, lĩnh vực có khả năng tiếp cận tốt nhất trong một chiến lược tổng thể chung về phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn.

Thứ năm, tạo cơ chế để hình thành động lực thị trường, xác lập rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn. Có cơ chế chính sách cho phát triển công nghệ sạch, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải, …

Thứ sáu, gắn liền thực hiện kinh tế tuần hoàn với phát triển công nghệ, kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0. Việc tích cực nghiên cứu và tạo ra các công nghệ thay thế là một yếu tố đặc biệt cần được chú trọng. Công nghệ mới sẽ giúp việc thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn hiệu quả.

Thứ bảy, tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và đang thực hiện thành công kinh tế tuần hoàn, từ đó chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến phục vụ cho quá trình chuyển đổi trong nước.

“Mục tiêu của Hội thảo ngày hôm nay nhằm định hướng cho doanh nghiệp, trường, viện phát huy đầy đủ vai trò của khoa học và công nghệ trong việc nghiên cứu, xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội TP.HCM. Cũng như, đẩy mạnh vai trò của khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng các chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn Thành phố. Đồng thời, phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ Thành phố trong thời kỳ chuyển đổi số phục vụ phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn Thành phố. Do đó, chúng tôi muốn lắng nghe, ghi nhận những ý kiến trao đổi của các chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp về giải pháp, cách thức nhằm xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội TP.HCM. Thay mặt Ban tổ chức Hội thảo, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường, viện, doanh nghiệp và đặc biệt cảm ơn các chuyên gia đã viết bài tham luận và đến tham dự Hội thảo ngày hôm nay”, TS. Lê Thanh Minh nêu kỳ vọng.

Tại buổi Hội thảo Khoa học, 4 báo cáo tham luận đã được Ban tổ chức lựa chọn để trình bày với các chủ đề gồm:

- “Vai trò đổi mới sáng tạo trong thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Một số đề xuất với TP.HCM” của PGS.TS Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tuần hoàn (ICED), Đại học Quốc gia TP.HCM.

- “Giải pháp cần thiết và đồng bộ tạo sự đột phá từ tư duy đến hành động về kinh tế tuần hoàn trong các trường Đại học và các doanh nghiệp TP.HCM” của Chuyên gia kinh tế Nguyễn Hoàng Dũng, Chủ tịch Công ty Đào tạo lãnh đạo và Dịch vụ phát triển bền vững SDLT, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển bền vững TP.HCM - IRSH.

“Đề xuất Mô hình Kinh tế Tuần hoàn Sinh học Nông - Lâm (Cricular Bioeconomy) áp dụng tại TP.HCM” của Mr Tim Nguyen - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng và Đổi mới Sáng tạo Doanh nghiệp (3AI).

“Tài trợ tài chính cho mô hình kinh doanh tuần hoàn trong doanh nghiệp” của TS. Phạm Hồng Hải - Giảng viên chính Khoa Quản trị Kinh doanh, trường Đại học Tài chính Marketing, Giám đốc Trung tâm phát triển bền vững thuộc Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam.

Được biết, trước thềm Hội thảo Khoa học “Ứng dụng khoa học và công nghệ trong xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội TP.HCM”Ban tổ chức cũng đã nhận được 23 bài tham luận và đã xây dựng thành kỷ yếu. Toàn văn kỷ yếu xem TẠI ĐÂY.

Nhật Linh (CESTI)

Hệ thống buồng áp lực âm dã chiến với khả năng vận hành linh hoạt, tích hợp công nghệ vận hành - điều khiển từ xa qua IoT, nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Đại học Y dược TP.HCM triển khai đã mở ra hướng tiếp cận mới cho ngành y tế trong việc nâng cao khả năng bảo vệ cán bộ y tế lẫn người bệnh, đặc biệt trong các môi trường, điều kiện khó triển khai các buồng áp lực âm cố định và khi xảy ra các tình huống, trường hợp dịch bệnh khẩn cấp.

Trước thực tế đội ngũ nhân viên y tế và bệnh nhân luôn cần được trang bị những biện pháp phòng chống lây nhiễm - lây chéo trong suốt quá trình thăm khám - điều trị, đặc biệt đối với nguồn bệnh liên quan đến hô hấp hay truyền nhiễm; các nhà khoa học tại Đại học Y dược TP.HCM và Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG TP.HCM) đã phối hợp triển khai một số nhiệm vụ khoa học - công nghệ mang tính thực tiễn cao, trong đó có nhiệm vụ "Xây dựng giải pháp tổng thể về hệ thống bảo vệ an toàn nhân viên y tế, người bệnh trong các cơ sở điều trị tại Việt Nam".

Kết hợp triệt hai nhiệm vụ trước đó là "Nghiên cứu thiết kế và chế tạo module container cách ly điều trị áp lực âm dã chiến cho bệnh nhân Covid áp dụng trong bệnh viện tuyến đầu chống dịch", và "Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo module container đệm cách ly, tự động khử khuẩn bề mặt áp dụng trong bệnh viện dã chiến" do Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Đại học Bách Khoa TP.HCM) là đơn vị chủ trì, PGS.TS Phạm Lê An và các cộng sự tại Trung tâm Hỗ trợ dự án và Đổi mới sáng tạo - Đại học Y dược TP.HCM đã giải quyết vấn đề lây nhiễm chéo giữa nhân viên y tế và bệnh nhân thông qua xây dựng giải pháp tổng thể để giải quyết sự thiếu hụt giường bệnh, đồ bảo hộ cá nhân…  trong trường hợp hệ thống y tế quá tải vì số lượng bệnh nhân tăng cao từ tình trạng lây nhiễm chéo, lây rộng trong cộng đồng.

Nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Đại học Y dược TP.HCM triển khai cũng đã gián tiếp giải quyết các bài toán như triển khai phòng sạch cho y tế di động, đặc biệt là về các vấn đề xử lý không khí, vi sinh bề mặt.

H1-chinh thuc.jpg

PGS.TS Phạm Lê An báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Ngoài ra, nhóm triển khai nhiệm vụ đã hoàn thiện việc nghiên cứu, cải tiến và chế tạo đồ bảo hộ PAPR cho nhân viên y tế với bộ lọc HEPA 13, tích hợp quạt hút sử dụng pin có công suất đủ lớn cho lưu lượng (không khí) trên 170 lít/phút với tiếng ồn nhỏ hơn 80dB và thời gian sử dụng trên 4 giờ, giúp thoải mái khi phải mặc trong thời gian dài; cùng với đó là Hệ thống mặt nạ bộ lọc N95 cải tiến từ mặt nạ lặn, mặt nạ che nửa mặt, mặt nạ kín mặt, và mặt nạ trùm đầu cho nhân viên y tế; Mặt nạ cho bệnh nhân sử dụng hệ thống NIV/HFNO cải tiến từ mặt nạ lặn có sử dụng lọc HEPA tiêu chuẩn N95 chống lan tỏa sol khí (đơn cử như sol khí có SAR-Cov-2) ra môi trường xung quanh; và Mặt nạ cho bệnh nhân thở hệ thống oxy lưu lượng cao cải tiến từ mặt nạ lặn.

