SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Sự chủ động trong việc chế tạo preform chai PET giúp doanh nghiệp tăng năng suất và đảm bảo nguồn phụ liệu cho toàn bộ quá trình sản xuất, hoạt động kinh doanh.

Tại Việt Nam hiện nay, một số công ty khuôn mẫu như Duy Tân, Ngọc Nghĩa, và Duy Khanh đã sản xuất được khuôn preform phôi nhựa PET với số lượng cavity (sản phẩm) trên khuôn phổ biến là 16, 24, 32, 48; nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất chai PET với quy mô nhỏ và vừa. Với số lòng khuôn lên đến 96 cavity thì chưa có công ty Việt Nam nào nghiên cứu chế tạo để cung cấp cho các nhà sản xuất chai PET với quy mô lớn, và tất cả các khuôn 96 cavity này đều đang được nhập từ nước ngoài.

Hhinh dai dien.jpg

Khuôn preform 96 cavity do doanh nghiệp cơ khí trong nước sản xuất giúp các công ty sản xuất nước giải khát và thực phẩm chủ động hơn trong việc chuẩn bị nguồn nguyên liệu đầu vào

Trong khi đó, các nhà sản xuất quy mô lớn (như công ty nước giải khát như Tân Hiệp Phát, Pepsi Co, Coca Cola,…) mong muốn tìm nhà cung cấp ở Việt Nam để đặt hàng khuôn 96 cavity trong nước. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có các công ty sản xuất lớn về các sản phẩm phôi preform để thổi chai nhựa PET như Ngọc Nghĩa, Bảo Vân, Nhựa Tân Tiến, Nhựa Rạng Đông,… đang chiếm lĩnh thị phần bao bì nhựa dùng trong đóng gói sản phẩm cũng có nhu cầu đặt khuôn 96 cavity để nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Do đó, nhu cầu sử dụng khuôn preform trên thị trường là tương đối cao, là cơ hội tiếp cận để cung cấp các khuôn preform cho các doanh nghiệp này.

Bên cạnh đó, các tập đoàn nước ngoài cũng đang mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm chai nhựa tại Việt Nam. Với quy mô sản xuất lớn thì việc ứng dụng khuôn preform 96 cavity là hoàn toàn khả thi.

H-1.jpg


Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh thử khuôn preform 96 cavity tại một nhà máy sản xuất nước giải khát

Kỹ sư Đặng Khiêm Cương (công ty TNHH cơ khí Duy Khanh) cho biết, ngày nay, trên thế giới với trình độ công nghệ ngày càng phát triển, nên việc sản xuất các máy ép nhựa cỡ lớn trở nên phổ biến để sử dụng cho các khuôn preform với số lòng khuôn lớn như 96 cavity. Do nhu cầu ngày càng tăng, các nhà sản xuất chai PET dần dần đều chuyển sang đầu tư dây chuyền sản xuất cho các khuôn preform cỡ lớn ngày càng phổ biến để giảm chi phí trong sản xuất, tăng năng suất và giảm giá thành sản phẩm. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu của dây chuyền cho khuôn lớn 96 cavity cao hơn khuôn dưới 50 cavity nhưng xét về quá trình sản xuất lâu dài với quy mô sản lượng lớn thì khuôn 96 cavity cho hiệu quả kinh tế tốt hơn rất nhiều.

Nhận thấy nhu cầu là rất lớn từ các nhà máy sản xuất nước giải khát và hàng tiêu dùng nhanh trong nước, nhóm kỹ sư và chuyên gia tại công ty TNHH cơ khí Duy Khanh (quận Tân Phú, TP.HCM) đã chủ động đề xuất triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu công nghệ và thiết kế, chế tạo khuôn preform phôi PET 96 cavity phục vụ cho sản xuất thổi chai nhựa PET".

Kỹ sư Đặng Khiêm Cương, thành viên triển khai nhiệm vụ cho biết, mục tiêu tổng quát được nhóm nghiên cứu đặt ra là nghiên cứu, tính toán, mô phỏng, thiết kế và chế tạo hoàn chỉnh khuôn preform phôi nhựa PET 96 cavity, phục vụ cho quá trình sản xuất chai nhựa tại các nhà máy sản xuất chai PET, các nhà máy sản xuất nước giải khát tại Việt Nam.

Trong đó, mục tiêu cụ thể được xác định là (1) Làm chủ được quá trình tính toán thiết kế và công nghệ gia công chế tạo bộ khuôn preform 96 cavity cũng như hướng đến thiết kế, chế tạo các bộ khuôn nhiều cavity hơn tại Việt Nam khi thị trường có nhu cầu; (2) Tạo ra sản phẩm khuôn 96 cavity tại Việt Nam với chất lượng tốt, giảm giá thành so với ngoại nhập, thay thế hàng nhập khẩu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước; và (3) Nâng cao năng lực tự nghiên cứu, năng lực thiết kế, sản xuất chế tạo, lắp ráp khuôn của đội ngũ cán bộ, nhân viên công ty TNHH cơ khí Duy Khanh tham gia đề tài.

H-2.jpg

Sơ nguyên lý hoạt động tổng thể khuôn preform 96 cavity

Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cho biết, so với các kỹ thuật khác trên thị trường (như kỹ thuật đùn thổi), kỹ thuật ép phun nhựa PET được lựa chọn rất nhiều nhờ những lợi ích mang lại, đặc biệt với nhu cầu sản xuất chai nhựa lớn hiện nay thì việc sử dụng công nghệ ép phun nhựa PET trên khuôn preform 96 cavity lại càng mang lại lợi ích lớn.

Công nghệ ép phun nhựa PET với áp suất phun nhựa cao đảm bảo rằng vật liệu nóng chảy đạt đến mọi kẽ hở của khuôn trước khi đóng rắn, giúp tăng độ chính xác, chất lượng bề mặt và cơ tính tốt hơn.

 

Để sản xuất chai PET, preform phôi PET phải được sản xuất và sau đó đưa vào khuôn thổi. Cả hai quy trình có thể được thực hiện độc lập bằng cách sử dụng các máy móc khác nhau: quy trình 1 giai đoạn (còn gọi là 1,5 bước) hoặc trong quy trình 2 giai đoạn. Trong quy trình 1 giai đoạn, nhựa PET được ép tạo phôi preform và chuyển sang thổi thành chai trong một máy.

Còn trong quy trình 2 giai đoạn, preform phôi PET được sản xuất trên máy ép phun. Sau đó, các phôi preform đã hoàn thành với một cổ chai hoàn chỉnh có thể được làm nóng lại để thổi thành chai trong máy thổi chai ở bước 2.

