SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Dựa trên kết quả nhiệm vụ, cơ quan quản lý có thể dự đoán khả năng bảo vệ của vắc xin trong cộng đồng, triển khai các giải pháp hỗ trợ kịp thời cho công tác phòng chống COVID-19, hạn chế bùng phát dịch. 

Thực tế cho thấy, tiêm vắc xin ngừa COVID-19 tạo miễn dịch cộng đồng là giải pháp hữu hiệu có thể giảm thiểu sự lây nhiễm SARS-CoV-2 cũng như giảm tình trạng nguy kịch cho người nhiễm và gánh nặng y tế toàn cầu, góp phần khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội. 

covid1

Tiêm vắc xin ngừa COVID-19 cho người dân

Tại Việt Nam, vắc xin AZD1222 (được đồng phát triển bởi Đại học Oxford và hãng dược AstraZeneca) là loại vắc xin đã được đưa vào sử dụng trong tiêm phòng SARS-CoV-2 từ tháng 3/2021. Do trong nước chưa có báo cáo khoa học rõ ràng về sự suy giảm nồng độ kháng thể sau tiêm vắc xin theo thời gian sau tiêm chủng, các nhà khoa học ở Đại học Y dược TP.HCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu đánh giá đáp ứng miễn dịch sau tiêm chủng vaccine ChdOx1 nCoV-19 (AZD1222)” nhằm đánh giá hiệu quả của việc tiêm vắc xin. Nhiệm vụ cũng nhằm đóng góp nguồn dữ liệu cần thiết về đáp ứng miễn dịch sau tiêm đủ liều vắc xin, mở đường cho những nghiên cứu tiếp theo về kiểm soát, phòng ngừa COVID-19 tại Việt Nam và trên thế giới. 

covid2

Nhóm thực hiện báo cáo kết quả nhiệm vụ trước Hội đồng nghiệm thu Sở KH&CN

Sau khi tiêm vắc xin, hệ miễn dịch của cơ thể sẽ tạo ra các kháng thể khác nhau chống lại các kháng nguyên virus như protein nucleocapsid (N) và protein spike (S), bao gồm các kháng thể kháng protein N, kháng protein S đặc hiệu nhắm mục tiêu đến tiểu đơn vị protein S1 và các vùng liên kết thụ thể (RBD). Kháng thể anti-S (trong cấu trúc IgG, IgM, IgA) được tạo ra chống lại các protein spike nằm trên bề mặt bên ngoài của virus, ngăn không cho virus xâm nhập vào tế bào. Kháng thể anti-N được tạo ra chống lại các protein nucleocapsid của virus và ngăn chặn sự sinh sôi của virus nếu virus xâm nhập vào tế bào. Nồng độ kháng thể có thể thay đổi tùy thuộc thời gian đo, quá trình lây nhiễm và các đặc điểm miễn dịch của mỗi người. Các kháng thể có chức năng ức chế virus được gọi là kháng thể trung hòa (neutralizing antibodies). Kháng thể trung hòa được tạo ra chủ yếu chống lại protein spike (S) của SARS-CoV-2. 

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Bắc (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết: “Phản ứng miễn dịch sớm ở một người đã được tiêm vắc xin phòng ngừa SARS-CoV-2 có thể dự đoán mức độ bảo vệ của họ đối với virus. Biết rõ sự tồn tại của kháng thể và miễn dịch dài hạn sau tiêm vắc xin là vấn đề cần thiết trong đánh giá miễn dịch cộng đồng, dự phòng khả năng lây nhiễm, cũng như tiên lượng mức độ trầm trọng của dịch bệnh nhằm xây dựng chiến lược tối ưu để kiểm soát dịch.”. 

Người được chọn để nghiên cứu là người khỏe mạnh từ đủ 18 tuổi trở lên, đã được tiêm đủ 2 liều của vắc xin AZD1222. Do những thay đổi trong chiến lược tiêm vắc xin mũi 3 (tăng cường), sau thời điểm 90 ngày và trước thời điểm 180 ngày sau tiêm mũi 2, đa số người tham gia đã tiêm mũi 3 (chủ yếu bằng BNT162b2). Vì vậy, dân số nghiên cứu được phân chia thành 3 nhóm, bao gồm nhóm người chỉ tiêm 2 mũi vắc xin AZD1222 trong khoảng thời gian 6 tháng (nhóm 1), nhóm người có tiêm mũi 3 (tăng cường) trước thời điểm 4,5 tháng sau tiêm mũi 2 (nhóm 2a) và nhóm người có tiêm mũi 3 (tăng cường) trước thời điểm 6 tháng sau tiêm mũi 2 (nhóm 2b).

covid3

Sơ đồ thực hiện

Nhóm thực hiện tiến hành phân tích nồng độ kháng thể anti-S (bao gồm IgG) và kháng thể trung hòa hiện diện trong huyết thanh của người đã tiêm đủ 2 liều vắc xin AZD1222 trong khoảng thời gian 180 ngày (sau 6 tháng tiêm đủ 2 liều) và người đã tiêm mũi 3 (tăng cường) nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu về khả năng sinh miễn dịch sau tiêm đủ liều của vắc xin. Từ đó, phân tích mối quan hệ giữa đáp ứng miễn dịch với vắc xin và khả năng bảo vệ của cơ thể với tác nhân gây bệnh, đồng thời phân tích hiệu quả bảo vệ trên những nhóm đối tượng khác nhau về độ tuổi, giới tính.

Kết quả nhiệm vụ chứng minh 100% dân số nghiên cứu có sự hiện diện của kháng thể anti-S và giảm dần nồng độ qua các thời điểm. Cụ thể: qua các thời điểm 30 ngày, 90 ngày, 135 ngày và 180 ngày sau tiêm mũi 2, nồng độ trung bình của kháng thể giảm tương ứng là 563±394 BAU/mL, 307±217 BAU/mL, 252±185 BAU/mL, và 185±146U/mL. Tỷ lệ giảm nồng độ kháng thể anti-S là 46% ở thời điểm 90 ngày (3 tháng) và hơn 67% ở thời điểm 180 ngày (6 tháng) sau tiêm mũi 2. Tỷ lệ % trung bình của kháng thể trung hòa giảm qua các thời điểm. Cụ thể là 84±16%, 66±20%, 56±19 và 47±19%, tương ứng ở các thời điểm 30 ngày, 90 ngày, 135 ngày và 180 ngày sau tiêm mũi 2. Tỷ lệ người có % kháng thể trung hòa >30% giảm qua các thời điểm, từ 98% (sau 30 ngày tiêm mũi 2), còn 85% (sau 180 ngày tiêm mũi 2). Mặc dù nồng độ kháng thể anti-S và tỉ lệ % kháng thể giảm đáng kể so với thời điểm 30 ngày sau tiêm mũi 2, kết quả phân tích cho thấy hai kháng thể vẫn có sự tương quan thuận, mức độ trung bình ở các nhóm và bao gồm dân số chung. 

Về sự thay đổi kháng thể và kháng thể trung hòa theo nhóm tuổi và giới tính ở người chỉ tiêm 2 mũi vắc xin qua khoảng thời gian 6 tháng, nồng độ kháng thể ở các đợt xét nghiệm có sự khác biệt về nồng độ kháng thể anti-S trung bình theo từng nhóm tuổi như nhóm 18-39 tuổi có nồng độ kháng thể anti-S trung bình cao nhất, trong khi đó, nhóm 40-59 tuổi thì có nồng độ trung bình thấp nhất. Tương tự, đối với kháng thể trung hòa, tỉ lệ % trung bình có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi và qua các đợt xét nghiệm. 

Từ thời điểm 135 ngày đến thời điểm 180 ngày sau tiêm mũi 2 thì phần lớn dân số nghiên cứu đã được tiêm mũi 3 tăng cường. Ở những người chưa tiêm mũi 3 thì thời điểm 180 ngày sau khi tiêm mũi 2, kháng thể anti-S và kháng thể trung hòa đều có sự suy giảm đáng kể, tương ứng tỷ lệ giảm nồng độ trung bình là 64% và tỷ lệ % trung bình giảm gần 44% so với thời điểm sau tiêm 30 ngày. Minh chứng về sự suy giảm kháng thể và kháng thể trung hòa theo thời gian đã cho thấy sự cần thiết của việc thực hiện tiêm tăng cường liều thứ 3, đặc biệt ưu tiên đối với người cao tuổi. 

Ở nhóm 2a, nồng độ kháng thể và tỉ lệ % kháng thể trung hòa sau 30 ngày tiêm mũi 3 đã gia tăng rõ rệt so với thời điểm 30 ngày sau tiêm mũi 2. Đáng ngạc nhiên là nhóm 2b tuy tiêm mũi 3 muộn hơn nhưng nồng độ kháng thể và tỉ lệ % kháng thể trung hòa tăng cao hơn nhóm 2a, tương ứng 8456±5081 BAU/mL và 6807±4627 BAU/mL, 97±4% và 96±5%. 

Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Băng Sương (thành viên nhóm thực hiện), do những khác biệt về đặc tính mẫu (sự phân bố giới tính, nhóm tuổi, và cỡ mẫu) nên không thể đánh giá thời điểm tiêm mũi 3 muộn hơn sẽ tăng nồng độ kháng thể và tỉ lệ % kháng thể trung hòa. Tuy nhiên, xét tổng quan thì mũi tiêm thứ 3 cho thấy sự gia tăng hơn nữa các phản ứng miễn dịch, bao gồm tăng khả năng trung hòa của các biến thể SARS-CoV-2. Mặt khác, ở một số nơi có nguồn cung cấp vắc xin hạn chế thì việc trì hoãn thời gian tiêm mũi 3 chưa hẳn là điều bất lợi. 

covid4

PGS.TS. Nguyễn Thị Băng Sương nêu ý kiến đề xuất tăng cường tiêm chủng cộng đồng

Ở những người tiêm mũi 3, sau 30 ngày đã tiêm, nhóm 18-39 tuổi có xu hướng đáp ứng kháng thể tốt hơn nhóm người cao tuổi khi kháng thể anti-S và tỷ lệ % kháng thể trung hòa tăng cao hơn. Nồng độ kháng thể đạt ngưỡng cao nhất cũng xuất hiện ở nhóm 18-39 tuổi. Tỷ lệ kháng thể trung hòa thấp nhất sau tiêm mũi 3 xuất hiện ở nhóm trên 60 tuổi, nhưng chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Igawa về sự gia tăng hiệu quả kháng thể trung hòa sau khi tiêm vắc xin mũi tăng cường không cho thấy sự khác biệt lớn giữa các nhóm tuổi, và hiệu quả kháng thể trung hòa chống lại biến thể Omicron đủ cao ở tất cả các nhóm tuổi. Báo cáo của tác giả Furukawa và cộng sự cũng cho rằng sau khi tiêm liều tăng cường thì hiệu quả kháng thể tăng lên đáng kể đối với cả 3 biến thể, bao gồm cả Omicron, và bất kể độ tuổi. Do vậy, tiêm vắc xin liều tăng cường nên được khuyến nghị cho mọi độ tuổi. Về giới tính, ở nam giới có xu hướng cao hơn về nồng độ kháng thể và tỷ lệ % kháng thể trung hòa ở thời điểm trước và sau 30 ngày tiêm mũi 3 so với nữ giới. Ngưỡng cao nhất nồng độ kháng thể sau tiêm mũi 3 xuất hiện ở nam và tỉ lệ kháng thể trung hòa thấp nhất xuất hiện ở nữ, nhưng không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

Từ kết quả nhiệm vụ kết hợp với kết quả khoa học quốc tế công bố, nhóm thực hiện đề xuất cơ quan quản lý nhà nước khuyến khích và hỗ trợ người dân thực hiện tiêm mũi tăng cường nhằm củng cố đáp ứng miễn dịch, ngăn chặn dịch bùng phát trở lại với sự xuất hiện của các biến chủng mới. Đồng thời, tạo điều kiện mở rộng nghiên cứu về sự thay đổi của kháng thể sau các mũi tăng cường đối với biến thể mới, kết hợp xét nghiệm miễn dịch tế bào.