H1-2.jpg
Mặt nạ với hệ thống làm mát khép kín cho nhân viên y tế

Đáng chú ý, hệ thống PAPR mặt nạ N95 cải tiến có bơm khí và bộ lọc cho nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân, bao gồm 4 loại mặt nạ: nửa mặt, kín mặt, trùm đầu, mặt nạ lặt. Mặt nạ phòng độc có khả năng điều chỉnh lưu lượng cấp khí đầu vào. Kiểm định tại các cơ quan hữu quan cho thấy, sản phẩm đạt tiêu chuẩn tương đương với mặt nạ bảo vệ hô hấp 3M (nhập ngoại), nhưng giá thành hợp lý hơn, chỉ bằng 1/10.

Nhận định về hiệu quả về kinh tế xã hội của nhiệm vụ, PGS.TS Phạm Lê An khẳng định sản phẩm có khả năng ứng dụng cao trong lĩnh vực tổ chức xây dựng các hệ thống bệnh viện - phòng khám dã chiến lưu động mang yếu tố khẩn cấp và nhanh chóng, đem lại hiệu quả kinh tế cao so với việc xây dựng các hệ thống phòng cách ly áp lực âm cố định tại một hay nhiều các khu vực điều trị. Có tính ứng dụng thực tế cao khi đồng thời giải quyết hai bài toán về việc module hóa, tạo tính di động cho các buồng cách ly áp lực âm truyền thống và đảm bảo các tiêu chí về nhiệt độ, độ ẩm, thông khí, áp suất và an toàn vi sinh khi áp dụng ở các khu vực tuyến đầu dịch bệnh ở nhiều điều kiện khí hậu khác nhau, tại nhiều địa phương; cũng như hạn chế lây lan do sử dụng NIV/HFNO cho người bệnh (ví dụ bệnh nhân COVID) thông qua PAPR cho nhân viên y tế và mặt nạ có bộ lọc HEPA cải tiến từ mặt nạ lặn, mặt nạ phòng độc sẵn có…

H2-Tho Kin (3).jpg

Thử nghiệm thở kín bằng Mặt nạ sử dụng hệ thống NIV/HFNO cải tiến từ mặt nạ lặn có sử dụng lọc HEPA tiêu chuẩn N95 chống lan tỏa sol khí (đơn cử như sol khí có SAR-Cov-2) ra môi trường xung quanh, và Mặt nạ thở hệ thống oxy lưu lượng cao cải tiến từ mặt nạ lặn tại bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM

"Kể cả khi dịch bệnh qua đi, đề tài vẫn có khả năng được ứng dụng trong việc vận chuyển đến những địa điểm vùng sâu vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển hoặc không có đủ điều kiện để xây dựng mới hoàn toàn một phòng áp lực âm, phòng sạch đúng tiêu chuẩn cho hệ thống bệnh viện khu vực", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ nhấn mạnh.

H-2-1 goc buong cach ly ap luc am.jpg

Một góc container cách ly điều trị áp lực âm phục vụ điều trị, phòng chống dịch liên quan đến các bệnh truyền nhiễm, hô hấp

Đánh giá về tính hiệu quả của 3 nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên, GS.TS.BS Đặng Vạn Phước (Khoa Y, ĐHQG TP.HCM) - Chủ tịch Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ cho rằng, đây là nhóm đề tài có sự phối hợp giữa bên y tế với kỹ thuật là vấn đề nghiên cứu các biện pháp tổng thể và cụ thể trong bảo vệ an toàn của nhân viên y tế và bệnh nhân trong các cơ sở y tế.

"Đây là một đề tài hay và có ý nghĩa rất lớn về tính chất chiến lược và tổng thể. Đề tài đã tính tới những nguyên tắc, những phương pháp nhằm bảo vệ sự an toàn cho các nhân viên y tế và cả bệnh nhân trong các cơ sở kinh tế, đặc biệt khi có dịch bệnh", GS.TS.BS Đặng Vạn Phước nhấn mạnh, "Đây là lúc mà chúng ta nên đề cập tới những vấn đề có tính chất nhân văn nghề nghiệp để bảo vệ những người ở làm công tác y tế, đồng thời trên cơ sở đó cũng bảo vệ cho bệnh nhân vì khi bệnh nhân đi tới các cơ sở y tế vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm, lây chéo,... còn cán bộ y tế, khi tham gia chống dịch hoặc ở những nơi có các bệnh lây lan, truyền nhiễm nguy hiểm, khi đó họ cần phải có những điều kiện để được bảo vệ vì như chúng ta đã thấy khi dịch bệnh, bản thân nhữngi nhân viên y tế, điều dưỡng, bác sĩ cũng bị lây bệnh và cũng đã có những người tử vong vì bệnh tật".

Cũng theo lời GS.TS.BS Đặng Vạn Phước, nhiệm vụ vừa được nghiệm thu và thông qua rất có giá trị, giúp đội ngũ cán bộ y y yế lẫn bệnh nhân thêm sự yên tâm. Bởi lẽ, nếu có những bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp hoặc những bệnh dịch thì nhân viên y tế sẽ tham gia phòng dịch và chống dịch với sự tin tưởng và an tâm hơn, không những cho cá nhân họ mà cho cả gia đình, hệ thống y tế nói riêng và toàn xã hội nói chung.

Có thể khẳng định rằng, cùng với hệ thống buồng áp lực âm dã chiến với khả năng vận hành linh hoạt, tích hợp công nghệ vận hành - điều khiển từ xa qua IoT, đảm bảo quy định lưu thông một chiều trong suốt quá trình vận chuyển bệnh nhân - thăm khám, cung cấp vật tư yế, đồng thời tránh tiếp xúc tối đa giữa nhân viên y tế (bác sỹ, điều dưỡng) với bệnh nhân cũng như giữa nhân viên y tế ở các bộ phận với nhau, thì nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Đại học Y dược TP.HCM triển khai đã mở ra hướng tiếp cận mới ngành y tế trong việc nâng cao khả năng phục vụ xã hội, đặc biệt trong các môi trường, điều kiện khó triển khai các buồng áp lực âm cố định và khi xảy ra các tình huống, trường hợp dịch bệnh khẩn cấp.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Y dược TP.HCM

Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, Quận 5, TP.HCM

Điện thoại: (28) 3855 8411

Email: phamlean@ump.edu.vn - gic@ump.edu.vn

Website: https://ump.edu.vn

 

Phòng thí nghiệm Trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Đại học Bách Khoa TP.HCM)

Địa chỉ: 268 Lý Thường Kiệt, Phường 14, Quận 10, Tp.HCM

Điện thoại: (028) 38647256

E-mail: dcselab@dcselab.edu.vn

Website: http://dcselab.edu.vn
TP.HCM sẽ tạo điều kiện để giới trẻ tham gia tổ chức sự kiện khởi nghiệp để mang đến trải nghiệm tuyệt vời, tạo dựng sự tự tin và dũng khí để họ mạnh dạn tiến bước khởi nghiệp.

Ngày 20/12/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã có buổi làm việc với ông Peter Vesterbacka (Chủ tịch kiêm đồng sáng lập Finest Future) về thúc đẩy hợp tác khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Trao đổi tại buổi làm việc, ông Peter Vesterbacka chia sẻ sức hút từ các tập đoàn, công ty công nghệ lớn là không thể tránh khỏi, nên người trẻ cần nhiều điều kiện hơn để tham gia hoạt động khởi nghiệp. Theo đó, sự kiện khởi nghiệp Slush được tổ chức vào tháng 11 hàng năm với mong muốn thay đổi nhận thức, tầm nhìn của người tham gia, tuy không thực sự nổi trội về thời điểm nhưng đã để lại nhiều dấu ấn, sự nổi bật cũng như chất riêng ở quy mô toàn cầu.