Hiện nay, chai PET đa phần được chế tạo bằng phương pháp ép 2 giai đoạn độc lập do đây là phương pháp có nhiều ưu điểm vượt trội như là một loại phôi có thể sản xuất nhiều loại chai với mẫu mã khác nhau, cung cấp cho nhiều đối tác khách hàng khác nhau; năng suất cao hơn, ổn định hơn; chi phí đầu tư máy tối ưu hơn.

Sau thời gian nghiên cứu nghiêm túc, đội ngũ kỹ sư - chuyên gia tại công ty TNHH cơ khí Duy Khanh đã thiết kế 3D hoàn thiện của 2 bộ khuôn preform 13,25g và 15,6g 96 cavity, cùng với đó là 2 bộ khuôn preform 13,25g và 15,6g 96 cavity được lắp ráp hoàn chỉnh. Ngoài ra, nhóm cũng hoàn thiện quy trình công nghệ gia công chế tạo các chi tiết quan trọng trong khuôn preform phôi nhựa PET 96 cavity.

Sản phẩm khuôn được đưa vào thử nghiệm thực tế tại một công ty nước giải khát, ghi nhận năng suất ép sản phẩm thực tế trên khuôn đạt năng suất yêu cầu đề ra ở mức 26.584 sản phẩm/giờ. Kích thước sản phẩm sau khi ép thử lần cuối đạt dung sai, cũng như yêu cầu kỹ thuật bản vẽ sản phẩm.

Đại diện lãnh đạo công ty TNHH cơ khí Duy Khanh khẳng định, hiệu quả khoa học - công nghệ của nhiệm vụ chính là đã làm chủ được quá trình tính toán thiết kế và công nghệ gia công chế tạo bộ khuôn preform 96 cavity cũng như hướng đến thiết kế, chế tạo các bộ khuôn nhiều cavity hơn tại Việt Nam khi thị trường có nhu cầu. Đồng thời, tạo được cơ sở dữ liệu, làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu cũng như cho quá trình tính toán, thiết kế và chế tạo khuôn preform 96 cavity tương tự hoặc nhiều hơn 96 cavity (144 cavity,…) tại Việt Nam trong tương lai.

Chia sẻ về hiệu quả kinh tế - xã hội, kỹ sư Đặng Khiêm Cương cho biết nhiệm vụ đã giúp tạo ra sản phẩm khuôn 96 cavity tại Việt Nam với chất lượng tốt, giảm giá thành so với ngoại nhập, thay thế hàng nhập khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hóa cho các ngành sử dụng khuôn preform.

Nhận định về kết quả của nhiệm vụ, ông Đỗ Phước Tống - Chủ tịch hội đồng thành viên Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh, Chủ tịch Hội Cơ khí - Điện TP.HCM (HAMEE) cho biết: đề tài nghiên cứu và chế tạo khuôn preform 96 cavity thực sự là một đề tài khó, vì sản phẩm rất phức tạp, rất chính xác, và đây là lần đầu tiên mà một doanh nghiệp Việt Nam dám nghiên cứu và chế tạo.

"Đề tài này đã hoàn tất hoàn hảo, ứng dụng thử nghiệm và được đánh giá cao, vì thế Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh nhận thấy sản phẩm này hoàn toàn có thể thương mại hóa, phổ biến rộng rãi cho các khách hàng khác, bởi vì sản phẩm có chất lượng cao tương đương giải pháp ngoại nhập mà giá thành giảm đến 20-30%", ông Đỗ Phước Tống nhấn mạnh.

Cũng theo lời đại diện Hội Cơ khí - Điện TP.HCM (HAMEE), kết quả của đề tài nghiên cứu này cũng là nội dung để đội ngũ giảng viên và sinh viên tại các trường đại học, viện nghiên cứu có thể học hỏi, và thông qua đó phát triển những nghiên cứu sâu rộng hơn trong ngành khuôn mẫu.

Thông tin liên hệ:

Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh

Địa chỉ: 310A Lũy Bán Bích, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM

Điện thoại: 028.38650265

Email: duykhanh@duykhanh.com - cuongdk@duykhanh.com

Website: www.duykhanh.com.vn
Tọa đàm nhằm trao đổi, thảo luận, lắng nghe ý kiến góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp để giúp hoàn thiện lại hệ thống các tiêu chí đánh giá hồ sơ tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, theo Quyết định số 35/2023/QĐ-UBND ngày 21/8/2023 của Ủy ban nhân dân TP.HCM về ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM.

Ngày 19/10/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức Tọa đàm góp ý “Tiêu chí đánh giá hồ sơ tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ”. Tham dự tọa đàm có TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM; TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng dự với Lãnh đạo Sở còn có đại diện Phòng Quản lý Khoa học, Phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ Cơ sở cũng như một số phòng ban chuyên môn và Trung tâm trực thuộc Sở. Tọa đàm này cũng đã thu hút được hơn 100 đại biểu là các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ, trường viện, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM cùng tham dự.

21102023TD3.jpg

Hơn 100 đại biểu là các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ, trường viên, trung tâm nghiên cứu tham dự buổi tọa đàm

Phát biểu tại Tọa đàm, TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cho biết, hiện nay không riêng TP.HCM mà các tỉnh thành trên cả nước đều gặp khó khăn trong vấn đề chi ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Điều này cũng dẫn tới sự chậm trễ trong việc tuyển chọn hồ sơ, lựa chọn đơn vị cũng như cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ trong thời gian vừa qua.

“Ví dụ đơn cử về vấn đề hồ sơ, thật sự chúng tôi cũng muốn nhanh nhất, nhưng quý vị cũng biết, nộp bất kỳ 1 nhiệm vụ đề xuất nào vào cho tới khi ký được hợp đồng theo quy trình thì cũng đã mất 53 ngày làm việc... chúng tôi không muốn điều đó. Cho nên thông qua tọa đàm ngày hôm nay, dựa trên chủ đề là tiêu chí đánh giá hồ sơ tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, rất mong quý thầy cô, các nhà khoa học, chuyên gia, quý doanh nghiệp cùng nhau chúng ta thẳng thắn góp ý và tiếp thu để làm sao vận dung sáng tạo nhất có thể, khắc phục những khó khăn, thay thế những hạn chế để công tác này được thực hiện một cách hiệu quả nhất, nhanh chóng nhất và tối ưu nhất. Gợi ý, thứ nhất là chúng ta rút ngắn được quá trình xét duyệt và tuyển chọn hồ sơ. Thứ hai là tiêu chí chấm điểm đề tài. Thứ ba là cách hướng dẫn thực hiện đề tài của các chủ nhiệm dành cho các cá nhân, đơn vị khi thực hiện đề tài. Thứ tư là mức chi cho nhiệm vụ khoa học công nghệ…”. TS. Nguyễn Việt Dũng chia sẻ.