Thông tin liên hệ:
Đại học Y dược TP.HCM
Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, phường 11, quận 5, TPHCM
Điện thoại: (028) 3855 4269

Website: www.ump.edu.vn

Email: daihocyduoc@ump.edu.vn

Trong thời gian qua, Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ (gọi tắt là Quỹ KH-CN) của doanh nghiệp (DN) đã được thực hiện và đạt được một số kết quả nhất định. Để việc sử dụng Quỹ KH-CN phát huy hiệu quả tốt nhất, tránh lãng phí, cần tháo gỡ một số hạn chế, bất cập về thủ tục, quy trình.
 

Doanh nghiệp sử dụng Quỹ KH-CN hiệu quả sẽ đầu tư thêm được nhiều máy móc thiết bị. Ảnh: T.Ba

Doanh nghiệp sử dụng Quỹ KH-CN hiệu quả sẽ đầu tư thêm được nhiều máy móc thiết bị. Ảnh: T.Ba

Có tiền nhưng khó sử dụng

Quỹ KH-CN là nguồn lực đáng kể đầu tư cho phát triển KH-CN của DN cũng như của xã hội, song sự phát triển về số lượng DN xây dựng quỹ cũng như sử dụng quỹ hiệu quả còn khiêm tốn. Năm 2017, trên địa bàn TPHCM có 113 DN thành lập Quỹ KH-CN, trong đó 80 DN đã trích lập quỹ với tổng số tiền 1.903 tỷ đồng, nhưng chỉ sử dụng 384 tỷ đồng. Trước đó, năm 2015, chỉ có 98 DN báo cáo đã thành lập quỹ (74 đơn vị là DN nhà nước) với tổng cộng 489 tỷ đồng; số DN sử dụng quỹ là 26 và mới sử dụng hết 168 tỷ đồng…

Theo Sở KH-CN TPHCM, thành phố hiện có 79 DN nhà nước và 45 DN ngoài nhà nước thành lập Quỹ KH-CN; trong đó có 44 DN sản xuất và 80 DN thương mại dịch vụ. Tổng số tiền trích lập quỹ là 4.400 tỷ đồng, nhưng đến nay số tiền sử dụng quỹ mới đạt 1.353 tỷ đồng, chiếm 30,7%.

Trước thực tế trên, ngày 31-5-2022, Bộ KH-CN đã ban hành Thông tư 05/2022, hướng dẫn sử dụng Quỹ KH-CN của DN (có hiệu lực từ ngày 1-6-2022), đưa ra những hướng dẫn, quy chuẩn chung cho DN để xây dựng, khai thác và sử dụng nguồn quỹ hiệu quả. Tuy nhiên, Quỹ KH-CN của DN vẫn còn nhiều hạn chế, việc giải ngân quỹ còn thấp, chưa hiệu quả. Theo ông Phan Quốc Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý công nghệ (Sở KH-CN TPHCM), một số DN thành lập Quỹ KH-CN chỉ thực hiện kê khai, báo cáo đối với cơ quan quản lý thuế và không gửi quyết định thành lập đến Sở KH-CN theo quy định của Thông tư 05/2022; DN chưa mạnh dạn trích sử dụng Quỹ KH-CN do vẫn chưa nắm được thủ tục thanh quyết toán tài chính khi sử dụng quỹ…

Doanh nghiệp chưa mạnh dạn

Tại hội thảo “Thành lập và sử dụng hiệu quả Quỹ Phát triển khoa học -  công nghệ của doanh nghiệp” do Sở KH-CN TPHCM phối hợp cùng các đơn vị liên quan tổ chức gần đây, ông Hoàng Xuân Nam, đại diện Cục Thuế TPHCM, cho biết, việc trích lập Quỹ KH-CN là chính sách tốt của Nhà nước nhằm hỗ trợ các DN nâng cao năng lực công nghệ. DN thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để lập Quỹ KH-CN, trong đó DN Nhà nước phải trích từ 3-10%. Trường hợp trong năm, nhu cầu sử dụng cho hoạt động KH-CN vượt quá số tiền hiện có thì được ứng trước quỹ của các năm tiếp theo hoặc tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập DN trong kỳ tính thuế. Nếu sử dụng không hết, DN Nhà nước phải nộp về Quỹ KH-CN quốc gia, bộ, địa phương, tối thiểu bằng 20% số quỹ đã trích lập không sử dụng hoặc sử dụng không hết 70% số quỹ đã trích lập, kể cả nhận điều chuyển.

Theo Điều 35 Luật Chuyển giao công nghệ, DN được sử dụng Quỹ KH-CN của DN để đầu tư, đối ứng vốn, nhận vốn đối ứng đầu tư cho đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KH-CN, khởi nghiệp sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ… Tuy nhiên, DN chưa mạnh dạn trích sử dụng Quỹ KH-CN do vẫn chưa nắm được thủ tục thanh quyết toán tài chính khi sử dụng, một phần là do cách hiểu của các cơ quan thuế khác nhau. Theo đại diện Cục Thuế TPHCM, những khoản chi từ Quỹ KH-CN phải có đầy đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định. Khoản chi từ quỹ không được trừ chi phí khi tính thuế thu nhập DN trong kỳ tính thuế; trích lập và sử dụng quỹ theo nguyên tắc tiền trích trước thì sử dụng trước.

Tính đến nay, TPHCM có 11 DN Nhà nước thực hiện điều chuyển quỹ cho Quỹ KH-CN của thành phố với số tiền hơn 27 tỷ đồng. Hiện tại, chưa phát sinh hồ sơ đề nghị hỗ trợ từ Quỹ KH-CN của thành phố cho hoạt động KH-CN của các DN. Để sử dụng Quỹ KH-CN thêm hiệu quả, Sở KH-CN TPHCM đề xuất lĩnh vực giúp DN sử dụng quỹ là phục vụ chuyển đổi số. Cụ thể là triển khai chỉ đạo của UBND TPHCM tại Quyết định số 2393 ngày 3-7-2020 về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số của TPHCM, theo đó, một số lĩnh vực đầu tư có khả năng sử dụng quỹ phục vụ cho chuyển đổi số hỗ trợ phát triển KH-CN của DN như: trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động KH-CN (trang bị hạ tầng thông tin, hệ thống quản lý chất lượng)… “Tư vấn về đổi mới công nghệ hay chuyển giao công nghệ gồm công nghệ đảm bảo an ninh, an toàn mạng và bảo mật thông tin, công nghệ mạng thế hệ sau (NGN, 4G, 5G), công nghệ ảo hóa và điện toán đám mây, công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý (GIS), công nghệ nhận dạng giọng nói… cũng là những lĩnh vực cần khai thác sử dụng Quỹ KH-CN rất hiệu quả”, ông Phan Quốc Tuấn đề xuất.

Với những đề xuất của Sở KH-CN TPHCM cũng như giải thích của đại diện Cục Thuế TPHCM, kỳ vọng trong thời gian tới, Quỹ KH-CN sẽ được khai thác hiệu quả hơn để thúc đẩy hoạt động KH-CN trong DN.

Bình Lâm - SGGP

Ngày 28/9/2022, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức Hội nghị góp ý “Kế hoạch thực hiện chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2025”.

Theo dự thảo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ thực hiện nhiều nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Dự kiến, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ nghiên cứu đề xuất cơ chế thí điểm sàn giao dịch dự án khởi nghiệp và SME (Sandbox) để tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ nhiều hơn cho các đơn vị thực hiện công tác phát triển, nghiên cứu khoa học và công nghệ. Đồng thời, phát triển các sản phẩm dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao để hình thành các ngành nghề mới và các sản phẩm mới, giá trị gia tăng cao; hình thành một số dự án, chương trình khoa học và công nghệ trong một ngành trọng điểm, có thế mạnh và có tiềm năng nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng của Thành phố. Cùng với đó là đẩy mạnh hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu thông qua việc hỗ trợ hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh và các Trung tâm chuyển giao công nghệ (TTO) trong trường đại học.

Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ, đưa hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Thành phố tham gia vào mạng lưới khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của khu vực và thế giới.

220929hk1.jpg

Ông Phạm Bình An (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM) nêu góp ý

Đóng góp ý kiến tại Hội nghị, các đại biểu cho biết tuy Viện – trường ở Thành phố có năng lực thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhưng việc phối hợp với các đơn vị khác để cùng tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Nếu cách thức phối hợp rõ ràng, thì việc nhận đặt hàng giải quyết các bài toán khoa học công nghệ là hoàn toàn khả thi.

Bên cạnh đó, dù TP.HCM đã ban hành nhiều chính sách thu hút chuyên gia, nhưng chưa thực sự thu hút được những chuyên gia đầu ngành, có khả năng làm chính sách tốt để định hướng phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Do vậy, việc xây dựng chính sách thu hút các chuyên gia tình nguyện nước ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động công nghệ cao tại cơ sở công nghệ cao cần được chú trọng hơn nữa.

Mục tiêu đến năm 2025:

+ Tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP đạt từ 50% trở lên.

+ Phấn đấu kinh tế số đóng góp khoảng 40% trong GRDP của Thành phố.

+ Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng trong phát triển các giá trị văn hóa, đạo đức, xã hội, con người đô thị; góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng cơ chế, chính sách, mô hình mới đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế.

+ Chi đầu tư cho khoa học và công nghệ của xã hội đạt bình quân trên 1%/GRDP trở lên, trong đó chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm từ 50% trở lên.

+ Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt 7%/năm trở lên.

+ Có 2 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp, tỷ trọng giao dịch công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường Đại học đạt trên 40% trong tổng giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước.

+ Số dự án khởi nghiệp đổi mới sang tạo chiếm 50% cả nước.

+ Số lượng công bố quốc tế tăng khoảng 2 lần so với năm 2020. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm. Số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12-14%/năm. Tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8-10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ.

Hoàng Kim (CESTI)

Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng đã tổng hợp được nhựa gia cường là Baketlite có nguồn gốc từ dầu vỏ hạt điều, sau đó dùng vật liệu này vào sản xuất nắp hố ga composite, giúp tăng khả năng chịu lực, độ bền, giảm đáng kể chi phí đầu tư và hạn chế đáng kể tình trạng mất cắp so với sử dụng nắp hố ga làm bằng gang, sắt và thép.

Hiện nay, các sản phẩm được sử dụng trong các công trình thoát nước đô thị như nắp hố ga, nắp ga thoát nước mưa thường sử dụng các loại vật liệu như gang, sắt, thép, bêtông cốt thép. Hạn chế của các sản phẩm này là thi công phức tạp, giá thành cao, thường xuyên xảy ra tình trạng bị kẻ gian lấy trộm, qua đó gây thiệt hại về kinh tế cho chủ đầu tư và hơn hết là làm xấu vẻ mỹ quan đô thị. Ngoài ra, nắp hố ga truyền thống còn nhanh chóng bị ăn mòn theo thời gian sử dụng nên phải thường xuyên thay mới. 

Khắc phục những hạn chế trên, ngày nay các sản phẩm nắp hố ga được nhiều quốc gia chế tạo bằng nhựa composite, pha trộn giữa nhựa và chất độn nhằm tăng tính chất cơ lý của sản phẩm. Trong đó, nắp hố ga bằng composite được cải tiến bằng nhựa Bakelite có những lợi thế vượt trội như chịu được nhiệt độ cao lẫn nhiệt độ thấp, có khả năng kháng ăn mòn, chịu trọng tải lớn. Chưa dừng lại ở đó, composite cải tiến  có thể được đúc rất nhanh chóng, giảm thời gian sản xuất, và có khả năng chống điện và được đánh giá cao vì độ dẫn điện thấp.

Ngoài ra, công nghệ sản xuất nắp hố ga bằng composite có nguồn nguyên liệu dồi dào, giá thành thấp, trọng lượng nhẹ bằng 1/4 so với gang thép, nên dễ dàng thay thế, sửa chữa, vận chuyển, thuận lợi cho việc thi công lắp đặt, đặc biệt là không tạo tiếng ồn khi xe chạy qua,… Một lợi điểm quan trong khác của nắp hố ga làm bằng vật liệu composite là không bị mất trộm, bởi vật liệu này không có khả năng tái chế nên rất thích hợp để sử dụng tại vị trí công cộng.