FinestFuture1.jpg

Không chỉ thu hút được nhiều nhà đầu tư tham dự vì nhiều tiềm năng, điều khác biệt ở Slush là có sự chung tay tổ chức và đóng góp nhiều của các bạn trẻ ở độ tuổi Đại học và Trung học, đến từ 160 quốc gia khác nhau, trung bình khoảng 1.600 tình nguyện viên. Slush tạo điều kiện cho tình nguyện viên tham gia công việc tổ chức sự kiện, trải nghiệm và học hỏi kinh nghiệm từ chính công việc đó. Với những trải nghiệm, kinh nghiệm này, sau đó người trẻ có đủ tự tin và dũng khí để mạnh dạn tạo dựng công ty khởi nghiệp riêng của mình, hoặc góp phần chung tay xây hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Theo đó, ông Peter Vesterbacka gửi lời mời người trẻ ở TP.HCM tham dự sự kiện khởi nghiệp Slush 2024, đồng thời mong muốn hợp tác với Thành phố trong hoạt động tổ chức sự kiện khởi nghiệp quy mô quốc tế và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp.

Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) đã gửi lời cảm ơn đến ông Peter Vesterbacka. Theo ông Nguyễn Việt Dũng, Thành phố có mối quan hệ tốt với chính quyền Helsinki và Chính phủ trong nhiều năm nay, hàng năm đều có các hoạt động kết nối khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giữa doanh nghiệp và startup giữa hai bên. Trong thời gian sắp tới, ông Nguyễn Việt Dũng mong muốn Finest Future sẽ hướng dẫn tổ chức thực hiện sự kiện khởi nghiệp tương tự ở TP.HCM ở những quy mô khác nhau. Hơn thế, Thành phố mời gọi khu vực tư nhân và đối tác quốc tế cùng chung tay tham gia hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo để người trẻ có cơ hội tự học hỏi và trải nghiệm thông qua các chương trình huấn luyện, đào tạo, tổ chức sự kiện…

FinestFuture2.jpg

Ông Peter Vesterbacka đánh giá cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ của TP.HCM, đề xuất cổ vũ tạo cơ hội cho các bạn trẻ trải nghiệm, bắt tay vào khởi nghiệp với định hướng quy mô quốc tế chứ không giới hạn trong phạm vi khu vực, quốc gia. Ông Peter Vesterbacka hứa sẽ có sự kết hợp giao thoa giữa người trẻ 2 bên để cùng học hỏi, làm việc chung, đặc biệt là sự góp mặt hỗ trợ của những bạn trẻ Việt Nam từng tham gia các sự kiện Slush trước đây.

Hoàng Kim (CESTI)

Chiều 20/12, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức sự kiện kết nối sáng tạo với chủ đề "Xây dựng ứng dụng quản lý trường học, lớp học LMS thống nhất trong toàn ngành, thí điểm tại Thành phố Thủ Đức".

Theo bà Nguyễn Thị Thu Sương (Phòng Quản lý khoa học, Sở KH&CN TP.HCM), sự kiện nằm trong chuỗi các sự kiện Inno-coffee năm 2023 nhằm kết nối, tìm kiếm các đơn vị xây dựng ứng dụng quản lý trường học, lớp học LMS thống nhất trong toàn ngành, phục vụ chuyển đổi số trong hoạt động quản lý giáo dục. TP.HCM đã xác định chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục như một giải pháp mũi nhọn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và khả năng cạnh tranh của địa phương. Do đó, việc xây dựng, phát triển ứng dụng cần đáp ứng các nội dung quản lý lớp học, phân công giáo viên, thời khóa biểu; danh bạ toàn ngành, hệ thống tin nhắn OTT chỉ đạo toàn ngành giáo dục, có thể phân theo nhóm; hệ thống camera an ninh, kết nối toàn ngành; tổ chức dạy học trực tuyến, giao nhiệm vụ học tập cho học sinh; thông tin kết quả học tập đến phụ huynh học sinh - ứng dụng tin nhắn OTT; kết hợp các báo cáo số liệu dựa theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo; tổng hợp thông tin nhanh, tin nóng liên quan đến lĩnh vực giáo dục.

01HDKHLVketnoisangtaoLMSh6.jpg

Bà Nguyễn Thị Thu Sương (Phòng Quản lý khoa học, Sở KH&CN TP.HCM) phát biểu tại sự kiện 

Tại sự kiện, ông Đoàn Đức Quý (Phòng Giáo dục và Đào tạo TP. Thủ Đức) đã trình bày bài toán đặt hàng Xây dựng ứng dụng quản lý trường học, lớp học LMS thống nhất trong toàn ngành (phiên bản desktop và ứng dụng mobile). Bên cạnh đó, các chuyên gia, đại diện doanh nghiệp cũng trình bày các báo cáo tham luận như Thực trạng và giải pháp chuyển đổi số ngành giáo dục; Mô hình lớp học thông minh Teamie Classroom.

Theo ông Đoàn Đức Quý, hiện nay TP. Thủ Đức có tổng cộng 34 phường với hơn 1,3 triệu dân, trong đó có hơn 700 đơn vị giáo dục với số lượng cán bộ quản lý giáo dục chỉ gần 40 người. Về cơ sở vật chất, 100% các trường trong hệ thống công lập đều có máy tính, có kết nối mạng internet tốc độ cao, máy tính có cấu hình cơ bản đủ đáp ứng cho việc số hoá các tài liệu giáo dục. Các cơ sở giáo dục đều có phần mềm quản lý học sinh, nhân sự, tài chính, thư viện,… Tuy nhiên, hệ thống trường lớp tương đối lớn, lực lượng cán bộ công nghệ thông tin chuyên trách của các cơ sở giáo dục chưa đầy đủ, đa phần kiêm nhiệm,… dẫn đến khó khăn trong việc cập nhật dữ liệu trên các hệ thống quản lý. Các phần mềm đang triển khai đơn lẻ, chưa có sự liên kết, chia sẻ dữ liệu; các dữ liệu còn manh mún, rời rạc, chưa được chuẩn hóa và thống nhất, chưa liên thông được với nhau, gây khó khăn trong công tác nhập liệu, tổng hợp báo cáo phục vụ quản lý giáo dục. Do vậy, rất cần một hệ thống chung ứng dụng công nghệ để quản lý dễ dàng hơn, giảm áp lực cho đội ngũ quản lý.