21102023TD1.jpg

TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu tại tọa đàm

Cũng theo TS. Nguyễn Việt Dũng, hiện nay Sở cũng đang thực hiện các bước đề xuất và trình Hội đồng nhân dân Thành phố về việc chi ngân sách cho chủ nhiệm đề tài khi được xét duyệt. Cụ thể, mức chi có thể lên tới 60 triệu đồng, thay cho trước đây chỉ có 48 triệu đồng, khoản chi này dựa trên tinh thần của Nghị quyết 98 mà Quốc hội cho TP.HCM.

“Chúng tôi cũng có một đề xuất nữa với mức chi cao hơn, để dành cho các đơn vị muốn trở thành nghiên cứu mạnh… tất nhiên không phải đơn vị nào cũng được. Các chương trình bình thường khác thì vẫn sẽ làm đúng theo quy trình, riêng phần này là dành cho các dự án, chương trình, đề tài dài hơi có thể là 5 năm hoặc dài hơn. Và cũng chia sẻ thêm là, chi ngân sách cho nhiệm vụ khoa học công nghệ được Bộ Tài chính thiết kế trước đây theo cá nhân tôi nghĩ nó giống như việc làm thêm của các nhà khoa học, cho nên với mức thù lao như hiện tại thì khó mà nuôi được lực lương nghiên cứu viên thật sự chuyên nghiệp. Do đó, việc đề xuất chi cao hơn cho đội ngũ này sẽ đáp ứng được mức sống và khi đó chuyên gia có thể tập trung 100% vào vấn đề nghiên cứu mà không phải lo chạy ngược chạy xuôi cơm áo gạo tiền, giảng dạy…”. TS. Nguyễn Việt Dũng bộc bạch.

Cũng tại Tọa đàm bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) đã trình bày dẫn đề về tiêu chí đánh giá hồ sơ tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước TP.HCM theo Quyết định số 35/2023/QĐ-UBND ngày 21/8/2023 của UBND Thành phố (Quy chế 35) với một số nội dung cần lưu ý như: Yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ; Nguyên tắc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ; Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ; Giao trực tiếp đơn vị sự nghiệp công lập khoa học và công nghệ của Thành phố thực hiện nhiệm vụ.

Cụ thể, yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ theo Quy chế 35 thì nhiệm vụ có 01 chủ nhiệm nhiệm vụ. Trong đó, điều kiện đối với tổ chức đăng ký chủ trì đã bổ sung trường hợp tổ chức không đủ điều kiện hoặc có sai phạm dẫn đến bị đình chỉ thực hiện nhiệm vụ sẽ không được đăng ký tham gia tuyển chọn, giao trực tiếp trong thời gian 01 năm kể từ khi có quyết định đình chỉ của Sở Khoa học và Công nghệ hay như vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ. Còn điều kiện đối với cá nhân đăng ký chủ nhiệm thì không quy định số lượng nhiệm vụ do cá nhân chủ trì và nếu cá nhân có vi phạm dẫn đến bị đình chỉ thực hiện nhiệm vụ do mình làm chủ nhiệm trong thời gian 03 năm kể từ khi có quyết định của Sở Khoa học và Công nghệ thì không đủ điều kiện tham gia tuyển chọn.

“So với Quy chế 35, Quy chế 48 theo yêu cầu đối với việc thực hiện nhiệm vụ thì chỉ có 01 chủ nhiệm nhiệm vụ, ngoại trừ những nhiệm vụ có tính chất liên ngành và do thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định. Đối với tổ chức thì các trường hợp này chưa được quy định. Còn đối với cá nhân thì nếu đang làm chủ nhiệm từ 01 nhiệm vụ trở lên bằng nguồn kinh phí tài trợ của thành phố hay có sai phạm dẫn đến bị đình chỉ sẽ không được đăng ký thực hiện nhiệm vụ trong thời hạn hai năm kể từ ngày có quyết định của cơ quan có thẩm quyền sẽ không được tham gia tuyển chọn”. bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng chia sẻ. 

21102023TD2.jpg

Bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng chia sẻ tại tọa đàm

Đối với Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ thì Quy chế 35 nêu rõ Hội đồng gồm có 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch (nếu cần), 02 thành viên là ủy viên phản biện, 01 ủy viên thư ký khoa học và các thành viên khác. Số lượng các thành viên trong Hội đồng từ 05 đến 09 thành viên. Các ủy viên phản biện của Hội đồng công tác tại các tổ chức khác nhau. Giao trực tiếp đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố thành lập thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ thực hiện nhiệm vụ cụ thể gồm: Đơn vị xây dựng chương trình khoa học và công nghệ/ dự án khoa học và công nghệ; các nhiệm vụ phát sinh hàng năm phù hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị. Đơn vị gửi Chương trình/dự án khoa học và công nghệ, nhiệm vụ phát sinh về Sở Khoa học và Công nghệ để tổ chức thẩm định, phê duyệt, ký hợp đồng thực hiện. Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức quản lý nhiệm vụ theo quy định tại Quy chế. 

“Hội đồng tư vấn gồm có 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch, 02 thành viên là ủy viên phản biện, 01 ủy viên thư ký khoa học và các thành viên khác. Số lượng các thành viên trong Hội đồng tư vấn từ 05 đến 09 thành viên. Các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học của Thành phố có thể áp dụng quy định tại Chương V của Quy chế này hoặc ban hành quy định riêng phù hợp với điều kiện, đặc thù của cơ quan, đơn vị đê thực hiện việc quản lý các nhiệm vụ có sử dụng ngân sách thành phố thuộc phạm vi quản lý của mình. Cơ quan quản lý tự thực hiện”, bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng chia sẻ. 

Nguyên tắc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ với trường hợp cấp tối đa đến 100% tổng kinh phí bao gồm: Nhiệm vụ thuộc danh mục nhiệm vụ theo thông báo của Sở Khoa học và Công nghệ; Nhiệm vụ được xét giao trực tiếp theo quy định; Nhiệm vụ khác được Hội đồng đánh giá đạt từ 80/100 điểm trở lên và có sản phẩm đáp ứng một trong các tiêu chí cụ thể như: phục vụ cho khu vực công của Thành phố; phục vụ cho cộng đồng người dân Thành phố; phục vụ nhóm doanh nghiệp của Thành phố; sản phẩm mang tính đột phá so với sản phẩm cùng loại hiện có trên thị trường hoặc sản phẩm có tiềm năng phát triển trong tương lai. Ngoài ra, sẽ xem xét hỗ trợ một phần kinh phí ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ không thỏa tiêu chí nêu trên.