Để sản xuất sản xuất vật liệu Bakelite biến tính, các công ty hiện có thể dùng dầu từ vỏ hạt điều, dựa trên phản ứng trùng ngưng của nhóm phenol với formaldehyde. Nhằm tận dụng vỏ hạt điều là phụ phẩm của quá trình sản xuất và chế biến hạt thành thực phẩm, để giảm giá thành điều chế nhựa tổng hợp, nhóm chuyên gia tại Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ “Nghiên cứu cải tiến hỗn hợp SMC (từ nhựa polyesther và sợi thủy tinh) bằng nhựa Bakelite biến tính dầu điều ứng dụng sản phẩm nắp hố ga cho khu dân cư thuộc Thành phố Hồ Chí Minh”.

Thạc sỹ Huỳnh Thành Công, chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết, trong vỏ hạt điều chứa 20-25% lượng dầu nên là nguồn nguyên liệu có giá trị trong sản xuất nhiên liệu tái tạo, biodiesel, vật liệu kết dính, sản xuất sơn phủ, sử dụng làm chất đốt, phụ gia thuốc bảo vệ thực vật,… Các hợp chất hóa học trong dầu vỏ hạt điều có thể tham gia vào các phản ứng ngưng tụ với formaldehyde qua nhân phenol tạo thành nhựa cardanol formaldehyde, hoặc trùng hợp qua mạch nhánh chưa bão hòa để tạo thành các sản phẩm nhựa có các đặc tính đặc biệt, đơn cử như nhựa sau khi đóng rắn vẫn giữ được độ dẻo cao hơn so với các nhựa phenol khác, nhất là ở nhiệt độ cao.

"Nhựa có thể hòa tan hoặc tương hợp với các hydrocarbure tương tự như các nhựa trên cơ sở alkylphenol, có thể chống được acid, kiềm do bản chất kỵ nước của các mạch hydrocarbon", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ thông tin thêm.

hg1

Nắp hố ga được sản xuất từ nhựa Bakelite dầu vỏ hạt điều

Dựa vào các tính chất trên, nhóm kỹ sư - chuyên gia tại Viện Khoa học vật liệu ứng dụng đặt ra mục tiêu cần nghiên cứu, chế tạo nhựa Bakelite phụ gia làm gia gia cường bề mặt cho vật liệu composite ứng dụng trong sản xuất nắp hố ga thu nước thải. Đồng thời, nghiên cứu cải thiện và phát triển công nghệ chế tạo, công thức phối trộn (nguyên vật liệu, thời gian ép, lực ép, nhiệt độ ép), thiết lập quy trình sản xuất thử nghiệm và đánh giá chất lượng các sản phẩm.  

Sau hai năm nghiêm túc nghiên cứu và hoàn thiện, thạc sỹ Huỳnh Thành Công và các cộng sự tại Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng đã tổng hợp thành công được nhựa Bakelite từ dầu vỏ hạt điều phản ứng trùng ngưng với formaldehyde, sử dụng xúc tác ở quy mô phòng thí nghiệm.

Trong đó, hiệu suất phản ứng đạt được 92,5% ở điều kiện nhiệt độ 100oC, thời gian phản ứng là 4 giờ. Nhựa Bakelite sau tổng hợp được phân tích cấu trúc bằng quang phổ FT-IR cho thấy đặc trưng của liên kết -C-O-C- do phản ứng giữa nhóm -CHO của FM và nhóm hydroxyl của cardanol, các liên kết đặc trưng của nhóm chức -OH của phenol, liên kết C-H trong nhóm aldehyde -CHO. Bằng phương pháp phân tích nhiệt đã xác định vật liệu Bakelite chế tạo từ DVHĐ với formaldehyde, xúc tác acid có thể gia công bằng phương pháp nhiệt, độ bền nhiệt của vật liệu Bakelite là 425,39 độ C. 

hg2

Sản phẩm nắp hố ga và tấm chắn rác 

Nhóm cũng đã xác định được chế độ kỹ thuật thích hợp để gia công vật liệu composite SMC/Bakelite, cụ thể là hàm lượng Bakelite 3%, lực ép 500 Kg/cm2, nhiệt độ khuôn ép 150 - 180 độ C, thời gian ép 5 phút. Ở chế độ kỹ thuật này, vật liệu SMC/Bakelite đạt các tính chất cơ lý, chịu tải trọng, kháng mài mòn, độ lão hóa theo thời gian đạt tiêu chuẩn sử dụng làm vành và nắp hố ga của hệ thống thoát nước.

Từ các kết quả trên, nhóm đã tiến hành sản xuất thử vành và nắp hố ga tại công ty Vicadi. Kích thước của sản phẩm vành thu nước mưa 960x530x70 mm, nắp thu nước mưa 860x430x50 mm, vành hố ga 800x800x70 mm, nắp hố ga D700x40 mm. Sản phẩm vành hố ga, vành và nắp thu nước mưa chịu được tải trọng 12,5 tấn, nắp hố ga chịu được lực được tải trọng 25 tấn. Các sản phẩm của đề tài có tính chất cơ lý như độ bền va đập và khả năng chịu mài mòn vượt trội so với một số sản phẩm nắp hố ga composite hiện được thương mại trên thị trường. Cụ thể, nắp hố ga được chế tạo từ vật liệu composite SMC/Bakelite với thành phần 97% SMC và 3% Bakelite tổng hợp từ dầu vỏ hạt điều đạt khả năng chịu tải trọng, có độ bền uốn, bền kéo, bền nén cao, độ hấp thụ nước nhỏ hơn 1%, kháng mài mòn nên đạt tiêu chuẩn để đưa vào sản xuất và ứng dụng trên thị trường.
hg3

Bề mặt vật liệu SMC/Bakelite dưới kính hiển vi soi nổi

Thạc sỹ Huỳnh Thành Công khẳng định, vành và nắp hố ga được làm từ composite có gia cố sợi thủy tinh hoặc vật liệu composite khác thể hiện tính năng ưu việt hơn so với các vật liệu truyền thống như nhẹ, chống chịu được thời tiết khắc nghiệt, môi trường có tính ăn mòn cao,… nên từ lâu đã được ứng dụng tại các nước châu Âu. 

"Do đó, việc sử dụng nắp hố ga bằng composite có nhiều ưu điểm so với sử dụng nắp hố ga truyền thống như có thể thi công tùy theo tải trọng cần thiết, dễ lắp đặt, sửa chữa, chi phí bảo trì thấp, có thể điều chình màu sắc, thiết kế họa tiết,… phù hợp với mục đích của người sử dụng và đặc biệt là ít bị lấy cắp do vật liệu này không thể tái chế", thạc sỹ Huỳnh Thành Công cho biết.

hg4

Thi công nắp và vành hố ga tại huyện Cần Giuộc, Long An và sản phẩm sau 3 tháng sử dụng.

Sản phẩm vành và nắp hố ga là kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KH&CN TPHCM nghiệm thu cũng đã được lắp đặt thử nghiệm trên Quốc lộ 50 đoạn qua địa bàn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.  Sau 3 tháng sử dụng cho thấy, sản phẩm không bị cong vênh hay nứt gãy.

“Từ kết quả nghiên cứu của đề tài và điều tra nguồn nguyên liệu dầu vỏ hạt điều được sản xuất tại Việt Nam thì việc định hướng đầu tư nhà máy sản xuất vành và nắp hố ga, tấm chắn rác, các chi tiết, đồ dùng ngoài trời bằng vật liệu composite với công suất 10.000 bộ sản phẩm/năm có tính khả thi cao”, thạc sỹ Huỳnh Thành Công khẳng định.  

Cũng theo đại diện Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng, hiện nay trên thị trường cũng có các sản phẩm nắp hố ga sản xuất từ vật liệu composite. So với các sản phẩm hiện có trên thị trường thì nắp hố ga composite dầu vỏ hạt điều vụ đã sản xuất thành công, ứng dụng trong thực tế tại nhiều địa phương rõ ràng đã có những cải tiến, tính mới như ngoài thành phần chính là vật liệu SMC còn sử dụng thêm nhựa gia cường là Bakelite có nguồn gốc từ dầu vỏ hạt điều.  Công nghệ này góp phần làm tăng khả năng chịu lực, độ bền của sản phẩm, cũng như nâng cao giá trị kinh tế của dầu vỏ hạt điều trong ngành công nghiệp chế biến hạt điều xuất khẩu. Cụ thể, nắp hố ga sử dụng vật liệu SMC cải tiến bằng Bakelite tổng hợp từ dầu vỏ hạt điều có độ bền va đập cao hơn, độ bền uốn, độ bền kéo tương đương với một số sản phẩm nắp hố ga composite thương mại. 

Nhóm chuyên gia tại Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng kiến nghị Sở KH&CN TP.HCM xem xét giao cho các đơn vị thuộc Sở GTVT TP.HCM tiếp nhận công nghệ là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được nghiệm thu, để có thể nhanh chóng triển khải sản xuất vành, nắp hố ga, tấm chắn rác,… sử dụng cho nhu cầu thay thế hệ thống nắp hố ga cũ và xây dựng hệ thống thoát nước thải tại các khu đô thị và đường giao thông trên địa bàn. 

Chưa dừng lại ở đó, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cũng cho biết thêm rằng, nhu cầu sử dụng nắp hố ga composite tại một số địa phương như TP.HCM, Long An, Bình Dương là rất lớn, và các chủ đầu tư sẵn sàng sử dụng sản phẩm nếu đạt các yêu cầu về độ bền, tính chịu lực và giá thành hợp lý, đạt mỹ quan đô thị. Vì vậy, việc đầu tư phát triển phân xưởng sản xuất vành và nắp hố ga với chất liệu SMC/nhựa Bakelite từ dầu vỏ hạt điều trên địa bàn TP.HCM trong tương lai sẽ không chỉ phục vụ cho nhu cầu địa phương, mà còn có khả năng phát triển sang nhiều tỉnh, thành khác trên toàn quốc.

Thông tin liên hệ:

Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng

Địa chỉ: 1B Thạnh Lộc 29, P.Thạnh Lộc, Q.12, TP.HCM

Điện thoại: 02838919992 - 0907551373

E-mail: vanthu@iams.vast.vn  - htcong12345@gmail.com

Website: https://iams.vast.vn

Thị trường KHCN Thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực thu hút được nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp sản xuất tổ chức, các trung gian tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Những năm qua, TP.HCM luôn quan tâm và đặt nhiệm vụ phát triển thị trường KHCN lên hàng đầu trong các chương trình, kế hoạch triển khai hoạt động KHCN trên địa bàn và kết nối với các tỉnh thành, đặc biệt là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong quá trình triển khai thực hiện. Để phát triển thị trường KHCN, Thành phố đã ban hành các chương trình, kế hoạch cụ thể để thúc đẩy thị trường như: Quyết định số 672/QĐ-UBND ngày 01 tháng 3 năm 2021 về Hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo TP.HCM giai đoạn 2021 - 2025, Quyết định số 266/QĐ-UBND ngày 19 tháng 1 năm 2022 về ban hành kế hoạch triển khai Chiến lược sở hữu trí tuệ và phát triển tài sản trí tuệ trên địa bàn TP.HCM đến năm 2030, Quyết định số 630/QĐ-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2022 về phê duyệt Chương trình nghiên cứu khoa học - phát triển công nghệ và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2021 – 2025; Kế hoạch số 552/KH-UBND ngày 23 tháng 2 năm 2022 phát triển các Trung tâm đổi mới công nghệ trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 2393/QĐ-UBND ngày 03 tháng 7 năm 2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số của TP.HCM;…

Việc xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình/kế hoạch đã và đang góp phần định hướng thị trường KHCN phù hợp với chủ trương của Thành phố. Với sự tham gia tích cực của khu vực kinh tế tư nhân, thị trường KHCN đã hình thành các hệ sinh thái trong các ngành trọng yếu, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của kinh tế Thành phố. Tổng đầu tư giai đoạn 2016 - 2020 (bao gồm ngân sách và ngoài ngân sách) cho khoa học và công nghệ trên 55.000 tỷ đồng, đạt bình quân 10.006 tỷ đồng/năm. Trong đó, đầu tư từ ngân sách Thành phố cho các hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) giai đoạn từ năm 2016 -2021 khoảng 8.920 tỷ đồng (đảm bảo trên 2% tổng chi ngân sách Thành phố hàng năm theo quy định của Luật KHCN).

Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của thị trường KHCN là xây dựng và vận hành Sàn giao dịch công nghệ (SGDCN) như là một giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, góp phần phát triển thị trường KHCN, TP.HCM đã tổ chức các hoạt động của SGDCN với sự tham gia của các bên cung - cầu công nghệ và các tổ chức dịch vụ trung gian. Đến nay, Cổng thông tin đổi mới sáng tạo và Chuyển giao công nghệ TP.HCM (Techport.vn) hiện có tổng số 14.037 công nghệ và thiết bị của 1.942 nhà cung ứng, 2.655 tổ chức, chuyên gia tư vấn, 566 dự án tìm kiếm đối tác. Các công nghệ được quan tâm nhiều trên Techport.vn tập trung vào các lĩnh vực Công nghệ thông tin, Nông nghiệp, Chế biến thực phẩm, Công nghệ sinh học... Năm 2021 đến nay, SGDCN TP.HCM đã tiếp nhận và tư vấn, kết nối, cung cấp thông tin gần 60 yêu cầu công nghệ của doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn các tỉnh ĐBSCL, tiêu biểu như kết nối, cung cấp thông tin công nghệ, thiết bị thuộc các lĩnh vực xử lý nước, y tế, nông nghiệp, chế biến lương thực thực phẩm cho Cần Thơ, Bến Tre, Long An, Vĩnh Long… Qua đó, TP.HCM khẳng định vai trò là trung tâm KHCN của cả nước, sẵn sàng cung cấp các công nghệ mới, công nghệ nguồn cho các tỉnh, thành.

220924hk5.jpg

Một buổi kết nối chuyển giao công nghệ tại Sàn giao dịch công nghệ TP.HCM

Ngoài ra, TP.HCM hiện đang phát triển dịch vụ cung cấp nền tảng Sàn giao dịch công nghệ dựa trên công nghệ điện toán đám mây, cung cấp không gian trên mạng phục vụ hoạt động KHCN&ĐMST trên nền dữ liệu dùng chung với các tính năng giới thiệu công nghệ, thiết bị; tư vấn chuyển giao công nghệ; tìm kiếm đối tác hợp tác nghiên cứu, kinh doanh. Nền tảng được thiết kế với các công cụ tiện ích cho phép các sàn thành viên được tự chủ mọi hoạt động giao dịch của mình đồng thời thiết kế, nội dung vẫn giữ được nét đặc trưng, khác biệt của từng đơn vị. Các sàn giao dịch công nghệ thành viên liên thông sử dụng và cập nhật dữ liệu trên nền tảng dùng chung hơn 10.000 công nghệ và thiết bị, 1.500 nhà cung ứng tạo nên nguồn dữ liệu phong phú, vận hành đơn giản và tiết kiệm chi phí.

Việc liên kết các sàn được kỳ vọng sẽ thúc đẩy truyền thông, giới thiệu rộng rãi công nghệ và thiết bị đến các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu tại các địa phương để khai thác và sử dụng; Tạo kênh thương mại hóa cho các đề tài đã được nghiệm thu của các, viện trường, trung tâm nghiên cứu của địa phương; Thiết lập mạng lưới trao đổi nhu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị… của các tỉnh thành với mục tiêu để thông tin các bên cung - cầu được quảng bá rộng rãi giúp tăng khả năng kết nối, chuyển giao công nghệ. Hiện nay, TP.HCM đã kết nối, hỗ trợ 2 địa phương khai trương SGDCN gồm SGDCN Bình Phước và Sàn giao dịch CN&TB trực tuyến Tây Ninh. TP.HCM cũng đang đẩy mạnh mở rộng kết nối với SGDCN các tỉnh thành lân cận và khu vực ĐBSCL.

Công tác xúc tiến chuyển giao công nghệ được tổ chức dưới các hình thức như Chợ công nghệ và thiết bị Thường xuyên - Techmart Daily, Techmart chuyên ngành, đa ngành được triển khai với nhiệm vụ hỗ trợ viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ trưng bày, giới thiệu, chào bán các sản phẩm công nghệ đến doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Đây là hoạt động mang tính trực quan, sinh động, thu hút nhiều sự quan tâm của khách hàng. Với xu thế chuyển đổi số, từ năm 2021, các kỳ Techmart chuyên ngành được Thành phố tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, giúp các doanh nghiệp, tổ chức và người dân Thành phố nói riêng và khu vực phía Nam nói chung tham quan, tìm kiếm giải pháp công nghệ một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, từ năm 2017, TP.HCM cũng chủ động vận động các doanh nghiệp công nghệ thường xuyên tham gia các sự kiện KHCN tại An Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, Bình Phước, Tây Ninh… để giới thiệu nhiều sản phẩm công nghệ cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân ở địa phương ở những lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ sinh học, chuyển đổi số trong sản xuất - phân phối,…

220924hk3.jpg

Chuyên gia tư vấn công nghệ theo yêu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã tại Techmart chuyên ngành

Trong giai đoạn vừa qua, TP.HCM luôn triển khai các hoạt động nhằm thúc đẩy hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ; các tổ chức xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ. Hiện Thành phố có 240 tổ chức thực hiện các dịch vụ trung gian, bao gồm 1 SGDCN, 1 Trung tâm giao dịch công nghệ, 2 Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ/tổ chức tư vấn, chuyển giao công nghệ, 123 Trung tâm hỗ trợ thẩm định giá, 1 Trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, 49 Cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN và 63 tổ chức khác.

Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ luôn được chú trọng, góp phần tạo môi trường kinh doanh của Thành phố lành mạnh, thu hút đầu tư hiệu quả hơn. Giai đoạn 2016 - 2020, số đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu của các chủ thể trên địa bàn Thành phố là 91.242 đơn, chiếm 39% cả nước. Đồng thời, Thành phố cũng tập trung triển khai đào tạo sở hữu trí tuệ gắn với hoạt động khởi nghiệp trên địa bàn Thành phố trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay với 80 lớp, thu hút 8.599 lượt người tham dự. Trong giai đoạn 2016-2020, số đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu của các chủ thể trên địa bàn Thành phố là 91.242 đơn, chiếm 39% cả nước.

TP.HCM cũng hình thành và phát triển mô hình liên kết “Doanh nghiệp - Nhà nước -Viện, trường, Tổ chức nghiên cứu” trong hoạt động KHCN, lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Điển hình như chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp thay thế nhập khẩu với chi phí thấp cho 05 lĩnh vực ưu tiên của thành phố gồm: chế biến thực phẩm, dệt may - da, nhựa - cao su, cơ khí nông nghiệp và cơ khí tiêu dùng. Các sản phẩm tiếp tục được chế tạo và chuyển giao trên 265 thiết bị, sản phẩm cho sản xuất có chất lượng tương đương với giá thành rẻ hơn từ 20% - 60% so với giá nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ ước tính gần 282,2 tỷ đồng, hiệu quả đầu tư tính trung bình ước đạt 7,02 lần. Trên 90% đề tài, dự án xuất phát từ yêu cầu đổi mới công nghệ thiết bị, dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp, qua đó góp phần nâng cao năng lực thiết kế, trình độ chế tạo của đội ngũ kỹ thuật của doanh nghiệp, kết hợp với đội ngũ KHCN tại các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học. Kết quả đã tạo dựng cơ chế liên kết hợp tác ba bên, trong đó nhà nước đóng vai trò cầu nối trong mối liên hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu. Sự hợp tác liên kết là khâu đột phá rất quan trọng, nhằm phát huy năng lực của đội ngũ nhân lực KHCN, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Nhìn chung, thị trường KHCN TP.HCM và các tỉnh thành trong khu vực ĐBSCL đến nay đã có những chuyển biến tích cực, thu hút nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp sản xuất, tổ chức trung gian tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Các doanh nghiệp sản xuất được tiếp cận dễ dàng với thông tin công nghệ và thiết bị thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu, phương tiện truyền thông và các sự kiện xúc tiến kết nối cung - cầu, tạo động lực thúc đẩy hoạt động chuyển giao, đổi mới công nghệ. Trong đó, SGDCN TP.HCM bước đầu làm tốt vai trò kết nối, thúc đẩy phát triển thị trường KHCN, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, trở thành địa chỉ đáng tin cậy để doanh nghiệp liên hệ tìm kiếm thông tin, giải pháp công nghệ - thiết bị và là môi trường thuận lợi kết nối các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức trung gian với doanh nghiệp sản xuất.

Hoàng Kim (CESTI)

Đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ là yêu cầu cấp thiết, là giải pháp quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý công chức. Mô hình quản lý theo kết quả thực thi công vụ được coi là giải pháp tối ưu bởi cho phép các nhà quản lý linh hoạt hơn trong việc sử dụng nguồn lực con người và ngân sách được phân bổ dựa trên các kết quả thực hiện công việc có thể lượng hóa được và điều đó giúp xây dựng một chính quyền năng động, chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả. Vì vậy việc nghiên cứu và vận dụng đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ vào các cơ quan nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết.

Là trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ lớn nhất của cả nước, là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước, TP.HCM đã và đang khẩn trương xây dựng mô hình chính quyền đô thị để triển khai ngày càng có hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với phương châm lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Quá trình xây dựng chính quyền đô thị nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung đòi hỏi TP.HCM là phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng” “vừa chuyên”. Muốn làm được điều này, Thành phố phải hoàn thiện công tác quản lý công chức, nhất là khâu đánh giá công chức.

Thành phố đang triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/2008/NQ-HĐND ngày 16/3/2018 của HĐND TP.HCM về ban hành quy định chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức (CB, CC, VC) thuộc khu vực quản lý nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố quản lý. Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐND được xác định là đòn bẩy quan trọng nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức của TP.HCM, là chính sách giải quyết nhiều “nút thắt” hiện nay của nền công vụ ở Thành phố. Để làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết này, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 4631/QĐ-UBND ngày 19/10/2018 về đánh giá, phân loại hằng quý theo hiệu quả công việc đối với CB, CC, VC thuộc khu vực quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố quản lý. Đồng thời, vào tháng 9/2019, Chủ tịch UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 3728/QĐ-UBND về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá, phân loại hằng quý theo hiệu quả công việc đối với CB, CC, VC trong cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn TP.HCM ban hành kèm theo Quyết định số 4631. 

dgcc4

Người dân đánh giá sự hài lòng đối với cán bộ giải quyết hồ sơ tại UBND P.Bến Thành, Quận 1

Theo đó, công tác đánh giá công chức phải dựa trên các tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng, định lượng được kết quả thực thi công vụ của từng công chức tương ứng với vị trí việc làm cụ thể. Đặc biệt, đi đôi với cơ sở pháp lý của TP.HCM, Phòng Kinh tế quận Phú Nhuận đã có đề xuất sáng kiến thí điểm đánh giá công chức trên địa bàn quận theo hệ thống đo lường hiệu quả công việc (mô hình KPI) nhằm đo lường các kết quả đầu ra của công chức. Có thể nói, việc thay đổi cơ chế đánh giá, phân loại CB, CC, VC theo xu hướng kết quả thực thi công vụ của TP.HCM có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn, góp phần khắc phục những bất cập vốn tồn tại dai dẳng nhiều năm qua trong công tác đánh giá CB, CC, VC của nước ta và tạo cơ sở công bằng cho việc chi trả phúc lợi tăng thêm nhờ cơ chế đặc thù của Thành phố. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai, mặc dù đã có những bước đột phá rõ ràng về tư duy cải cách, đổi mới công tác đánh giá CB, CC, VC, song xét ở góc độ tổng thể thì vẫn còn một số hạn chế. 

dgcc1

Bộ phận tiếp nhận, và trả hồ sơ giải quyết các thủ tục hành chính tại UBND P.Hiệp Phú, TP Thủ Đức

Cụ thể, vẫn còn tình trạng nhận xét, đánh giá hằng tháng, hằng năm còn mang tính cả nể, chưa đánh giá đúng, đầy đủ, thực chất việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của công chức nhất là công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM. Đặc biệt, Quyết định số 4631/QĐ-UBND về đánh giá, phân loại hằng quý theo hiệu quả công việc đối với CB, CC thuộc khu vực quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố quản lý vẫn chưa đề cập đến sự khác biệt cụ thể trong việc đánh giá, phân loại công chức đang làm việc trong bộ máy nhà nước cấp tỉnh. Với lý do “Thước đo quan trọng để xác định tăng thu nhập cho đội ngũ CB, CC, VC là dựa vào kết quả thực thi công vụ của chính họ” và dưới sự chủ trì của Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại TP.HCM, TS. Nguyễn Thị Thu Hòa đã triển khai nhiệm vụ khoa học “Đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM theo kết quả thực thi công vụ”. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề tài đã nêu quan điểm “Muốn đánh giá công chức hiệu quả đòi hỏi TP.HCM phải triển khai thực hiện đánh giá CB,CC theo kết quả thực thi công vụ, đặc biệt là đối với công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM, bởi có như vậy việc đánh giá công chức mới khách quan, chính xác, thực chất và khoa học”.