01HDKHLVketnoisangtaoLMSh2.jpg

Ông Đoàn Đức Quý (Phòng Giáo dục và Đào tạo TP. Thủ Đức) trình bày nội dung "đặt hàng" về ứng dụng quản lý trường học  

Cụ thể, phần mềm quản lý cần đáp ứng các nhu cầu sử dụng thực tế hiện tại như nhất quán các thuật ngữ, cấu trúc chức năng,... trong toàn bộ phần mềm; có tính mở, thuận tiện cho việc bảo trì, phát triển; quản trị hệ thống đơn giản và mạnh mẽ cho người điều hành trong việc thêm bớt user, cấp phát quyền, quản trị theo nhóm. Ngoài ra, cung cấp các tiện ích phục vụ cho người sử dụng; hỗ trợ khả năng phân quyền chi tiết chức năng người dùng; các thông tin được lưu trữ trong thời gian dài; hệ thống biểu mẫu báo cáo mở; các biểu mẫu báo cáo động, tùy biến theo yêu cầu của từng cấp quản lý; hệ thống tra cứu thuận tiện; giao diện thân thiện thuận tiện cho người dùng phổ thông; kết nối với hệ thống IOC của Thành phố Thủ Đức;…

01HDKHLVketnoisangtaoLMSh1.jpg

Các nhà nghiên cứu, đại diện doanh nghiệp trình bày tham luận, chia sẻ ý kiến, đề xuất giải pháp, thảo luận tại sự kiện

Ông Quý chia sẻ thêm, TP. Thủ Đức luôn chú trọng, quan tâm việc triển khai ứng dụng khoa học công nghệ trong tất cả các lĩnh vực, nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn, chất lượng đội ngũ nhân lực cũng như công tác quản lý, lãnh đạo trên địa bàn. Thông qua sự kiện này, TP. Thủ Đức đặt hàng các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp về giải pháp chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục để triển khai áp dụng trong toàn ngành, hỗ trợ giải quyết tốt nhất bài toán trong quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và học.

01HDKHLVketnoisangtaoLMSh5.jpg

Các ý kiến trình bày, chia sẻ, đề xuất tại sự kiện cũng cho rằng, thực trạng hiện nay tại TP.HCM, việc chuyển đổi số giáo dục đang ở mức độ đơn giản là số hóa dữ liệu phục vụ quản lý, vẫn còn những khó khăn trong quá trình kết nối, liên thông dữ liệu, sai sót dữ liệu, các đơn vị vẫn còn rất thận trọng trong việc đổi mới… Do đó, từ việc "đặt hàng" của TP. Thủ Đức, các đơn vị có thể mạnh dạn hơn khi tiếp cận vấn đề chuyển đổi số trong giáo dục. Ngành giáo dục có thể tìm kiếm các giải pháp công nghệ đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số, giải quyết các vấn đề như số hóa toàn bộ dữ liệu trong nhà trường, giảm thời gian làm việc thủ công của cán bộ công nhân viên, tạo kênh thông tin liên lạc chính thống giữa phụ huynh và nhà trường, quản lý vận hành nhà trường, lớp học một cách chuyên nghiệp, thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, có thể tiếp cận các giải pháp giáo dục hướng đến các mô hình giáo dục thông minh, chuyển đổi số làm thay đổi môi trường học tập, thay đổi phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, giúp người học chủ động tương tác và tìm kiếm tri thức; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong đổi mới phương thức quản trị cơ sở giáo dục và quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng tinh gọn, hiệu quả, minh bạch…

01HDKHLVketnoisangtaoLMSh7.jpg

Lam Vân (CESTI)

Ban tổ chức đã trao giải thưởng cho 6 sinh viên xuất sắc nhất trong tổng số 256 thí sinh tham gia dự thi. Đây là cuộc thi trực tuyến lần đầu tiên tổ chức với chủ đề năng suất, chất lượng.

Ngày 20/12/2023, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) phối hợp cùng Công ty CP Năng Suất Xanh tổ chức lễ trao giải Cuộc thi tìm hiểu về năng suất, chất lượng trong khối sinh viên tại trường đại học.  

Theo bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM), cuộc thi nhằm góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của năng suất, chất lượng, cũng như khuyến khích sinh viên phát huy tinh thần học hỏi, sáng tạo. Cuộc thi được phát động từ tháng 11/2023, đã thu hút 368 sinh viên tại các trường đại học ở khu vực phía Nam đăng ký dự thi. Đây là con số khá ấn tượng cho cuộc thi trực tuyến lần đầu tiên tổ chức với chủ đề năng suất, chất lượng. Những bạn sinh viên đạt giải trong cuộc thi là những người đã nỗ lực, cố gắng, thể hiện được kiến thức, tư duy và ý chí ham học hỏi. Qua đó cho thấy những tín hiệu tích cực, hứa hẹn tạo tiền đề cho công tác nâng cao năng suất chất lượng ngày càng thêm gần gũi, dễ tiếp cận hơn trong khối sinh viên tại các trường đại học, đóng góp cho phong trào năng suất chất lượng quốc gia.

MNHDKH2012okh1.jpg

Bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) trao giải nhất, nhì, ba tại cuộc thi

Cụ thể, ban tổ chức đã trao giải nhất (2.000.000 đồng) cho sinh viên Lê Nguyễn Anh Thư (Đại học Tài Chính - Marketing); giải nhì (1.500.000 đồng) và giải ba (1.000.000 đồng) lần lượt được trao cho Nguyễn Thị Thủy (Đại học Sài Gòn) và Cao Phước Anh (Đại học Kinh tế - Tài chính). Ngoài ra, còn có 3 giải khuyến khích (mỗi giải trị giá 500.000 đồng) được trao cho sinh viên Hồ Thị Thúy Hằng, Nguyễn Hồng Ngọc Ánh (Trường Đại học Kinh tế Luật - ĐH Quốc gia TP.HCM) và Đoàn Mạnh Tất (đến từ Đại học Bách Khoa - ĐH Quốc gia TP.HCM).

Được biết, cuộc thi nhằm tạo ra sân chơi bổ ích có thể giúp sinh viên các trường đại học có thêm cơ hội tìm hiểu kiến thức về năng suất, chất lượng, qua đó từng bước tiếp cận Chương trình Quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030. Cuộc thi diễn ra bằng hình thức trực tuyến, được Sở Khoa học và Công nghệ mở link vào ngày 09/12/2023 cho các thí sinh tham gia tranh tài, với bộ đề thi gồm 100 câu hỏi trắc nghiệm, làm bài trong vòng 40 phút. Nội dung cuộc thi xoay quanh việc tìm hiểu kiến thức về năng suất, chất lượng; các hệ thống quản lý; công cụ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa nước ta hiện nay.

MNHDKH2012okh2.jpg

Ông Phạm Ngọc Tuấn (Tổng Giám đốc Công ty CP Năng Suất Xanh) trao giải khuyến khích tại cuộc thi

Ông Phạm Ngọc Tuấn (Tổng Giám đốc Công ty CP Năng Suất Xanh) đánh giá, cuộc thi đã đạt được thành công ngoài mong đợi, thể hiện sự quan tâm và hứng thú của các bạn sinh viên dành cho lĩnh vực còn khá mới mẻ là năng suất, chất lượng. Ông Tuấn cũng mong muốn mở rộng và phát triển cuộc thi trong các năm tiếp theo, có thể bao gồm các hạng mục và phần thưởng mới để khuyến khích các bạn sinh viên nghiên cứu sâu rộng hơn về năng suất và chất lượng. Việc tăng cường nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của năng suất và chất lượng sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Minh Nhã (CESTI)

Đây là giải pháp giải quyết vấn đề thoái hóa nuôi nhân sinh khối rễ ở quy mô sản xuất công nghiệp, cung ứng nguồn rễ tơ Ké hoa đào phục vụ sản xuất dược liệu.

Trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, nhiều công bố nghiên cứu của thế giới đã chứng minh ưu điểm nổi bật về các hoạt tính sinh học của cây Ké hoa đào, đặc biệt là rễ của loài thực vật này. Rễ tơ Ké hoa đào có khả năng ức chế enzyme α-glucosidase; chống oxi hóa và kháng khuẩn rất cao, có thể hướng đến việc sử dụng làm thảo dược đặc trị bệnh tiểu đường tuýp 2 mà ít tác dụng phụ. Nuôi cấy rễ thực vật nói chung, hay rễ tơ Ké hoa đào nói riêng, luôn hướng tới mục đích sau cùng là thu nhận được những hợp chất tự nhiên có giá trị. Tuy nhiên, để thu nhận các hợp chất tự nhiên ở hiệu suất cao thì trước tiên luôn cần tối ưu các quy trình nuôi cấy nhằm chủ động sản xuất, cung ứng các nguồn dược liệu quý mà không phụ thuộc vào các loài thực vật ngoài tự nhiên, lại đảm bảo thu được nguồn sinh khối lớn.

Ở rễ tơ, sự ổn định di truyền nhiễm sắc thể luôn được coi là thế mạnh so với nuôi cấy mô sẹo, huyền phù tế bào hay rễ bất định. Tuy nhiên, sự bất ổn định của rễ tơ nuôi cấy vẫn còn cao (khoảng 10%). Thêm vào đó, việc nuôi cấy liên tục rễ tơ rất mất thời gian, tốn kém và có thể gây ra sự mất ổn định kiểu hình và kiểu genne của rễ tơ. Đặc biệt, việc tạo ra và chọn lọc một dòng rễ tơ tiềm năng trong hàng trăm dòng dễ tơ khác từ cùng một loài thực vật là vô cùng tốn kém và hao tốn thời gian. Thêm vào đó, tỷ lệ thay đổi di truyền tính trạng biểu sinh (epigenneetic) có thể gia tăng trong quá trình nuôi cấy nhiều lần liên tục gây ra sự mất dần khả năng tái sinh cũng như tổng hợp chất thứ cấp.

Được biết, hai công ty sử dụng rễ tơ làm dược liệu có quy mô sản xuất lớn trên thế giới là CBN BIOTECH (Hàn Quốc) và ROOTec (Thụy Sỹ) cũng từng báo cáo là gặp phải một số vấn đề tương tự như sự thoái hóa di truyền nguồn mẫu làm giảm hiệu suất thu nhận hoạt chất trong quá trình khai thác, nên phát triển một quy trình bảo quản lâu dài nhằm lưu trữ sự toàn vẹn các đặc tính dòng rễ tơ cao năng là điều vô cùng cần thiết. Mặt khác, khi rễ tơ được bảo quản tại điều kiện nhiệt độ thấp, các rủi ro gặp phải như là sự hình thành các tinh thể nước đá trong mô, mẫu bị tổn thương do tiếp xúc với các chất độc trong bảo quản đã gây ra nhiều bất lợi trong quá trình lưu trữ. Do đó, cần có bước nghiên cứu đặc tính loài thực vật mục tiêu và thử nghiệm các quy trình bảo quản nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro, nguồn rễ tơ sau tái sinh sẽ vẫn duy trì được tính ổn định di truyền cũng như hàm lượng các hợp chất thứ cấp có giá trị.

Chính vì vậy, nhóm nhà khoa học đang công tác tại Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu chọn lọc, sản xuất và bảo quản lạnh sâu các dòng rễ tơ Ké hoa đào (Urena lobata L.) có hàm lượng imperatorin cao”.

H-1.jpg

PGS.TS Quách Ngô Diễm Phương báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ

PGS.TS Quách Ngô Diễm Phương, chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết mục đích của nghiên cứu là xây dựng quy trình chọn lọc dòng rễ tơ có hàm lượng imperatorin cao, xây dựng quy trình sản xuất dòng rễ tơ đã chọn lọc ở quy mô pilot với sự ổn định về chất lượng dòng rễ, từ đó xây dựng quy trình bảo quản trong thời gian dài dòng rễ tơ cao năng đã chọn lọc nhằm giảm chi phí và nhân công cấy chuyền. Đây cũng chính là giải pháp cho vấn đề thoái hóa nuôi nhân sinh khối rễ ở quy mô sản xuất công nghiệp.

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức trong năm 2023, PGS.TS Quách Ngô Diễm Phương khẳng định việc nghiên cứu nuôi cấy rễ tơ loài cây Ké hoa đào ở Việt Nam hầu như chưa được quan tâm, trong khi việc thu nhận hoạt chất imperatorin (hợp chất có nhiều hoạt tính sinh học như ức chế hoạt động phân chia mạnh mẽ của tế bào ung thư, kháng viêm, điều trị cao huyết áp, kháng khuẩn và virus) hiện nay trên thế giới lại được thu nhận ở quy mô sản xuất từ rễ Ké hoa đào. Ở pha nghiên cứu đầu tiên được triển khai hồi năm 2017, các nhà khoa học đã thành công trong việc tạo được nguồn nguyên liệu rễ tơ Ké hoa đào khi ứng dụng công nghệ sinh học thực vật (nuôi cấy rễ tơ, tối ưu hóa điều kiện nuôi cấy, can thiệp con đường biến dưỡng hoạt chất trong nuôi cấy thực vật...).

"Do đó, việc nghiên cứu, lựa chọn nuôi cấy ở quy mô sản xuất công nghiệp nguồn rễ tơ loài này để có thể tạo được nguồn nguyên liệu đủ tiêu chuẩn sản xuất imperatorin trong tương lai (ổn định hàm lượng hoạt chất, không bị thoái hóa, không bị nhiễm dư lượng hóa chất), ở mức chi phí duy trì hợp lý là điều cấp thiết và hiển nhiên", PGS.TS Quách Ngô Diễm Phương thông tin thêm.

Nhóm triển khai nhiệm vụ đã chọn lọc dòng rễ tơ Ké hoa đào bằng các chỉ tiêu trực tiếp là tốc độ tăng trưởng và hàm lượng hoạt chất imperatorin đồng thời cũng thực hiện chọn lọc bằng chỉ tiêu gián tiếp là hình thái rễ và đặc tính di truyền phân tử của rễ. Qua đó, xây dựng quy trình chọn lọc dòng rễ tơ cây Ké hoa đào cao năng bằng hình thái và chỉ thị phân tử ở giai đoạn sớm của quá trình nuôi cấy giúp giảm chi phí đầu tư cho nhà sản xuất.

Cụ thể, quy trình cảm ứng tạo rễ tơ trên mẫu lá cây Ké hoa đào được tối ưu các điều kiện cảm ứng theo kết quả nghiên cứu từ pha 1 năm 2017 (độ tuổi cây: 15 ngày tuổi, loại mô xâm nhiễm: lá, thời gian tiếp xúc với vi khuẩn: 20 phút), đạt được hiệu suất tạo rễ cao hơn 90%. Trong khoảng thời gian từ 3-7 ngày sau khi đồng nuôi cấy, rễ bắt đầu xuất hiện tại nhiều vị trí có tạo vết thương như cuốn hoặc vùng thân lá. Sau 14 ngày, chiều dài rễ tạo thành đạt được 2,67cm. Quan sát các đặc điểm hình thái cho thấy, rễ có xu hướng phát triển không hướng xuống môi trường nuôi cấy; rễ mọc thẳng, một số sợi phân nhánh hoặc có nhiều lông mịn tại vùng chóp rễ. Rễ tơ được tạo thành từ quá trình xâm nhiễm của vi khuẩn bởi sự sát nhập ngẫu nhiên trình tự genne của vi khuẩn vào thực vật, mỗi vị trí sát nhập có thể tạo ra một kiểu hình rễ tơ khác nhau. Quá trình cảm ứng tạo rễ tơ xuất hiện sự phân hóa hình thái rễ trong 30 ngày nuôi cấy đầu tiên tạo nên 6 kiểu hình thái đặc trưng khác biệt (nhóm dòng A, B, C, D, E và G) từ 138 dòng rễ tơ khác nhau.