"Riêng Quy chế 48 ở Điều 24. Nguyên tắc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ bao gồm: Nhiệm vụ do Thành phố đặt hàng theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 Quy chế này được cấp toàn bộ kinh phí thực hiện; Dự án sản xuất thử nghiệm được hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số 22/2011/TTLT-BTC-BKHCN ngày 21 tháng 02 năm 2011 về hướng dẫn quản lý tài chính đối với các dự án sản xuất thử nghiệm được ngân sách nhà nước hỗ trợ; Nhiệm vụ không thuộc quy định tại Khoản 1 và 2 Điều này được xem xét cấp một phần kinh phí thực hiện nhưng không quá 1 tỷ đồng đối với lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, không quá 500 triệu đồng đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Trường hợp đặc biệt do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định", bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng nói.

Đối với tiêu chí đánh giá nhiệm vụ khoa học và công nghệ; khoa học xã hội và nhân văn; đề án khoa học hay tiêu chí đánh giá nhiệm vụ hỗ trợ phát triển sản phẩm (dự án sản xuất và thử nghiệm) thì TP.HCM cũng có trọng số bám khá sát với Bộ Khoa học và Công nghệ theo các bộ tiêu chí đánh giá nhiệm vụ khoa học cấp quốc gia do hiện nay không có tiêu chí đánh giá nhiệm vụ khoa học công nghệ cụ thể cho cấp tỉnh.

"Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố trên cơ sở tham khảo Bộ Khoa học và Công nghệ về tiêu chí đánh giá thuyết minh nhiệm vụ cũng gặp phải những khó khăn và vấn đề phát sinh. Thứ nhất là khi mình đành giá thì yêu cầu đánh giá hiện tại của mình chỉ đánh giá đúng định hướng, đúng mục tiêu đặt hàng, nhiệm vụ có tính mới về khoa học và công nghệ, nội dung và phương pháp và sản phẩm phù hợp với mục tiêu đề ra. Cũng như kết quả tư vấn của Hội đồng cho Sở Khoa học và Công nghệ khi không thực hiện nhiệm vụ thì đề nghị thực hiện nhiệm vụ hay đề nghị thực hiện nhiệm vụ đó với một số điều chỉnh. Tuy nhiên, đối với điều kiện thực tế của TP.HCM thì phát sinh 1 số yêu cầu sau khi quy chế mới ban hành thì ngoài yêu cầu đánh giá theo hiện tại thì có thêm các yêu cầu như: sản phẩm phải có tính đột phá, tính ưu tiên, nhiệm vụ có cần thiết hay không, phương pháp thực hiện có khả thi không, kinh phí thực hiện có phù hợp không...", bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng chia sẻ thêm.

21102023TD4.jpg

Đại diện doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học trao đổi với tinh thần cởi mở, tích cực tại tọa đàm

Được biết, tại toạ đàm đã có trên 15 phát biểu đóng góp ý kiến tới từ các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ, trường viện, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM xoay quanh các vấn đề mà Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã gợi ý trước đó. Theo Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ chia sẻ thêm, trong thời gian sắp tới đơn vị sẽ tiếp tục tổ chức thêm các buổi tọa đàm, hội thảo với nhiều nội dung khác để đưa Nghị quyết 98 của Quốc hội cho Thành phố thực sự đi vào cuộc sống.

Nhật Linh (CESTI)

Ngày 13/10/2023, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có buổi làm việc với Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM về báo cáo nội dung dự thảo “Đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế”.

Mục tiêu buổi làm việc nhằm hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh hoàn thiện nội dung Đề án theo Công văn số 3889/SKHCN-QLKH ngày 06 tháng 10 năm 2023.

Tham dự buổi làm việc về phía Bộ KH&CN có ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ KH&CN, ông Nguyễn Tiến Trung - Phó Vụ trưởng, Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và bà Nguyễn Thị Thu Hiền - Phó Vụ trưởng, Vụ Kế hoạch - Tài chính.

Về phía Sở KH&CN có ông Nguyễn Việt Dũng - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, ông Trần Hữu Chương - Phó Trưởng phòng, Phòng Kế hoạch Tài chính, bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng, Phòng Quản lý Khoa học, bà Nguyễn Thị Hoàng Lan - Kế toán trưởng, Phòng Kế hoạch Tài chính, bà Nguyễn Thị Thanh Tâm - Chuyên viên, Văn phòng Sở, ông Lê Thanh Trang - Chuyên viên, Phòng Quản lý khoa học.

dangbaiSKHCNh2.jpg

Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Việt Dũng đã trình bày các nội dung cơ bản của Đề án, cụ thể như:

- Mục tiêu của Đề án nhằm hỗ trợ một số tổ chức KH&CNcông lập có tiềm lực trên địa bàn Thành phố phát triển trở thành các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế, đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Phấn đấu đến cuối năm 2025 có ít nhất 2 đơn vị tiệm cận trình độ quốc tế; đến năm 2030 có ít nhất 5 đơn vị tiệm cận, đạt chuẩn quốc tế; đến 2045 có ít nhất 5 đơn vị đạt chuẩn quốc tế.

- Đề án tập trung vào 3 (ba) nội dung chính:

(i) Áp dụng chính sách thu hút, giữ chân người tài thông qua ưu đãi về tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong các tổ chức KH&CN công lập; ưu đãi về thù lao thực hiện nhiệm vụ KH&CN; hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động KH&CN.

(ii) Phát triển nguồn lực lâu dài thông qua việc giao thực hiện những chương trình, dự án KH&CN trung hạn, dài hạn.

(iii) Tháo gỡ những rào cản liên quan thông qua có những cơ chế tuyển chọn chương trình, dự án KH&CN, cơ chế tài chính liên quan thông thoáng hơn. Đề án sẽ đóng góp quan trọng vào việc nâng cao vị thế của Thành phố trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo ra những đột phá trong phát triển và ứng dụng mạnh mẽ KH&CN đối với sự phát triển bền vững của Thành phố theo tinh thần Nghị quyết số 31-NQ/TW là thật sự cần thiết và phù hợp với thực tiễn.