Cũng theo kết quả nghiên cứu của TS. Nguyễn Thị Thu Hòa và cộng sự, thì công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM còn có những đặc điểm riêng biệt so với đội ngũ CB, CC nói chung, do đó việc đánh giá cũng phải tính đến những yếu tố đặc thù này. 

dgcc2

(Ảnh minh họa)

TS Nguyễn Thị Thu Hòa khẳng định, việc đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM theo kết quả thực thi công vụ sẽ mang lại những lợi ích cơ bản sau: (1) Thay đổi tư duy, nhận thức về công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố của đội ngũ CB,CC; (2) Tạo nên sự khác biệt trong việc đánh giá đối với từng đối tượng CB,CC; (3) Giúp cho việc đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Thành phố được tiến hành thực chất, khoa học và chính xác hơn; (4) Hỗ trợ cho việc đề xuất hoàn thiện chính sách, quy định về quản lý và phát triển đội ngũ CB,CC của Thành phố; (5) Góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC của TP.HCM, phục vụ cho quá trình xây dựng “Chính quyền đô thị” của thành phố.

Đại diện nhóm nghiên cứu thuộc Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại TP.HCM cho rằng “đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ là yêu cầu cấp thiết, là giải pháp quan trọng trong triển khai các hoạt động cải cách hành chính. Mô hình quản lý theo kết quả thực thi công vụ được coi là giải pháp tối ưu bởi cho phép các nhà quản lý linh hoạt hơn trong việc sử dụng nguồn lực con người và ngân sách được phân bổ dựa trên các kết quả thực hiện công việc có thể được lượng hóa, và điều đó giúp xây dựng một chính quyền năng động, chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả”.

Theo đó, TS. Nguyễn Thị Thu Hòa và nhóm nghiên cứu đã hoàn thành các nội dung quan trọng, như: Hệ thống hóa cơ sở khoa học về đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố trực thuộc Trung ương theo kết quả thực thi công vụ; Phân tích và đánh giá thực trạng công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM trong thời gian qua, trong đó, tập trung làm rõ nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng; đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM theo kết quả thực thi công vụ trong thời gian tới.

dgcc3

(Ảnh minh họa)

Đề tài đã phân tích, làm rõ thực trạng công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM trong thời gian qua trên cơ sở quy định pháp luật và thực tiễn triển khai công tác này tại TP.HCM. Về cơ bản, công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM đã đạt những kết quả tích cực về nhiều phương diện như các văn bản pháp lý, tiêu chí đánh giá, quy trình đánh giá, phương pháp đánh giá và nhất là việc sử dụng kết quả đánh giá trong chi trả thu nhập tăng thêm cho đội ngũ công chức Thành phố theo cơ chế đặc thù. Tuy nhiên, thực tiễn đánh giá công chức còn tồn tại những hạn chế nhất định. Thực tiễn đánh giá công chức trên địa bàn Thành phố cho thấy chưa hình thành đầy đủ phương thức đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ do các tiêu chí, phương pháp và quy trình đánh giá chưa thực sự xuất phát từ kết quả và gắn trực tiếp với kết quả thực thi công vụ. Những hạn chế từ chính bản thân các quy định là một trong những nội dung quan trọng khiến công tác đánh giá chưa đạt được kết quả như mong muốn; hay hạn chế về các tiêu chí đánh giá chưa được lượng hoá và gắn với kết quả đầu ra gây khó khăn cho việc đánh giá chính xác kết quả thực thi công vụ của công chức. Hơn nữa, trong quy trình đánh giá vẫn còn những bất cập, nhất là bước lấy ý kiến của tập thể đang thực hiện một cách “hình thức”, tâm lý “nể nang”, “ngại va chạm” làm cho kết quả đánh giá chưa thực chất; quy trình hiện còn mang nặng tính “nội bộ”, khép kín mà chưa mở rộng cho phép nhiều chủ thể tham gia, đặc biệt là một số vị trí công tác thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với người dân, doanh nghiệp chưa dựa trên phản hồi của “khách hàng” để đánh giá công chức,... Với những nhận định đó, nhóm nghiên cứu đã xác định các nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế, yếu kém này làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp.

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức trong quý 3/2022, TS. Nguyễn Thị Thu Hòa khẳng định “Xây dựng và từng bước hoàn thiện công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM theo kết quả thực thi công vụ là một nhiệm vụ cần thiết, khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu CCHC trong bối cảnh TP.HCM đang triển khai chính quyền đô thị, đẩy mạnh các hoạt động chuyển đổi số, gắn hoạt động của từng cơ quan, đơn vị với đề án vị trí việc làm của đội ngũ CB, CC cũng như các nội dung gắn với chính phủ số và chính quyền số”. 

Tuy nhiên, đổi mới công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM cần dựa trên cơ sở các định hướng của Đảng, Nhà nước và Thành phố về công tác này. Với quan điểm đó, nhóm triển khai nhiệm vụ đã đề xuất một số giải pháp cho việc hoàn thiện công tác đánh giá công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM cũng như kiến nghị việc áp dụng phương pháp đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ. Các đề xuất này bao gồm: (1) Nâng cao nhận thức của đội ngũ CB, CC; (2) Xây dựng khung năng lực và bản mô tả công việc cho các vị trí; (3) Hoàn thiện các tiêu chí đánh giá; (4) Đa dạng hóa các phương pháp đánh giá với nhiều chủ thể tham gia; (5) Hoàn thiện quy trình đánh giá; (6) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào đánh giá công chức; (7) Sử dụng có hiệu quả kết quả đánh giá công chức; (8) Triển khai đánh giá công chức theo KPI. 

Cũng theo TS. Nguyễn Thị Thu Hòa thì các kiến nghị và đề xuất nêu trên có thể áp dụng thành công hay không còn phụ thuộc rất lớn vào việc Thành phố có đảm bảo các điều kiện tiên quyết cho việc áp dụng mô hình này, bao gồm: Thay đổi văn hóa đánh giá công chức theo kết quả so với đánh giá truyền thống; Thể chế về đánh giá công chức hoàn thiện và đồng bộ; Quyết tâm và vai trò của người lãnh đạo trong đánh giá công chức được đảm bảo; Có nguồn thông tin thu thập phục vụ cho việc đánh giá kết quả thực thi công vụ của công chức; Có sự tham gia của nhiều chủ thể vào quá trình đánh giá; Có kế hoạch và thực tiễn sử dụng kết quả đánh giá thực thi công vụ vào thực hiện các chức năng quản lý nhân sự khoa học. 

Được biết, các số liệu, kết quả thống kê, khảo sát là một phần của nhiệm vụ khoa học - công nghệ này cũng đã đánh giá những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ và phác thảo lộ trình đưa mô hình này vào TP.HCM với các bước triển khai thật sự thận trọng.

Nhận xét về kết quả mà TS. Nguyễn Thị Thu Hòa và nhóm nghiên cứu thực hiện, TS. Bùi Thị Ngọc Trang (Học viện Cán bộ TP.HCM), thành viên Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ, cho rằng nhiệm vụ đã gắn liền với thực tiễn tại TP.HCM, đó là việc đánh giá công chức, viên chức theo Nghị quyết 03 (mỗi quý 1 lần). Các phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng; cơ sở thực tiễn và khoa học được thể hiện rõ, thể hiện độ chính xác của kết quả đầu ra của công trình nghiên cứu. Chưa dừng lại ở đó, quy trình đánh giá CC mà nhóm nghiên cứu đề xuất đã khắc phục những hạn chế của quy trình đánh giá hiện hữu.

Đồng tình với quan điểm này, TS. Nguyễn Quỳnh Huy, Trường Quản trị và Kinh doanh, ĐHQG Hà Nội khẳng định, nhiệm vụ đã cung cấp 1 bức tranh toàn cảnh, toàn diện về thực trạng đánh giá thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức  các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM, đăc biệt các nhận xét, đề xuất của nhiệm vụ dành cho Sở Nội vụ, UBND TP.HCM gắn với KPI của đội ngũ CC là hoàn toàn hiệu quả, thiết thực.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hội đồng tư vấn nghiệm thu, PGS.TS Huỳnh Văn Thới (Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP.HCM) và các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ đều cho rằng, kết quả của nghiên cứu vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, thể hiện tinh thần thái độ nghiêm túc của nhóm nghiên cứu. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn đến quá trình nghiên cứu, tuy nhiên nhóm nghiên cứu đã nỗ lực để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu theo đúng tiến độ. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.HCM nói riêng và UBND TP.HCM nói chung có thể nghiên cứu để vận dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá công chức nói riêng và nâng cao công tác quản lý đội ngũ công chức nói chung. 

Thông tin liên hệ:

Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ  Hà

Nội tại TP.HCM

Địa chỉ: 181 Lê Đức Thọ, P.17, Q.Gò Vấp, TP.HCM

E-mail: nguyenhoahchhcm@gmail.com

Điện thoại: 028.38943717 - 0982459547

Website: https://truongnoivu-csmn.edu.vn

Giải pháp do nhóm chuyên gia Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TPHCM) hoàn thiện cho phép gắn trực tiếp một mô-đun có chức năng "số hóa" lên một số mẫu đồng hồ nước dạng cơ truyền thống thông dụng, và sau đó truyền phát dữ liệu thu thập về trung tâm xử lý thông qua hạ tầng vô tuyến.

Trước thực tế, trên địa bàn TP.HCM hiện có khoảng 1,4-1,5 triệu đơn vị đồng hồ nước được Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (SAWACO) quản lý, nhưng việc thống kê lượng nước tiêu thụ hằng tháng vẫn được thủ công thực hiện trực tiếp tại địa điểm gắn đồng hồ đo dẫn đến tình trạng số liệu đo đếm chưa thực sự chính xác bởi vài lý do khách quan lẫn chủ quan.

Trong khi đó, theo ước tính, để thay mới toàn bộ bằng đồng hồ nước phiên bản điện tử thì cần khoản đầu tư lên đến 250-300 triệu USD chưa kể chi phí lắp đặt, vì thế bài toán cấp bách đặt ra là cần một giải pháp công nghệ cải tiến đồng hồ nước dạng cơ truyền thống thành đồng hồ nước thông minh để giảm chi phí và phù hợp với điều kiện của TP.HCM.

Được biết, mỗi đồng hồ nước thông minh (nhập ngoại) có giá tham khảo từ 3 - 4 triệu đồng, trong khi đồng hồ nước dạng cơ truyền thống chỉ ở mức 700.000 - 850.000 đồng.