H-2.jpg

Sự khác biệt về hình thái giữa các dòng rễ tơ sau mỗi 10 ngày. (A, B: rễ tơ sau 10 ngày cảm ứng. C, D, E: rễ tơ sau 20 ngày cảm ứng. F: dòng 1, G: dòng 2, H: dòng 3, I: dòng 4, J: dòng 5, K: dòng 6: rễ tơ sau 30 ngày cảm ứng).

Các kiểu hình thái khác nhau sau đó lại được ghi nhận có sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng và hoạt tính ức chế glucosidase. Rõ ràng, khi nuôi cấy rễ bằng công nghệ này, chúng ta cần phải có quy trình chọn lọc dòng mới có thể đảm bảo được sự ổn định về khả năng tăng trưởng và hàm lượng hoạt chất tích lũy. Trong việc chọn lọc các dòng rễ tơ cao năng, tốc độ tăng trưởng được xem như là chỉ tiêu trực tiếp được ưu tiên sử dụng. Tuy nhiên, khi so sánh với các chỉ tiêu hình thái ban đầu ghi nhận được, nhóm thực hiện nhận thấy đã có sự thể hiện tương quan giữa hình thái và tốc độ tăng trưởng ngay giai đoạn sàng lọc ban đầu này: nhóm dòng có độ dày trục rễ chính và mức độ phân nhánh rễ cao (nhóm dòng C và E) có giá trị tăng trưởng cao hơn những nhóm dòng có rễ mỏng và ít phân nhánh (nhóm dòng A, B, D và G), trong đó các dòng rễ thuộc nhóm B có màu sắc rễ trong, khác biệt rõ rệt với màu đục của các dòng rễ còn lại, đều cho tốc độ tăng trưởng kém nhất. Đây là dấu hiệu khả quan giúp nhóm nghiên cứu có thể tự tin với giả thuyết hoàn toàn có thể sử dụng chỉ tiêu hình thái để sàng lọc dòng rễ cao năng ngay thời điểm rễ tơ mới phát sinh ban đầu, sau đó kết hợp chọn lọc dòng rễ tơ cao năng dựa trên hình thái và chỉ thị phân tử. Tiếp đó, nhóm thực hiện nuôi cấy nhân sinh khối dòng rễ tơ đã chọn lọc bằng hệ thống bioreactor 3-10 lít với sự ổn định về hàm lượng imperatorin. Từ đó, xây dựng quy trình sản xuất dòng rễ tơ đã chọn lọc ở quy mô pilot với sự ổn định về chất lượng dòng rễ bằng chỉ thị imperatorin.

H-4.jpg

Quy trình sản xuất dòng rễ tơ Ké hoa đào ở quy mô pilot

Nhóm các nhà khoa học đã đề xuất “Quy trình sản xuất dòng rễ tơ Ké Hoa Đào ở quy mô pilot” nhằm thu nhận impoeratorin gồm 5 bước: (1) Chuẩn bị nguồn nguyên liệu đầu, (2) Thiếp lập hệ thống sản xuất ở quy mô biorecator 5L, (3) Bổ sung tiền chất và chất cảm ứng, (4) Thu hoạch,  và (5) Kiểm tra chất lượng thành phẩm.

Bảo quản lạnh sâu (cryopreservation) trong thời gian dài là phương pháp lưu trữ các tế bào hay mô/cơ quan ở nhiệt độ cực kỳ thấp, thường là nhiệt độ hóa lỏng của nitơ (-196 độ C). Tại nhiệt độ này, toàn bộ các quá trình biến dưỡng bị dừng lại và do đó cho phép tế bào duy trì các đặc tính hiện có. Đây có thể xem là phương pháp bảo quản dài hạn mang tính khả thi duy nhất khi có thể đảm bảo sự hiệu quả về an toàn và tiết kiệm chi phí.

Kết quả đánh giá hiệu quả của 4 quy trình bảo quản phổ biến cho thấy chỉ có quy trình bảo quản sử dụng kỹ thuật nhỏ giọt - thủy tinh hóa cho hiệu quả tái sinh của rễ tơ sau bảo quản là cao nhất (36,67%). Dù rằng đã xác định được các chất bảo quản ít gây độc hoặc không gây độc cho tế bào nhưng tỷ lệ hồi phục của rễ sau bảo quản lạnh còn kém. Đó có thể là do không được bảo vệ tốt bởi các chất bảo quản hoặc một số yếu tố khác như độ tuổi rễ tơ chưa thích hợp (quá già hoặc quá non), sợi rễ quá mỏng dẫn đến bị ảnh hưởng mạnh khi tiếp xúc với dung dịch bảo quản hoặc quá dày tạo hiệu quả mất nước không cao.

Do vậy, nhóm thực hiện đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng thích hợp (thời gian và nhiệt độ tiếp xúc với dung dịch bảo quản, thời gian tiền nuôi cấy, ảnh hưởng của độ tuổi rễ, ảnh hưởng của chiều dài rễ, kiểu cấu trúc rễ). Sau khi cải thiện quy trình, rễ tơ sau bảo quản có thể đạt được tỷ lệ tái sinh lên 93,33%, gấp 2,5 lần so với quy trình ban đầu (36,67%). Thêm vào đó, rễ tái sinh có chiều dài đạt 4,65cm, gấp 1,5 lần so với quy trình ban đầu (3,04cm). Từ đó, nhóm thực hiện xây dựng quy trình bảo quản dòng rễ tơ cao năng đã chọn lọc từ cây Ké hoa đào trong thời gian 4-6 tháng.

Nhóm thực hiện cũng chứng minh hiệu quả của kết quả nhiệm vụ thông qua việc nuôi cấy dòng rễ tơ Ké hoa đào có hàm lượng hoạt chất imperatorin cao ở quy mô bioreactor (3-10L) có áp dụng 2 quy trình chọn lọc dòng và bảo quản lạnh sâu so với sinh khối rễ không áp dụng trong cùng thời gian.