Ông Lê Xuân Định cho rằng đây là một vấn đề cấp thiết và Thành phố Hồ Chí Minh đã mạnh dạn đi đầu, được coi là một “sandbox” chính sách, Bộ KH&CN thống nhất chủ trương xây dựng Đề án này. Ngoài ra, đây cũng là nội dung mà Bộ KH&CN, Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã ký kết Chương trình phối hợp số 2029/CTPH-BKHCN-UBNDTPHCM-ĐHQGTPHCM ngày 13 tháng 10 năm 2022. Tuy nhiên, để Đề án thực hiện được thông suốt và chặt chẽ, cần bổ sung và làm rõ thêm quy trình, trình tự thực hiện, cơ chế kiểm soát.

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền và ông Nguyễn Tiến Trung thống nhất cho rằng Đề án cần sớm triển khai thực hiện. Tuy nhiên, cần xây dựng, hoàn thiện Đề án và làm rõ quy trình thực hiện Đề án.

Ông Lê Xuân Định cho biết, Bộ KH&CN sẽ giao Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương làm đầu mối tổng hợp hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Đề án này.

Ông Nguyễn Việt Dũng cám ơn sự ủng hộ của Bộ KH&CN đối với đề án, trong quá trình thực hiện, Thành phố sẽ tổ chức, đánh giá định kỳ và có thông tin, báo cáo kết quả thực hiện đến Bộ KH&CN.

 

Thanh Trang – Lam Vân

Truy xuất nguồn gốc (TXNG) là hoạt động giám sát, xác định được một đơn vị sản phẩm qua từng công đoạn theo thời gian, địa điểm của quá trình sản xuất, chế biến, lưu trữ, bảo quản, vận chuyển, phân phối và kinh doanh. Hệ thống TXNG là hệ thống bao gồm hoạt động định danh sản phẩm, thu thập và lưu trữ thông tin về trạng thái của sản phẩm theo thời gian, địa điểm nhằm quản lý thông tin về chất lượng và an toàn của sản phẩm.

Ngày 06/10/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp với Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia (GS1 VietNam, trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ) tổ chức lớp tập huấn, phổ biến, hướng dẫn áp dụng theo tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản sơ chế có bao gói cá rô, cá lóc, cá sặc, khô cá dứa… (Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9988:2013 và TCVN 9988:2013 Xác định nguồn gốc sản phẩm cá có vây).  

1092023ht1.jpg

Lớp tập huấn đã thu hút được gần 50 học viên tới từ các doanh nghiệp, Sở ban ngành, quận huyện và TP. Thủ Đức cùng tham dự

Phát biểu khai mạc lớp tập huấn, bà Võ Đình Liên Ngọc - Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM), trong năm 2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM triển khai kế hoạch tổ chức 6 lớp tập huấn về truy xuất nguồn gốc, tập trung phổ biến các tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm hàng hoá được ban hành theo Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn TP.HCM theo Quyết định 1383/QĐ-UBND, tập trung vào các nhóm hàng hoá nông nghiệp, thực phẩm. Sau tập huấn, doanh nghiệp có thể nắm bắt được những quy định về tiêu chuẩn quốc gia trong truy xuất nguồn gốc, cụ thể là 23 tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc của Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành. Đồng thời, có thể áp dụng để xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm - hàng hóa được sản xuất - kinh doanh tại từng doanh nghiệp.

"Đây là lớp tập huấn tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc cuối cùng trong năm 2023, trước đó Sở cũng đã tổ chức các lớp tập huấn về truy xuất nguồn gốc cho rau quả tươi, thịt heo, thịt gia cầm, trứng gia cầm... hay việc ứng dụng mô hình truy xuất nguồn gốc sử dụng hệ thống NBC Trace. Trong năm 2024 tới đây, chúng tôi cũng sẽ tiếp tục tổ chức nhiều lớp tập huấn hơn nữa ở khắp các lĩnh vực khác nhau, rất mong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh; Sở ban ngành, Ủy ban nhân dân các quận huyện và TP. Thủ Đức sẽ cử đại diện để cùng tham gia. Riêng trong lớp tập huấn ngày hôm này, các chuyên gia đến từ Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia sẽ giới thiệu, hướng dẫn, phổ biến tới anh chị và các bạn học viên tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản sơ chế có bao gói như cá rô, cá lóc, cá sặc, khô cá dứa theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9988:2013 và TCVN 9988:2013 Xác định nguồn gốc cá có vây. Hy vọng những nội dung này, có thể một phần nào đó góp sức cùng các đơn vị khắc phục thẻ vàng cảnh cáo thuỷ sản của Công đồng Châu Âu đang áp lên nước ta, chúng tôi cũng mong rằng trong thời gian tới, sau khi các đơn vị của Cộng đồng Châu Âu sang giám sát ở nước ta vào tháng 10 thì thuỷ sản của ta sẽ được gỡ thẻ vàng và qua đó thúc đẩy phát triển mạnh trở lại việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Châu Âu", bà Võ Đình Liên Ngọc chia sẻ.

9102023ht2.jpg

Bà Võ Đình Liên Ngọc phát biểu khai mạc lớp tập huấn

Tại lớp tập huấn, báo cáo viên của Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia đã phổ biến, hướng dẫn cụ thể việc áp dụng theo tiêu chuẩn quốc gia về truy suất nguồn gốc sản phẩm thủy sản sơ chế có bao gói cá rô, cá lóc, cá sặc, khô cá dứa… (Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9988:2013 và TCVN 9988:2013 Xác định nguồn gốc sản phẩm cá có vây). Đồng thời, hướng dẫn các đơn vị, doanh nghiệp xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuỷ sản sơ chế có bao gói áp dụng theo các tiêu chuẩn này.

Cụ thể, TCNV 9989:2013 (tương đương với ISO 12877:2011) do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/JTC1/SC31 thu thập dữ liệu tự động biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố. Nội dung, gồm 6 điều chung và quy định thông tin cần được ghi lại trong các chuỗi phân phối cá nuôi. Tiêu chuẩn này đưa ra các yêu cầu đối với chuỗi cung ứng cá nói chung, bao gồm cả nuôi trồng và đánh bắt để đảm bảo khả năng TXNG. Các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh được xác định trong tiêu chuẩn này bao gồm nhà sản xuất giống; nhà cung cấp cá bột; nhà cung cấp cá thương phẩm; nhà chế biến; nhà vận chuyển và nhà lưu kho nhà mua bán sỉ; nhà bán lẻ và bếp ăn lớn.