Quản lý tập trung

Có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu ứng dụng hệ thống đo lường nước thông minh đã xuất hiện trên thế giới từ khá lâu, bắt đầu phát triển ở dạng AMR một chiều (Automatic Meter Reading - đọc đồng hồ tự động) và hiện nay đang tập trung vào dạng hai chiều dạng AMI (Advanced Metering Infrastructure - cơ sở hạ tầng đo lường tiên tiến) trên nền tảng IoT. 

Không nằm ngoài dòng chảy xu hướng, Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng cũng đã quyết liệt triển khai nhiều chương trình hội nhập sâu rộng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 toàn cầu và chiến lược xây dựng smartcity, chính quyền số và xã hội số.

Riêng trong lĩnh vực cung cấp nước, đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam cùng các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt (gọi là công ty cấp nước) đã và đang tập trung vào việc nghiên cứu ứng dụng thiết bị đo lường điện tử và thiết bị đo đếm phục vụ mục tiêu thúc đẩy triển khai chuyển đổi số, quản trị đô thị hiện đại gắn liền với sự hội tụ của các dịch vụ.

PGS.TS Lê Minh Phương, chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu phát triển công nghệ chế tạo Hệ thống đo lường nước thông minh" cho biết, ngoài tính năng cơ bản là đo đếm thì mỗi đồng hồ (công tơ) nước dạng điện tử phải được tích hợp khả năng truyền dữ liệu không dây, giám sát áp lực và lưu lượng nước, đồng thời cung cấp cho khách hàng công cụ để cùng công ty cấp nước có thể thuận tiện giám sát chất lượng điểm đo nhằm minh bạch hóa công tác đo đếm. Đồng thời tích hợp các chức năng như cảnh báo khi có hành động tác động lên thiết bị đo lường bằng nam châm, tác động tháo lắp, hành động trộm nước cho người đơn vị quản lý hệ thống.

Theo đó, đội ngũ kỹ sư - chuyên gia tại Phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử công suất thuộc Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) đã phát triển loạt chức năng thông minh của đồng hồ nước ngay trên các đồng hồ cơ truyền thống, bằng cách bổ sung các mô-đun điện tử sử dụng công nghệ truyền dữ liệu hiện đại có khả năng đọc dữ liệu từ bộ phát xung được kết nối với đồng hồ cơ và truyền qua giao thức vô tuyến không dây Lorawan.

Cụ thể hơn, sau khi phân tích các công nghệ trên thế giới và hiện trạng của hệ thống cung cấp nước trên địa bàn TP.HCM, PGS.TS Lê Minh Phương và nhóm cộng sự đã đề xuất giải pháp công nghệ với đầy đủ các tính năng của một hệ thống đo lường hiện đại AMI trên nền tảng IoT bằng cách cải tiến công nghệ cho các đồng hồ cơ đo nước hiện hữu để có thể tương tác, giao tiếp với hệ thống IoT và cơ sở hạ tầng truyền dữ liệu hiện đại, cũng như cho phép giao tiếp hai chiều giữa khách hàng và đơn vị quản lý thông qua Apps “Smart Water Meter”.  

dhn1

 Sản phẩm đồng hồ nước thông minh được hoàn thiện với "Trung tâm" là bộ phận chuyển đổi dữ liệu từ sang dạng số tích hợp trên bo mạch

Đồng hồ nước thông minh không chỉ có khả năng thu thập (đọc) dữ liệu từ xa, mà cũng cho phép người dùng nhận thông báo liên quan đến pin đồng hồ nước thông minh cũng như các sự cố tác động đến đồng hồ, mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật đo lường Việt Nam. Ngoài ra đồng hồ nước điện tử thông minh còn được thiết kế và chế tạo theo nguyên tắc mô dun hóa, nhờ đó có thể thay thế cải tiến cập nhật các công nghệ mới mà không phải tốn nhiều linh kiện và thời gian.  

dhn2

Mô hình tổng thể hệ thống đo lường nước thông minh được đề xuất

Về chức năng, ở tầng đầu tiên của mô hình 4 tầng được xây dựng, là đồng hồ nước thông minh được cải tiến từ đồng hồ truyền thống giữ nhiệm vụ đo lường mức tiêu thụ nước của các khách hàng. Trong đó, đồng hồ nước cơ truyền thống được trang bị bộ dụng cụ đọc quang - mạch điện tử tích hợp mô-đun truyền dữ liệu Lorawan. Đồng hồ nước thông minh sau đó truyền mức tiêu thụ tích lũy (m3) được ghi lại trong một thời gian nhất định bằng giao thức không dây Lorawan về các Gateway của hệ thống.

dhn3

4 tầng trong mô hình quản lý đo lường nước thông minh cho phép công ty cấp nước và khách hàng có được sự tương tác tối đa

Để "tận dụng" đồng hồ cơ truyền thống, hiện chủ yếu là hai mẫu KENT và Itron- Actaris, PGS.TS Lê Minh Phương và cộng sự chọn giải pháp thiết kế riêng bộ đầu đọc quang dựa trên công nghệ từ trường để gắn lên đồng hồ cơ, đi kèm với đó là cụm phát dữ liệu qua sóng Lora. Tùy thiết kế của mẫu đồng hồ cơ mà cụm đầu đọc cho từng phiên bản có chút khác nhau, nhưng về cơ bản cả hai được phát triển trên cùng mẫu bo mạch, kiến trúc và giải thuật. 

Hay nói cụ thể hơn, đồng hồ nước thông minh cải tiến là một mạch điện tử chứa bộ vi điều khiển sử dụng pin có chức năng đọc từ đồng hồ cơ và mô-đun phát sóng Lora để truyền không dây. Đồng hồ nước thông minh không chỉ đo lưu lượng nước mà sử dụng giao tiếp không dây để kết nối với mạng Lorawan cho phép giám sát vị trí từ xa, bảo trì cơ sở hạ tầng thông qua phát hiện rò rỉ và cảnh báo tự động.

Theo thiết kế, pin có thể sử dụng 5 năm, và cụm thiết bị gắn lên đồng hồ nước đạt chuẩn IP67 để an toàn trong môi trường gắn ngoài hiện trường với môi trường ẩm ướt, nhiệt độ cao.

dhn4

Đồng hồ cơ Itron được gắn cụm đo đếm dữ liệu và thu - phát sóng Lora

dhn5

Đồng hồ cơ KENT được gắn cụm đo đếm dữ liệu và thu - phát sóng Lora

Trong hệ thống tổng thể được hoàn thiện và đề xuất, có nhiều Gateway được thiết kế để nhận, tập trung và xử lý dữ liệu từ các đồng hồ không dây có sẵn trong phạm vi quản lý. Khả năng truyền tải của các đồng hồ thông minh phụ thuộc vào các Gateway thường được đặt tại các điểm chiến lược để tối đa hóa số lượng đồng hồ thông minh đang quản lý và để giảm thiểu số lượng Gateway yêu cầu.

Các Gateway lưu trữ và xử lý trước các dữ liệu đo lường trước khi tải lên qua Wi-Fi hoặc mạng di động (3G/4G/LTE) thành dữ liệu tổng hợp cho một ứng dụng chạy trên nền tảng điện toán công nghệ Cloud, giúp xây dựng thêm dữ liệu cho người dùng, phát hiện rò rỉ và phát hiện lỗi, v.v.

Sau đó, dữ liệu về mức tiêu thụ, cảnh báo - báo động được cung cấp cho công ty cung cấp nước và khách hàng thông qua hệ thống giám sát (quản lý hệ thống và người tiêu dùng) thông qua một ứng dụng web được cá nhân hóa.

dhn6

Giao diện hiển thị thông tin chung của các đồng hồ nước đang được hệ thống quản lý

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ - khoa học công nghệ khẳng định, ngoài việc giúp giảm thiểu tối đa số lượng nhân viên thực hiện công tác thu thập dữ liệu tại từng địa chỉ khách hàng, mô hình được xây dựng còn cung cấp cho khách hàng lẫn công ty cấp nước khả năng thống kê nhanh hay theo định kỳ, và đặc biệt là việc tích hợp các dịch vụ đi kèm như gửi thông báo về tiền nước, triển khai thanh toán điện tử và tiếp nhận nhanh các phản ánh từ khách hàng.

Là một phần của nhiệm vụ, các mẫu đồng hồ nước thông minh cải tiến từ đồng hồ nước truyền thống cũng đã được triển khai lắp đặt tại khắp khuôn viên trường Đại học Bách Khoa (17 cái với  Lora Gateway đặt ở sân thượng tòa nhà B4), khu Ký túc xá Đại học Bách Khoa (60 cái, phạm vi từ tầng 12 đến tầng 12, với Lora Gateway đặt ở sân thượng tầng 11) và một khu dân cư ở khu vực nông thôn (50 cái, với Lora Gateway đặt ở một trạm phát cao 10m). 

dhn7

Giao diện giám sát lượng nước tiêu thụ đối với 1 đồng hồ nước được lắp đặt thử nghiệm tại Ký túc xá Đại học Bách Khoa

Các thử nghiệm về độ ổn định của thu phát dữ liệu từ đồng hồ về các Lora Gateway ghi nhận sự ổn định, khoảng cách; và toàn bộ đồng hồ nước đều có tín hiệu kết nối tốt ngay cả ở các góc khuất, tầng xa nhất (đối với khuôn viên Đại học Bách Khoa và khu ký túc xá), hay đồng hồ lắp xa nhất 800m trong khu dân cư nông thôn vẫn có tín hiệu tốt mặc dù xung quanh khu vực có rất nhiều tán cây che khuất. 

Hiệu quả kinh tế cao

Theo lời PGS.TS Lê Minh Phương, giải pháp là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ đã dựa trên ý tưởng sử dụng công nghệ thông minh để truyền dữ liệu giữa các đồng hồ cơ thế hệ cũ. 

"Đây là sản phẩm có tính ứng dụng cao, và có thể cải tiến hệ thống truyền thống "không thông minh" thành hệ thống thông minh với giá thành thấp", PGS.TS Lê Minh Phương nhấn mạnh, "Công nghệ mới này có thể giảm được giá thành của đồng hồ nước điện tử hiện ở mức từ 3 - 4 triệu đồng, xuống chỉ còn vào khoảng 700.000 đến 1 triệu đồng, và điều này giúp chúng ta có thể triển khai hệ thống một cách hoàn hảo và hiệu quả về kinh phí đầu tư". 

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cũng khẳng định, quyết tâm hoàn thiện giải pháp đề ra cũng xây dựng mô hình quản lý tập trung theo cấu trúc mở nhằm thể hiện "hoài bão" là không chỉ tập trung vào sản phẩm đồng hồ nước thông minh, mà xa hơn là muốn tập hợp thành một hệ thống sinh thái cho đồng hồ nước thông minh, đèn chiếu sáng thông minh và đo lường điện thông minh cho TP.HCM nói riêng và tất cả tỉnh, thành trên phạm vi toàn quốc nói chung.

Tựu trung, với việc chế tạo thành công bộ chuyển đổi đồng hồ nước dạng cơ truyền thống sang phiên bản với khả năng đo đếm thông minh, tích hợp khả năng vận hành - giám sát qua IoT đã khẳng định sự sẵn sàng của đội ngũ trí thức, chuyên gia và nhà khoa học tại TP.HCM trước xu hướng 4.0 thông qua việc từng ngày hoàn thiện những giải pháp thực tiễn, gắn liền với đời sống người dân cũng như cơ quan, đơn vị trong từng lĩnh vực dịch vụ liên quan.

 

Thông tin liên hệ:

Phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử công suất (Trường Đại học Bách Khoa)

Địa chỉ:  268 Lý Thường Kiệt P.14 Q.10, TP.HCM

Điện thoại: 0988572177

E-mail: lmphuong@hcmut.edu.vn

Kết quả cho thấy tiềm năng tái chế tro xỉ từ các lò đốt nhiên liệu, chất thải khuôn đúc và bùn thải không nguy hại từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, cũng như công nghệ tái chế các loại chất thải nêu trên đều là những vấn đề còn đang bỏ ngỏ.