Kết quả cho thấy, quy trình đầu tiên (A1) là rễ tơ vừa mới cảm ứng không qua chọn lọc có tăng trưởng cũng như hàm lượng imperatorin nhỏ nhất. Giá trị DGI (chỉ số tăng trưởng theo sinh khối khô) có tăng nhẹ ở thế hệ thứ 3 tuy nhiên vẫn đạt thấp nhất so với các nghiệm thức còn lại. Thêm vào đó, imperatorin chỉ hiện diện sau lần cấy chuyền thứ 2 nhưng với hàm lượng thấp hơn từ 2-3 lần so các dòng rễ khác. Có thể thấy, việc có áp dụng chọn lọc dòng cao năng đã làm cho cả 3 dòng rễ ở các nghiệm thức A2, A3 và A4 đều có sự hiện diện imperatorin ngay từ thế hệ đầu tiên. Tuy nhiên, đối với dòng rễ A3 (không có áp dụng quy trình bảo quản) thì sau khoảng 4-6 tháng cấy chuyền liên tục, dòng rễ này có hiện giảm tăng trưởng đáng kể mặc dù vẫn duy trì được hàm lượng imperatorin so với đối chứng mới được chọn lọc là A2. Tuy nhiên chính điều này sẽ làm cho năng suất thu nhận imperatorin sau cùng giảm nên sẽ không thật sự hiệu quả. So với đối chứng là A2 có các dòng rễ mới được chọn lọc, chỉ có các dòng rễ cao năng là A4 có bao gồm được bảo quản với quy trình thích hợp, dòng rễ A4 mặc dù chậm tăng trưởng hơn ở thế hệ đầu tiên nhưng chỉ sau thế hệ thứ 3 đã cân bằng so với A2. Thêm vào đó, mặc dù đã được bảo quản 6 tháng trong nitơ lỏng, dòng A4 vẫn duy trì được nồng độ imperatorin tương ứng với A2.

Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đạt được và cũng đã được Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ do Sở KH&CN TP.HCM thông quan, PGS.TS Quách Ngô Diễm Phương cho biết thêm rằng nhóm nghiên cứu nhận thấy vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này để cải tiến hơn nữa quy trình sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm đầu ra, cũng như giảm thiểu chi phí đầu tư; và đồng thời nhóm các nhà khoa học tại Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) chủ động kiến nghị Sở KH&CN TP.HCM trong thời gian tới hỗ trợ công tác chuyển giao quy trình sản xuất rễ Ké hoa đào trong thu nhận imperatorin để sớm ứng dụng vào sản xuất, vì thị trường trong nước lẫn quốc tế hiện có nhu cầu rất lớn về imperatorin.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM)
Địa chỉ: 227 Nguyễn  Văn Cừ, P.4, Q.5, TP.HCM
Điện thoại: (028) 62884499

E-mail: information@hcmus.edu.vn

Website: https://www.hcmus.edu.vn

Nhóm các nhà khoa học tại TP.HCM vừa hoàn thiện quy trình xử lý nhiễm khuẩn Staphylococcus aureus bằng cách kết hợp sử dụng chiếu ánh sáng 460nm và dung dịch H2O2, bước đầu ghi nhận thành công khi thử nghiệm trên vật nuôi thử nghiệm.

Hiểm họa đến từ bệnh nhiễm trùng gây ra bởi Staphylococcus aureus (S. aureus), hay còn gọi là Tụ cầu vàng, đặc biệt là chủng Tụ cầu vàng kháng Methicillin (Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus - MRSA), vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mực tại Việt Nam. Bệnh nhân nhiễm trùng da bởi MRSA có khả năng lây truyền vi khuẩn này từ vết thương lên những người khác vào cộng đồng, hoặc lên các nhân viên và các thiết bị y tế.

Việt Nam từng ghi nhận có trường hợp một nhân viên y tế đã lan truyền vi khuẩn MRSA có nguồn gốc cộng đồng (CA-MRSA) lên 9 bệnh nhân nhi theo con đường tiêm vaccine, và dẫn đến tử vong, qua đó cho thấy mức độ nguy hiểm tiềm tàng về khả năng lây lan loại vi khuẩn này trong cộng đồng, cơ sở y tế.

H1-C.jpg

Vi khuẩn tụ cầu vàng

"Do đó, các biện pháp tẩy trùng nhắm đến tiêu diệt MRSA trên các bề mặt tại cơ sở y tế là rất cần thiết. Bệnh nhân với vết thương nhiễm trùng MRSA bên cạnh việc sử dụng kháng sinh để điều trị thì cũng cần được vệ sinh vết thương bằng một phương pháp tẩy rửa có thể tiêu diệt triệt để vi khuẩn MRSA trên bề mặt da, ngăn ngừa sự lây lan, và không gây kích ứng vùng da đang bị tổn thương", TS. Vũ Minh Thiết thông tin.

Vi khuẩn Staphylococcus aureus (S. aureus), còn được biết đến với tên vi khuẩn tụ cầu vàng, là một loài vi khuẩn gram dương có kích thước 0,5-1,5µm, thuộc ngành Firmicutes, họ Staphylococcaceae, mang đặc điểm hình thái đặc trưng của các vi khuẩn tụ cầu thuộc chi Staphyloccocus.

S. aureus có thể gây ra các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng như nhiễm khuẩn đường huyết, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn cũng như các bệnh viêm xương khớp, viêm da và mô mềm, viêm màng phổi khi chúng có cơ hội xâm nhập sâu vào bên trong cơ thể

 

Thực tế cho thấy, chất khử trùng H2O2 (nước oxy già) được sử dụng rộng rãi để xử lý sát khuẩn vết thương và khử trùng các bề mặt và dụng cụ phẫu thuật. Tẩy trùng vết thương nhiễm S. aureus bằng H2O2 mang ưu điểm là hợp chất này dễ tiếp cận, chi phí thấp, và không gây hại cho sức khỏe con người ở nồng độ thấp (dưới 3%). Tuy nhiên, hiện nay nhiều loại vi khuẩn, trong đó có S. aureus, có khả năng chống lại tác động của H2O2, khiến việc tẩy trùng vết thương nhiễm trùng bằng H2O2 kém hiệu quả hơn các phương pháp sử dụng kháng sinh. Sử dụng nồng độ H2O2 cao có thể mang lại hiệu quả diệt khuẩn tốt hơn, nhưng cũng tạo ra nhiều rủi ro hơn do các tổn thương khác gây ra bởi hoạt động của H2O2 lên phần mô bị tổn thương của bệnh nhân.

Trong khi đó, các nghiên cứu trong nước hiện nay chỉ tập trung hướng đến việc tìm ra các loại kháng sinh mới hoặc các biện pháp tiêu diệt S. aureus bằng các tác nhân hóa học như các hợp chất có nguồn gốc tự nhiên. Việc ứng dụng kết hợp ánh sáng xanh 460nm và chất tẩy trùng oxy hóa nhằm tiêu diệt S. aureus là hoàn toàn mới và lần đầu tiên được tiến hành nghiên cứu tại Việt Nam.

Nhận thấy tính cấp thiết của việc giải bài toán nói trên, TS. Vũ Minh Thiết và nhóm cộng sự tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ “Nghiên cứu phương pháp kết hợp đèn LED 460nm và H2O2 trong xử lý Staphylococcus aureus trên mô hình nhiễm khuẩn da ở chuột” nhằm đánh giá tiềm năng của liệu pháp ánh sáng xanh kèm H2O2 trong điều trị vết thương nhiễm trùng do vi khuẩn S. aureus kháng kháng sinh gây ra.

H-2A.jpg

Hướng tiếp cận của nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Mục tiêu tổng quát của nhiệm vụ được đặt ra là nghiên cứu phương pháp kết hợp đèn LED 460nm và H2O2 trong xử lý Staphylococcus aureus trên mô hình nhiễm khuẩn da ở chuột, tạo cơ sở để phát triển và đưa vào ứng dụng thực tiễn một liệu pháp mới hỗ trợ điều trị nhiễm trùng S. aureus và ngăn ngừa sự lây lan của loài vi khuẩn này tại các cơ sở y tế ở Việt Nam.