9102023ht3.jpg

Báo cáo viên Nguyễn Văn Công - Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia trình bày tại lớp tập huấn

Cũng trong khuôn khổ lớp tập huấn, các học viên còn được giới thiệu và hướng dẫn về mô hình truy xuất nguồn gốc sử dụng chung hệ thống NBC Trace cũng như quy trình 5 bước đăng ký để sử dụng hệ thống này, từ đó có thêm giải pháp số hóa và minh bạch thông tin sản phẩm, khẳng định thương hiệu và xây dựng niềm tin với khách hàng. Theo báo cáo viên, hệ thống NBC Trace phù hợp Tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc Quốc tế GS1 và Tiêu chuẩn, Quy chuẩn truy xuất nguồn gốc Quốc gia, phù hợp với mọi đối tượng trong chuỗi cung ứng sản phẩm - hàng hóa từ hộ kinh doanh đến doanh nghiệp. Hệ thống có khả năng tùy biến linh động, cho phép người dùng tự xây dựng quy trình riêng cho từng loại sản phẩm. Đồng thời, hệ thống cũng có khả năng tích hợp với hệ thống quản lý thông tin mã số, mã vạch sản phẩm, tham gia liên kết chuỗi cung ứng sản phẩm - hàng hóa. Mặt khác, người dùng có thể chủ động quản lý, thiết kế, in, kích hoạt tem truy xuất nguồn gốc.

Hiện nay, mô hình truy xuất nguồn gốc sử dụng chung hệ thống NBC Trace đã được ứng dụng, triển khai cho 15 sản phẩm OCOP ở Sơn La, Sơn Dung Trà (Thái Nguyên), Cam Xã Đoài - Cam Vinh (Nghệ An), nước mắm Phú Quốc (Kiên Giang)…

Ngoài ra, các báo cáo viên còn thông tin về Cổng Thông tin Truy xuất nguồn gốc quốc gia, hiện đang đưa vào thử nghiệm, dự kiến vận hành chính thức vào cuối năm. Việc vận hành Cổng Thông tin Truy xuất nguồn gốc quốc gia cũng sẽ góp phần hỗ trợ cho doanh nghiệp có định hướng trong việc thực hiện truy xuất nguồn gốc, triển khai cách thức thực hiện. Cổng Thông tin Truy xuất nguồn gốc quốc gia còn là nơi hỗ trợ cho doanh nghiệp có thể xuất khẩu sản phẩm - hàng hóa ra thị trường quốc tế.

Nhật Linh (CESTI

Khóa tập huấn được thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ "Nghiên cứu xây dựng mô hình điểm về đảm bảo đo lường nhằm tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương".

Trong hai ngày 26&27/9/2023, Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) phối hợp với Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng TP.HCM (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức khóa tập huấn "Xây dựng và triển khai chương trình đảm bảo đo lường tại doanh nghiệp".

Theo bà Võ Đình Liên Ngọc (Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo Lường Chất lượng TP.HCM), nhiệm vụ "Nghiên cứu xây dựng mô hình điểm về đảm bảo đo lường nhằm tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương" được triển khai thực hiện theo đề án 996 của Chính phủ. Trong nhiệm vụ này, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã chọn 5 địa phương (Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thừa Thiên Huế, Hà Nội, TP.HCM) tham gia chương trình thí điểm. Mỗi địa phương sẽ chọn 3 doanh nghiệp tham gia thí điểm chương trình để từ đó nhân rộng mô hình.

02HDKHLVtaphuandambaodoluongh1.jpg

Bà Võ Đình Liên Ngọc (Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo Lường Chất lượng TP.HCM) phát biểu khai mạc khóa tập huấn

Theo đó, TP.HCM đã và đang tiến hành các hoạt động khảo sát tìm kiếm doanh nghiệp phù hợp tham gia thí điểm chương trình để được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng hỗ trợ. Khóa tập huấn này nhằm giúp các đơn vị, doanh nghiệp tại TP.HCM nắm được các chương hỗ trợ xây dựng và triển khai đảm bảo đo lường (ĐBĐL) tại doanh nghiệp (theo Quyết định số 996/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); hướng dẫn cách thức, phương pháp đánh giá thực trạng ĐBĐL, từ đó biết cách xây dựng mục tiêu và thực hiện chương trình ĐBĐL tại doanh nghiệp.

Tại lớp tập huấn, ông Phan Minh Hải (nguyên Giám đốc Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) đã trình bày, giới thiệu các nội dung chính về vai trò của hoạt động đo lường và hiện trạng hoạt động đo lường tại các doanh nghiệp; yêu cầu đổi mới hoạt động đo lường để nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế; đề án 996 về tăng cường đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế giai đoạn đến 2025, định hướng đến năm 2030; hướng dẫn các bước chuẩn bị, phân tích và đánh giá thực trạng ĐBĐL, phương pháp xây dựng các mục tiêu của chương trình ĐBĐL, dự kiến hiệu quả xây dựng và áp dụng chương trình ĐBĐL; phương thức đăng ký tham gia thí điểm xây dựng và triển khai chương trình ĐBĐL cho từng địa phương.

Theo đó, đo lường trong doanh nghiệp gồm đo lường trong sản xuất và đo lường trong kinh doanh, với các hoạt động đo, thử nghiệm và kiểm tra. Đối với sản xuất, có 3 giai đoạn gồm chuẩn bị sản xuất, giai đoạn sản xuất, giai đoạn nghiệm thu và phân phối sản phẩm. Đối với kinh doanh gồm các giai đoạn nhập hàng hóa đầu vào, giai đoạn tồn trữ, vận chuyển, giai đoạn giao hàng, xuất bản. Ở giai đoạn chuẩn bị sản xuất, phép đo nhằm xác định khối lượng, thể tích nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, số lượng, bộ phận chi tiết… để phục vụ cho giai đoạn sản xuất. Phép thử nghiệm nhằm xác định thành phần, đặc tính nguyên vật liệu, chất liệu, bộ phận chi tiết, bán thành phẩm… để xác định sự phù hợp về chất lượng theo yêu cầu sản xuất. Hoạt động kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp của quy cách, kích thước các chi tiết, bộ phận lắp ráp, bán thành phẩm,…

 Liên quan đến đo lường trong sản xuất, hiện nay, doanh nghiệp cần quan tâm lưu ý xác định rõ cần đo ở đâu, đo cái gì (vị trí đo, đại lượng đo); độ chính xác và định mức kinh tế - kỹ thuật (phương tiện đo, điều kiện đo, thủ tục đo); duy trì độ chính xác và tin cậy của kết quả.  