Tính đến năm 2022, trong tổng số 17 khu chế xuất/khu công nghiệp (KCX/KCN) đang hoạt động trên địa bàn TP.HCM thì hiện chỉ có 3 KCX (Tân Thuận, Linh Trung 1, Linh Trung 2) và 3 KCN (Cát Lái 2, Đông Nam, Lê Minh Xuân) đã đầu tư trạm phân loại, trung chuyển chất thải các loại. Phần lớn KCN còn lại sử dụng dịch vụ do các đơn vị có chức năng thu gom trực tiếp tại các nhà máy có phát sinh. Tuy nhiên, việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải công nghiệp thông thường trong KCN/KCX chưa được kiểm tra, giám sát triệt để. 

tro1

Khảo sát các nguồn thải công nghiệp thông thường

Tổng thể, các nguồn phát thải chất thải công nghiệp nói chung và chất thải tro xỉ, bùn, chất thải khuôn đúc nói riêng chủ yếu là dạng phân tán và nhỏ lẻ, khó thu gom vì thế trong nhiều trường hợp chúng được quản lý tùy tiện, không có tính hệ thống và rất phức tạp ở các khâu quản lý tại nguồn, xả thải và xử lý. Thành phần chất thải công nghiệp thông thường đa dạng, biến động lớn, phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào, công nghệ, công suất, kỹ thuật vận hành... ảnh hưởng đến việc định tính để xác định tính nguy hại hay không nguy hại, đồng thời ảnh hưởng đến cơ hội tái chế và cộng sinh công nghiệp. Việc xử lý và thải bỏ vẫn còn bỏ ngõ, không thuộc phạm vi quản lý của Ban quản lý KCX/KCN, do vậy các thông tin liên quan cũng như các giải pháp xử lý đối với từng loại chất thải không được công bố cụ thể và khó xác định được mức độ phù hợp của công nghệ và mức độ an toàn của các giải pháp. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cũng thiếu văn bản, thông tin hướng dẫn về hoạt động quản lý chất thải công nghiệp tại nguồn phát sinh, trong quá trình thu gom, vận chuyển, tái chế và cộng sinh công nghiệp, dẫn đến việc chưa có mô hình quản lý hiệu quả, khép kín từ công đoạn lưu trữ tại nguồn đến công đoạn tái chế hoặc xử lý cuối cùng.

tro2

Công nghệ đúc khuôn mẫu chảy và chất thải khuôn đúc tại một cơ sở sản xuất

Vì vậy, PGS.TS Lê Thị Kim Oanh (chủ nhiệm nhiệm vụ) và cộng sự ở Đại học Văn Lang đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải công nghiệp thông thường (tro, xỉ, vỏ khuôn đúc, bùn thải) từ các nhà máy công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và Xây dựng Sổ tay hướng dẫn xử lý và tái sử dụng”. 

Theo PGS.TS Lê Thị Kim Oanh, ở hầu hết trạm xử lý nước thải của các nhà máy, quy trình vận hành chưa được tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt là các hoạt động xả bùn định kỳ, xử lý bùn tại nguồn và lưu trữ bùn riêng hay chung với các loại bùn/chất thải khác. Do vậy, trong quá trình cân bằng vật chất, không chỉ sử dụng số liệu đo đạc trực tiếp, hoặc số liệu thống kê theo tháng hay năm, mà còn phải dùng số liệu thứ cấp để tính toán lượng bùn phát sinh. Ngoài ra, tùy mục tiêu tái sử dụng, tái chế và xử lý cuối cùng mà ngưỡng nguy hại có thể giao động. Do vậy, đối với các loại chất thải đặc thù, cần có các quy định chi tiết, cụ thể hơn, làm cơ sở phát triển từng lĩnh vực tái chế.

tro3

 

Lấy mẫu chất thải phục vụ quá trình cân bằng vật chất

Sau khi thực hiện khảo sát, lấy mẫu và thu thập thông tin từ các bên liên quan trong hệ thống quản lý chất thải công nghiệp và công nghiệp nguy hại (tập trung vào 3 loại chất thải: tro xỉ, bùn từ trạm xử lý nước thải công nghiệp và chất thải khuôn đúc), PGS.TS Lê Thị Kim Oanh cho biết, có một số vấn đề cần lưu ý hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường, tăng cường tái sử dụng – tái chế, hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn. Chẳng hạn như hệ thống văn bản, chính sách, quy định hiện hành liên quan đến việc quản lý chất thải công nghiệp/nguy hại tương đối đầy đủ, đáp ứng mục tiêu bảo vệ môi trường, nhưng vẫn thiếu các hướng dẫn thực thi hiệu quả nhằm giảm thiểu chi phí quản lý và xử lý, đồng thời tăng cường cơ hội tái chế và cộng sinh công nghiệp. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu chưa được quản lý hiệu quả, chưa được số hoá, đây là vấn đề đặc biệt khó khăn cho các đơn vị làm công tác quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu. 

tro4

Sân phơi bùn và máy nén bùn tại cơ sở được khảo sát

Nhóm thực hiện đã xây dựng 4 bộ cơ sở dữ liệu về chất thải công nghiệp trên địa bàn TP.HCM: (1) Tro, xỉ từ các lò đốt sinh nhiệt, sinh hơi của các cơ sở công nghiệp trong 17 KCN/KCX; (2) Bùn thải từ trạm xử lý nước thải của các ngành công nghiệp khác nhau và của trạm xử lý nước thải tập trung; (3) Chất thải khuôn đúc từ các công nghệ đúc trên địa bàn và (4) Các cơ sở thu gom, tái chế và xử lý. 

Từ những bộ cơ sở dữ liệu này, cơ quan quản lý sẽ có thêm nhiều số liệu, thông tin về chất thải, chủ nguồn thải và các đơn vị thu gom - xử lý chất thải, cũng như danh mục các giải pháp công nghệ có thể ứng dụng để tái sử dụng, tái chế và cộng sinh công nghiệp. Nhóm thực hiện cũng xây dựng 3 sổ tay hướng dẫn tái sử dụng và tái chế chất thải, phục vụ công tác quản lý các loại chất thải đã đề cập ở trên, kèm theo là một số giải pháp tái sử dụng, tái chế, cộng sinh công nghiệp được ứng dụng trong việc tái sử dụng, tái chế và cộng sinh công nghiệp các loại chất thải tro xỉ, bùn và khuôn đúc (có phân tích hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường).

tro5

Sổ tay hướng dẫn tái sử dụng và tái chế chất thải

PGS.TS Lê Thị Kim Oanh khẳng định: “Cơ sở dữ liệu về thành phần, đặc tính và hệ số phát thải cho mỗi loại chất thải là nguồn cơ sở khoa học vô cùng hữu ích phục vụ thiết kế các chuỗi cung ứng liên quan đến chất thải công nghiệp thông thường, và là cơ sở để góp phần phát triển cộng sinh công nghiệp và kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu này sẽ rất hữu ích phục vụ công tác quản lý và quy hoạch cơ sở hạ tầng quản lý chất thải công nghiệp.”.

Kết quả của nhiệm vụ là cơ sở khoa học đáng tin cậy cho cơ quan quản lý (điển hình như Ban Quản lý Khu công nghiệp và Khu Chế xuất TP.HCM - HEPZA) trong việc tổ chức, triển khai và xây dựng các văn bản pháp luật, giải pháp quản lý các loại chất thải, đồng thời còn là cơ sở khoa học phát triển cộng sinh công nghiệp và kinh tế tuần hoàn, đáp ứng mục tiêu số 12 “Tiêu thụ và sản xuất có trách nhiệm” về phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc. Việc xác định đầy đủ các thông số kỹ thuật liên quan đến chất thải (bao gồm: nguồn và định mức phát sinh, khối lượng, thành phần; hiện trạng thu gom, trung chuyển và vận chuyển; hiện trạng tái sử dụng, xử lý và thải bỏ; đồng thời chỉ ra các bất cập trong cơ cấu quản lý, các hệ thống các văn bản chính sách quản lý chất thải công nghiệp) cũng sẽ góp phần xây dựng thông tin hoàn chỉnh về chất thải tro, xỉ và bùn tại TP.HCM, tạo cơ hội để kết nối các nguồn thải đến các đơn vị xử lý có chức năng, hỗ trợ doanh nghiệp không vi phạm trong công tác chuyển giao chất thải.

 

Thông tin liên hệ:
Đại học Văn Lang
Địa chỉ: 69/68 Đặng Thùy Trâm, phường 13, quận Bình Thạnh, TPHCM
Điện thoại: (028) 71099246

Website: www.vlu.edu.vn

Email: k.moitruong@vlu.edu.vn 

Mạng liên kết thông tin khoa học và công nghệ (hệ thống STINET) vừa có sự tham gia của 5 đơn vị là các viện, trường tại TP.HCM, nâng tổng số lên 44 đơn vị thành viên trong năm 2022.

Đây là tín hiệu tích cực cho thấy hệ thống ngày càng có thêm nhiều nguồn tài liệu khoa học và công nghệ (KH&CN) phục vụ hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo tại TP.HCM.

Theo Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN (đơn vị triển khai và vận hành STINET), mạng liên kết thông tin KH&CN TP.HCM được tổ chức thực hiện từ năm 2018, theo Quyết định số 6770/QĐ-UBND ngày 27 tháng 12 năm 2016 do Ủy ban Nhân dân Thành phố phê duyệt. Hệ thống hướng đến mục tiêu phát triển, làm phong phú nguồn lực thông tin KH&CN phục vụ hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu - giảng dạy, sinh viên, học sinh, doanh nghiệp và cộng đồng; tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để người dùng tiếp cận, khai thác hiệu quả nguồn lực thông tin KH&CN trên địa bàn TP.HCM.

08HDKHLVSTINETbai2h2ok.jpg

Nguồn lực thông tin trên hệ thống được tạo lập do sự liên kết giữa các thành viên trên tinh thần hợp tác, tự nguyện bao gồm các thông tin về kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN, sách, giáo trình nội bộ, luận văn, luận án, tạp chí chuyên ngành KH&CN, tài liệu hội thảo,...

Hiện tại, STINET có 44 đơn vị thành viên tham gia đóng góp gần 524.000 tài liệu thư mục, trong đó có hơn 109.000 toàn văn; phục vụ hơn 179.000 lượt truy cập. Hệ thống cho phép người dùng truy cập và tra cứu các tài liệu được chia sẻ từ các đơn vị thành viên theo cơ chế mở, không giới hạn quyền truy cập và không thu phí.

Với sự tham gia của 5 đơn vị trong năm 2022, hệ thống sẽ có thêm nhiều nguồn thông tin, tài liệu KH&CN phong phú, cho phép người dùng dễ dàng tiếp cận và khai thác phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh…

Các dạng tài liệu chủ yếu là sách, tạp chí, luận văn, luận án, giáo trình, kết quả nhiệm vụ KH&CN, tài liệu hội thảo – hội nghị,… được chia sẻ từ các đơn vị thành viên của hệ thống. Điển hình như nguồn lực được chia sẻ từ Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN (CESTI), Trường Đại học Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM), ĐH Quốc tế (ĐHQG-HCM), Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, Thư viện Trung tâm ĐHQG TP.HCM, ĐH Sài Gòn, ĐH Công nghiệp TP.HCM, ĐH Tài nguyên và Môi trường TP.HCM, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM, ĐH Ngân hàng TP.HCM, ĐH Y dược TP.HCM, ĐH Công nghệ TP.HCM, ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, ĐH Kiến trúc TP.HCM, ĐH Bách khoa TP.HCM,…

Người dùng có thể tra cứu và xem trực tuyến các tài liệu toàn văn có sẵn hoặc có link liên kết toàn văn đến website của từng đơn vị thành viên. Đặc biệt, các tài liệu dạng đề tài nghiên cứu (kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN), luận văn luận án và tài liệu hội thảo hội nghị của TP.HCM được chia sẻ toàn văn trên hệ thống, cho phép người dùng xem trực tuyến nội dung toàn văn của các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn luận án và các tài liệu hội thảo khoa học.