Ngoài ra, một sản phẩm quan trọng của nghiệm vụ khoa học và công nghệ này là lắp đặt một hệ thống đèn LED phát ra nguồn ánh sáng xanh 460nm có hiệu quả trong việc xử lý S. aureus khi kết hợp cùng chất khử trùng H2O2. Các chi tiết về thông số kỹ thuật của hệ thống đèn, cách lặp đặt và cách sử dụng phù hợp và chi phí hợp lý là cơ sở quan trọng để hệ thống đèn có thể được sản xuất hoặc lắp đặt trong nước.

Theo lời nhóm triển khai nhiệm vụ, các nghiên cứu trước đó thường chỉ tập trung vào tác dụng xử lý vi khuẩn S. aureus của ánh sáng 460nm mà chưa chú trọng đến tính an toàn của liệu pháp và những biến đổi bất lợi khác có thể xảy ra ở vi khuẩn dưới tác động của ánh sáng 460nm.

"Trong nhiệm vụ khoa học này, nhóm triển khai nhiệm vụ đã tiến hành nghiên cứu chi tiết tác động của ánh sáng 460nm đến các đặc tính sinh học của S. aureus như tốc độ sinh trưởng, tái sinh và khả năng duy trì các yếu tố độc lực, cùng sự thay đổi tính nhạy cảm với các loại kháng sinh thường được sử dụng để điều trị loài vi khuẩn này. Đây là cơ sở quan trọng để đảm bảo tính an toàn của ánh sáng 460nm khi có thể được sử dụng trên người trong tương lai", TS. Vũ Minh Thiết nhấn mạnh.

H-5.jpgVũ Minh Thiết trình bày kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Cuối cùng, liệu pháp ánh sáng 460nm và H2O2 trong xử lý S. aureus còn được nghiên cứu chi tiết về độ an toàn và hiệu quả trên một mô hình nhiễm khuẩn da chuột. Các kết quả thu được từ nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng để có thể thực hiện các thử nghiệm tiếp theo trên da người và từ đó tiến đến việc ứng dụng trong điều trị lâm sàng.

Sau thời gian làm việc nghiêm túc, TS. Vũ Minh Thiết và nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đã hoàn thành việc khai thác một thiết bị phát ánh sáng 460nm cường độ cao nhằm ứng dụng trong việc ức chế vi khuẩn S. aureus theo một cơ chế mới và khác biệt với các biện pháp diệt khuẩn truyền thống.

Nhiệm vụ khoa học cũng chứng minh ánh sáng 460nm kết hợp với dung dịch H2O2 ở nồng độ 0,75% mang lại hiệu quả ức chế và tiêu diệt vi khuẩn S. aureus cả ở hai chủng kháng kháng sinh (MRSA) và không kháng kháng sinh (MSSA).

"Kết quả nghiên cứu dù chỉ ra rằng ánh sáng 460nm không tiêu diệt vi khuẩn S. aureus hoàn toàn, song đã làm suy yếu vi khuẩn S. aureus thông qua việc phá bỏ lớp sắc tố Staphyloxanthin, và từ đó khiến cho vi khuẩn dễ dàng bị tiêu diệt bởi dung dịch H2O2 nồng độ thấp hơn", TS. Vũ Minh Thiết khẳng định, "Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ánh sáng 460nm ức chế quá trình sinh trưởng của vi khuẩn, được thể hiện qua việc kéo dài thời gian pha sinh trưởng tiềm phát".

Bên cạnh đó, ánh sáng 460nm không làm vi khuẩn S. aureus trở nên nguy hiểm hơn, ngược lại khiến vi khuẩn này trở nên suy yếu với một số loại kháng sinh nhất định, đặc biệt là làm vi khuẩn MRSA nhạy cảm hơn với kháng sinh Imipenem và Ampicillin vốn là hai loại kháng sinh kém hiệu quả với chủng vi khuẩn kháng thuốc này.

H-3A.jpg

Thông số đèn LED đỉnh phổ 460nm dùng cho việc chiếu trị nhiễm khuẩn MRSA

Đặc biệt, nghiên cứu còn cho thấy vi khuẩn MRSA sau khi được xử lý với liệu pháp kết hợp trên trở nên nhạy cảm hơn với Fucidin, một loại thuốc bôi được dùng phổ biến để điều trị các vết thương nhiễm khuẩn S. aureus. Kết quả thử nghiệm phối hợp ánh sáng 460nm và dung dịch H2O2 đã giúp nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ đưa ra kết luận rằng liệu pháp phối hợp ánh sáng 460 nm ở cường độ 100 mW/cm2 trong 5 phút cùng dung dịch H2O2 0,75% có khả năng ứng dụng được trong việc điều trị vết thương nhiễm trùng MRSA.

Giả thuyết nói trên cũng đã được chứng minh qua kết quả thử nghiệm liệu pháp điều trị này khi áp dụng trên mô hình chuột nhiễm trùng MRSA, giúp nhóm chuột được điều trị hồi phục nhanh hơn các nhóm đối chứng gần 20% trong 7 ngày điều trị đầu tiên. Kết quả khả quan này mở ra nhiều phương án điều trị thích hợp cho các dạng vết thương nhiễm trùng S. aureus trong tương lai.

H-6.jpg

Hiệu quả xử lý vết thương da chuột nhiễm trùng MRSA bởi nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp phối hợp sử dụng ánh sáng đèn LED 460nm và dung dịch H2O2

Liệu pháp ánh sáng 460nm và H2O2 trong xử lý S. aureus là cơ sở quan trọng để có thể thực hiện các thử nghiệm tiếp theo trên da người, và từ đó tiến đến ứng dụng trong điều trị lâm sàng. Mục tiêu lâu dài được nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ nhắm đến là phát triển một liệu pháp hỗ trợ điều trị vết thương nhiễm trùng MRSA, giúp bệnh nhân hồi phục vết thương nhiễm trùng nhanh và tăng hiệu quả của các loại kháng sinh được sử dụng trong điều trị.

Vũ Minh Thiết

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức trong năm 2023, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đồng thời đưa ra kiến nghị cho các nghiên cứu trong thời gian tới, đó là để tiến đến bước ứng dụng được liệu pháp phối hợp ánh sáng 460nm và dung dịch H2O2 trên người, thì liệu pháp cần được thử nghiệm trên nhiều đối tượng hơn, đặc biệt là trên các dạng vết thương nhiễm trùng đặc thù hơn (vết thương hậu phẫu, vết thương bệnh nhân bị tiểu đường, v.v..).

"Kết quả nghiên cứu của nhiệm vụ khoa học đã được xét bình duyệt và công bố trên tạp chí Microorganisms (SCIE, Q2), 10.3390/microorganisms11122946", TS. Vũ Minh Thiết thông tin thêm.

Có thể khẳng định rằng, kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ đã mở ra tiềm năng về việc nghiên cứu và hiệu chỉnh liệu pháp thành một quy trình vệ sinh và tẩy rửa vết thương nhiễm trùng, hỗ trợ các liệu pháp điều trị bằng kháng sinh ở các cơ sở y tế hoặc bệnh viện.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Địa chỉ: 300A Nguyễn Tất Thành, P.13, Q.4, TP.HCM

Email: vmthiet@ntt.edu.vn - research@ntt.edu.vn

Website: www.ntt.edu.vn

Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353