02HDKHLVtaphuandambaodoluongh3.jpg

 Ông Phan Minh Hải (nguyên Giám đốc Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) trình bày các nội dung của khóa tập huấn

Về đề án 996, theo ông Hải, phần lớn doanh nghiệp chưa nhận thức đúng và đầy đủ vai trò của đo lường, nên hoạt động đo lường chỉ đáp ứng yêu cầu bắt buộc của quản lý Nhà nước, không được đầu tư tăng cường để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa và hiệu quả sản xuất kinh doanh,... Vì vậy, mục tiêu chung của đề án 996 là phát triển hạ tầng đo lường quốc gia theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng hội nhập quốc tế, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam; tập trung hỗ trợ doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên, xây dựng và triển khai hiệu quả chương trình ĐBĐL tại doanh nghiệp; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội để đóng góp phát triển hoạt động đo lường. Để thực hiện, đề án đưa ra 6 nhóm nhiệm vụ - giải pháp gồm đổi mới, sửa đổi chính sách; phát triển hạ tầng đo lường quốc gia; nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đo lường; hỗ trợ doanh nghiệp đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa; tăng cường hợp tác quốc tế; đẩy mạnh truyền thông về hoạt động đo lường. Trong đó, xuất phát từ nhu cầu thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, chương trình hỗ trợ xây dựng và triển khai ĐBĐL tại doanh nghiệp được thực hiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa thông qua việc tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường tại doanh nghiệp.

Đảm bảo đo lường là việc tập hợp các nhiệm vụ, giải pháp và nguồn lực thực hiện; tăng cường, đổi mới kiểm soát về đo lường đối với phương tiện đo, chuẩn đo lường, thiết bị thử nghiệm, kiểm tra, phương pháp đo, thử nghiệm, kiểm tra lượng của hàng đóng gói sẵn, nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp. Việc xây dựng và triển khai chương trình ĐBĐL tại doanh nghiệp gồm các bước phân tích thực trạng; xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp; tổ chức triển khai thực hiện; đánh giá hiệu quả.

Trong đó, phân tích thực trạng nhằm mục đích đánh giá khách quan về trình độ ĐBĐL tại doanh nghiệp, xác định những sự không phù hợp hoặc nhu cầu đổi mới; xác định khả năng và phương án đổi mới tình trạng ĐBĐL để giải quyết các vấn đề quản lý tại doanh nghiệp; đánh giá sự cần thiết và chuẩn bị đề xuất các biện pháp khắc phục, phòng ngừa, cải tiến và đổi mới để ĐBĐL tại doanh nghiệp đạt được tình trạng tối ưu. Từ kết quả phân tích thực trạng hoạt động đo lường sẽ dẫn đến các nội dung thuyết minh chương trình như đề xuất các biện pháp ĐBĐL (những vấn đề/công việc cần được tăng cường, đổi mới) và dự kiến hiệu quả của các biện pháp ĐBĐL (giảm tổn thất kinh tế, giảm chi phí nghiên cứu vận hành nhờ đổi mới, áp dụng phương pháp đo mới,…).

Dự thảo chương trình ĐBĐL tại doanh nghiệp gồm các nội dung về mục tiêu chung; mục tiêu cụ thể; nhiệm vụ 1 (rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản triển khai thực hiện ĐBĐL đang áp dụng); nhiệm vụ 2 (rà soát, tăng cường thực hiện ĐBĐL); nhiệm vụ 3 (ứng dụng công nghệ đo lường tiên tiến, đổi mới tăng cường ĐBĐL theo định hướng phát triển của sản xuất, kinh doanh; nhiệm vụ 4 (đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật và quản lý về đo lường); nhiệm vụ 5 (xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng của các đơn vị, bộ phận sản xuất, chế tạo, thử nghiệm, kiểm định,…).

02HDKHLVtaphuandambaodoluongh4.jpg

Các học viên tại lớp tập huấn 

Tại lớp tập huấn, ông Hải cũng thông tin thêm về một số nhiệm vụ khác đã và đang được thực hiện nhằm hỗ trợ xây dựng và triển khai ĐBĐL tại doanh nghiệp như: Xây dựng chương trình, tài liệu, đào tạo, khảo sát và triển khai thí điểm chương trình ĐBĐL; Xây dựng các bộ tài liệu về kỹ thuật đo cho các lĩnh vực đo lường giai đoạn 2021 – 2023; Xây dựng mô hình điểm về ĐBĐL nhằm tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thừa Thiên Huế và các Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh 2023 – 2024;…

Bà Võ Đình Liên Ngọc cho biết thêm, bên cạnh các chương trình hỗ trợ của Trung ương, Bộ KH&CN, tại TP.HCM cũng đang có kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp về ĐBĐL, đảm bảo chất lượng hàng hóa, công bố đấu định lượng, kiểm định hiệu chuẩn phương tiện đo,… Khi tham gia các chương trình hỗ trợ này, doanh nghiệp có thể nhận biết, nắm rõ hơn về hiệu chuẩn phương tiện đo, kiểm định, kiểm soát đo lường, phương tiện đo phù hợp giúp tránh được thất thoát lãng phí, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tăng uy tín nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có nhu cầu được hỗ trợ, tư vấn hoặc tham gia chương trình ĐBĐL có thể liên hệ với Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng TP.HCM để được hướng dẫn.

Lam Vân (CESTI)

Chiều ngày 27/9/2023 tại Saigon Innovation Hub (Sihub) đã diễn ra sự kiện kết nối sáng tạo tháng 9 với chủ đề “Các giải pháp ứng dụng GIS trong quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng” thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công (Inno-Coffee) nhằm kết nối chia sẻ khó khăn trong khu vực công và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, startup đưa ra những sáng kiến giải quyết vấn đề đóng góp cho sự phát triển của Thành phố.

2892023HT1.jpg

Sự kiện đã thu hút được hơn 50 đại biểu là đại diện các Trường, tổ chức Khoa học và Công nghệ, các nhà khoa học, Lãnh đạo các phòng chức năng, đơn vị của Sở cùng đại diện các doanh nghiệp, Startup... tham dự

Theo bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, TP.HCM là đô thị lớn của cả nước, có diện tích tự nhiên là 2.095 km2, dân số khoảng 10 triệu người, được chia thành 22 quận huyện và TP Thủ Đức. Với vai trò đầu tàu trong đa giác chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và là Thành phố đông dân nhất cả nước (chiếm tỷ lệ 9,35%), Thành phố có tốc độ đô thị hoá nhanh, đang phải đối mặt với nhiều thách thức, bấp cập trong quản lý cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng.