08HDKHLVSTINETbai2h3.jpg

Để sử dụng, chỉ cần truy cập hệ thống, nhập từ khóa (một hoặc một vài cụm từ) vào ô tìm kiếm, hệ thống sẽ thực hiện tìm kiếm và hiển thị kết quả là tất cả các loại hình tài liệu của tất cả các đơn vị liên kết. Kết quả tìm kiếm sẽ được thống kê số lượng theo các loại hình tài liệu (luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, bài trích, sách…) và theo từng đơn vị có trên hệ thống. Trang kết quả sẽ hiển thị thông tin cơ bản của tài liệu, người dùng có thể xem chi tiết thông tin tài liệu, xem nội dung toàn văn trực tuyến hoặc link xem toàn văn (nếu có) và liên hệ trực tiếp với đơn vị cung cấp tài liệu. Ngoài ra, STINET cũng có ứng dụng trên thiết bị di động với 2 nền tảng phổ biến là iOS và Android. Người dùng có thể tải app và thực hiện tra cứu, tìm kiếm thông tin bằng điện thoại. Trong quá trình tra cứu nếu gặp khó khăn hoặc có vấn đề cần hỗ trợ, người dùng có thể gửi yêu cầu hỗ trợ trên hệ thống hoặc liên hệ với chuyên viên hỗ trợ qua tin nhắn, điện thoại, email.

Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN cho biết, STINET sẽ tiếp tục phát triển hệ thống và mở rộng liên kết đến các tổ chức KH&CN, viện, trường khác trên địa bàn TP.HCM trong thời gian tới. Đồng thời tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để người dùng tiếp cận, khai thác hiệu quả nguồn lực thông tin KH&CN trên địa bàn TP.HCM; lan tỏa và phát huy hiệu quả của hệ thống để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu tra cứu, tìm kiếm, chia sẻ thông tin, trao đổi hợp tác sản xuất kinh doanh cũng như công tác phát triển nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trên địa bàn Thành phố.

Lam Vân (CESTI)

Mẫu sinh phẩm hóa sinh đông khô với 6 thông số thường quy có độ ổn định và đồng nhất cao, đủ tiêu chuẩn để có thể triển khai trên quy mô lớn, đáp ứng được nhu cầu của các phòng xét nghiệm hiện nay. Làm chủ được công nghệ và quy trình sản xuất mẫu sinh phẩm hóa sinh đông khô còn giúp đảm bảo nguồn mẫu ổn định, duy trì việc kiểm soát chất lượng xét nghiệm được liên tục, giảm phụ thuộc vào nguồn cung ngoại nhập.

Xét nghiệm hóa sinh là một trong những chỉ định cận lâm sàng thường quy tại các cơ sở y tế. Kết quả xét nghiệm hóa sinh là căn cứ quan trọng cho các quyết định điều trị, chẩn đoán sớm và dự phòng bệnh, trong nghiên cứu khoa học trong y học... Do đó, việc bảo đảm độ tin cậy và chất lượng của kết quả xét nghiệm hóa sinh là hết sức quan trọng, cần tiến hành bằng hoạt động quản lý chất lượng xét nghiệm (bao gồm kiểm tra chất lượng và đảm bảo chất lượng). 

Để triển khai được kiểm tra chất lượng xét nghiệm, các các trung tâm kiểm chuẩn xét nghiệm cần phải có mẫu ngoại kiểm, đây là một dạng vật liệu - mẫu chuẩn đảm bảo đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật để có thể tiến hành triển khai ngoại kiểm, đánh giá chất lượng các phòng xét nghiệm một cách khách quan.

Hiện nay, nhu cầu sử dụng mẫu ngoại kiểm hóa sinh của các phòng xét nghiệm là rất lớn. Tuy nhiên, các mẫu kiểm chuẩn hóa sinh đang có tại Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài như Biorad (Mỹ), Randox (Anh), khiến cho hoạt động ngoại kiểm bị phụ thuộc (điều kiện vận chuyển, chính sách phân phối…) thiếu tính chủ động. Nguyên nhân là vì quy trình sản xuất mẫu sinh phẩm dùng trong kiểm tra chất lượng xét nghiệm thuộc dạng công nghệ được các công ty nước ngoài bảo mật rất chặt chẽ (liên quan đến thương mại). Một điểm yếu dễ thấy nữa, là giá thành cung cấp mẫu ngoại nhập cao, dẫn đến hoạt động ngoại kiểm khá tốn kém. Do đó, Trung tâm Kiểm chuẩn Xét nghiệm TPHCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ “Nghiên cứu chế tạo mẫu sinh phẩm đông khô dùng kiểm chuẩn xét nghiệm hóa sinh đối với sáu thông số thường quy” nhằm nghiên cứu sản xuất mẫu ngoại kiểm hóa sinh ngay trong nước. Đây là nhiệm vụ rất cấp thiết để các phòng xét nghiệm có thể chủ động nguồn mẫu với mức giá thấp hơn so với mẫu nước ngoài, giúp giảm đáng kể chi phí tham gia ngoại kiểm. 

Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Sở KH&CN TPHCM tổ chức hồi cuối tháng 6/2022 vừa qua, TS. Trần Hữu Tâm (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết nhóm thực hiện đã sản xuất thành công mẫu sinh phẩm hóa sinh dạng đông khô, phù hợp để dùng trong ngoại kiểm tra chất lượng xét nghiệm hóa sinh. Mẫu chứa 6 thông số thường quy được sử dụng phổ biến tại các phòng xét nghiệm gồm: protein, glucose, cholesterol, triglyceride, Aspartat Aminotransferase (AST), Alanin Aminotransferase (ALT). Các thông số này cũng là những thông số phổ biến trong các chỉ định lâm sàng và cận lâm sàng dùng trong chẩn đoán và theo dõi tình trạng bệnh lý.

spkho1

Mẫu sinh phẩm hóa sinh dạng đông khô

Cụ thể, nhóm thực hiện đã áp dụng công nghệ đông khô (sấy thăng hoa) để sản xuất lô mẫu sinh phẩm hóa sinh (dạng lọ đông khô), đạt độ ổn định và đồng nhất trong thời gian 6 tháng (ở điều kiện bảo quản 25 – 30 độ C, độ ẩm 70 - 80%) tương đương với các mẫu ngoại kiểm hiện có trên thị trường. Mẫu được điều chế theo công thức, có bổ sung một lượng chính xác các thông số biết trước vào chất nền, có nguồn gốc giống với mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân, với nồng độ các thông số thường quy được kiểm soát và gia giảm có chủ đích nhằm đảm bảo cơ sở khoa học, đáp ứng các yêu cầu đặc biệt trong kiểm chuẩn và đạt được sự đồng nhất cao. 

spkho2

Kết quả tối ưu hóa quy trình đông khô

Nguồn nguyên liệu đầu vào của mẫu sinh phẩm là huyết tương không có sợi tơ huyết, màu vàng cam, âm tính với các loại virus (viêm gan B, viêm gan C, HIV, giang mai…). Mẫu sinh phẩm sau khi đông khô được tạo thành bánh nguyên khối, màu trắng, không bị đứt đoạn và bị trào. Mẫu sau khi hoàn nguyên phải tan hoàn toàn, không có cặn. Nồng độ các thông số hóa sinh củ mẫu đạt yêu cầu. Mẫu không có khuẩn lạc vi sinh vật mọc trên môi trường kiểm tra.

“Dạng mẫu sinh phẩm này khi sản xuất đòi hỏi kỹ thuật cũng như thiết bị sử dụng (cân, dụng cụ đong thể tích…) phải chính xác để đảm bảo độ ổn định và đồng nhất của mẫu. Mặt khác, đơn vị sản xuất cũng cần chuẩn bị sẵn các thiết bị, phương pháp chuẩn nhằm đánh giá mẫu sau khi sản xuất một cách chính xác.”, TS. Trần Hữu Tâm chia sẻ kinh nghiệm sản xuất mẫu sinh phẩm. 

Nhóm thực hiện cũng xây dựng quy trình sản xuất mẫu sinh phẩm hóa sinh dạng đông khô với quy mô 100 lọ mẫu/đợt sản xuất, đạt các tiêu chuẩn cơ sở về cảm quan cũng như chất lượng mẫu theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 17043, có tiêu chuẩn cơ sở kiểm tra nguyên liệu và thành phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 17043.

spkho3

Theo dõi hạn dùng của thông số glucose trong mẫu từ đề tài ở ba điều kiện bảo quản

Các lọ đông khô đã được gửi đến 20 phòng xét nghiệm để chạy thử nghiệm trên 4 dòng máy (Beckman Coulter AU680, Abbott Architect c8000, Mindray BA-88A, Roche Cobas c311) nhằm mục đích đánh giá sự tác động của môi trường thực tế đối với mẫu. Kết quả, 19/20 phòng xét nghiệm cho biết mẫu phù hợp để dùng hằng ngày (hoặc định kỳ) để kiểm chuẩn, giám sát chất lượng xét nghiệm hóa sinh lâm sàng. 

Điều này chứng tỏ, mẫu sinh phẩm hóa sinh đông khô với 6 thông số thường quy có độ ổn định và đồng nhất cao, đủ tiêu chuẩn để có thể triển khai trên quy mô lớn, đáp ứng được nhu cầu của các phòng xét nghiệm hiện nay. Từ đó, việc sản xuất quy mô lớn mẫu sinh phẩm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai ngoại kiểm, góp phần vào hoạt động nâng cao chất lượng xét nghiệm và liên thông kết quả xét nghiệm trong tương lai. Mặt khác, các cơ sở y tế cũng dễ tuân thủ và đạt các tiêu chuẩn, yêu cầu về đảm bảo chất lượng xét nghiệm. Riêng cơ quan quản lý chất lượng xét nghiệm có thể chủ động hoạch định và triển khai các chiến lược, kế hoạch quản lý chất lượng, kiểm chuẩn phù hợp với chính sách, mục tiêu đề ra. Làm chủ được công nghệ và quy trình sản xuất mẫu sinh phẩm hóa sinh đông khô còn giúp đảm bảo nguồn mẫu ổn định, duy trì việc kiểm soát chất lượng xét nghiệm được liên tục.

TS Trần Hữu Tâm và nhóm nghiên cứu cũng kiến nghị Sở KH&CN TPHCM hỗ trợ nhóm thực hiện mở rộng nghiên cứu thêm các thông số mới, cụ thể như Ure, Creatinin, Albumin, Bilirubin, Acid Uric... nhằm đáp ứng được nhu cầu phân tích hiện nay của các phòng xét nghiệm. 

"Bên cạnh đó, để tăng giá trị thương mại hóa của mẫu sinh phẩm hóa sinh đông khô, cũng sẽ cần đến những giải pháp cải tiến nhằm tăng tuổi thọ mẫu, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai chương trình ngoại kiểm", đại diện Trung tâm Kiểm chuẩn Xét nghiệm TPHCM thông tin thêm.

spkho4

Toàn cảnh hội đồng tư vấn nghiệm thu khoa học - công nghệ

Kết quả của nhiệm vụ chứng minh Việt Nam hoàn toàn có thể tự sản xuất được mẫu sinh phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật về mẫu kiểm chuẩn của thế giới. Hơn thế, kết quả này sẽ là cơ sở khoa học để triển khai mở rộng nghiên cứu, tạo ra thêm nhiều mẫu sinh phẩm phục vụ cho kiểm tra chất lượng các xét nghiệm khác như nước tiểu, đông máu, tim mạch,… Từ đó, có thể sử dụng trong đào tạo tập huấn, kiểm tra, hiệu chuẩn quy trình, thiết bị, hóa chất và tay nghề kỹ thuật viên xét nghiệm.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Kiểm chuẩn Xét nghiệm TPHCM
Địa chỉ: 75A Cao Thắng, P.3, Q.3, TPHCM
Điện thoại: (028) 38391090

Email: kcxntp@csql.vn 

Website: http://csql.gov.vn 


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353