"Do đó, hệ thống thông tin địa lý (GIS), viễn thám ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạch định các chính sách, chiến lược của một vùng lãnh thổ, hỗ trợ quản lý nhà nước trong rất nhiều lĩnh vực. Có thể nói đó là những công cụ không thể thiếu đối với một đô thị thông minh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát sự phát triển đô thị, kinh tế, xã hội", bà Nguyễn Thị Thu Sương nhận định.

Hiện nay, các đơn vị quản lý nhà nước trên địa bàn TP.HCM đã từng bước ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, cụ thể:

Sở Tài nguyên và Môi trường triển khai: “Chương trình xây dựng Hệ thống thông tin quản lý ngành tài nguyên và môi trường TP.HCM giai đoạn 2014-2020” theo quyết định số 1869/QĐ-UBND ngày 17/4/2014 của UBND Thành phố. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh. Đồng thời, xây dựng nền tảng dữ liệu đất đai trực tuyến gồm Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường TP.HCM https://geodata-stnmt.tphcm.gov.vn/và Hệ thống trục tích hợp các dịch vụ web ngành tài nguyên môi trường https://esb-stnmt.tphcm.gov.vn/, các nền tảng này hỗ trợ người dân, doanh nghiệp có thể xem dữ liệu phân khu, diện tích, quy hoạch, kế hoạch, mục đích sử dụng đất... toàn Thành phố trực tuyến.

Sở Xây dựng triển khai: “Chương trình xây dựng Hệ thống thông tin Quản lý xây dựng TP.HCM giai đoạn 2014-2020”  theo quyết định số 3845/QĐ-UBND ngày 08/8/2014 của UBND Thành phố. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh.

Sở Quy hoạch - Kiến trúc triển khai: Dự án “Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong công tác công bố, công khai thông tin quy hoạch” https://thongtinquyhoach.hochiminhcity.gov.vn/, nhằm hỗ trợ người dân, tổ chức tra cứu thông tin quy hoạch trực tuyến. Cũng như, triển khai các dự án thành phần chuyên ngành thuộc Đề án đô thị thông minh.

Uỷ ban nhân dân các quận huyện và TP Thủ Đức ứng dụng GIS trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường, xây dựng, cung cấp thông tin quy hoạch.

Các hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành tại Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây dựng đã mang lại hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước của các Sở ban ngành, quận huyện và TP Thủ Đức. Từ thực tiễn cho thấy 3 lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng có sự quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi sự kết nối và chia sẻ thông tin liên tục giữa Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây dựng và Ủy ban nhân dân 22 quận huyện và TP Thủ Đức.

2892023HT.jpg

Bà Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM trình bày bài toán “đặt hàng”

Tuy nhiên, cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Sương, hiện nay các cơ sở dữ liệu và hệ thống quản lý chuyên ngành về quản lý đất đai ở Sở Tài nguyên và Môi trường), quy hoạch ở Sở Quy hoạch - Kiến trúc và xây dựng ở Sở Xây dựng chưa có sự liên thông, chia sẻ thông tin, dữ liệu một cách đồng bộ, thống nhất; chưa có các công cụ trực quan hóa, thống kê số liệu, tạo các báo cao nhanh phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng. Việc này gây không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các Sở ban ngành, quận huyện.

Do đó, căn cứ Kế hoạch số 752/KH-SKHCN của Sở Khoa học và Công nghệ ngày 24/3/2022 về Công tác quản lý nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ năm 2022. Cũng như, căn cứ Quyết định số 3030/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/8/ 2020 về “Phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố”, nhằm: Liên thông, đồng bộ, thống nhất các dữ liệu, ứng dụng quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng, tạo thuận lợi cho công tác quản lý đô thị của các sở ngành, quận huyện; Cung cấp thông tin trực quan, kịp thời cho lãnh đạo Thành phố, các Sở ban ngành, quận huyện về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, điều hành, ra quyết định; Công khai thông tin về đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố cho người dân, doanh nghiệp theo quy định.

Xuất phát từ thực tế nói trên trong công tác quản lý đô thị của Thành phố, đặc biệt là các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng. Đồng thời, thực hiện mục tiêu xây dựng Thành phố thành đô thị thông minh, đổi mới sáng tạo, Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao cho Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Ủy ban nhân dân các quận huyện nghiên cứu “Xây dựng các công cụ trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng”.

Mục tiêu tổng quát là nghiên cứu, xây dựng nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn TP.HCM. Cũng như, cung cấp các công cụ phân tích, thống kê và tra cứu các số liệu báo cáo nhanh về các lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, hỗ trợ các cấp lãnh đạo đưa ra các hoạch định chính xác, hợp lý hỗ trợ tốt hơn cho công tác quản lý, quy hoạch, kịp thời phát hiện các sai phạm đối với các lĩnh vực đất đai, quy hoạch, xây dựng. Đồng thời, chia sẻ các thông tin về dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng cho người dân và các tổ chức cần tra cứu góp phần phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn Thành phố.

Mục tiêu cụ thể là nghiên cứu, xây dựng nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng nhằm hỗ trợ việc phân tích, thống kê, trình diễn dữ liệu (không gian và thuộc tính). Cũng như, chia sẻ thông tin phục vụ lãnh đạo Thành phố, các Sở ban ngành, quận huyện và người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triển khai vận hành thí điểm nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Nội dung chủ yếu là đề án Ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng trên địa bàn Thành phố gồm 06 nội dung như sau: (1) Xây dựng kiến trúc tổng thể, chi tiết hệ thống GIS, viễn thám về quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng; (2) Rà soát, bổ sung, cập nhật cơ sở dữ liệu, xây dựng ứng dụng quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng; (3) Tích hợp, liên thông cơ sở dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng; (4) Xây dựng các công cụ trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng; (5) Xây dựng quy chế vận hành, liên thông dữ liệu, cập nhật; (6) Khai thác dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Sản phẩm cần đạt là nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu. Cộng với đó là, kết quả vận hành thí điểm nền tảng trực quan hóa, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu cũng như liên thông, tích hợp dữ liệu từ nền tảng tích hợp dữ liệu trong lĩnh vực quản lý đất đai, quy hoạch và xây dựng.

Dự kiến kết quả đạt được, đối với lĩnh vực Khoa học và Công nghệ có liên quan là nền tảng trực quan hoá, phân tích, thống kê, công khai dữ liệu đất đai, quy hoạch và xây dựng, đóng góp vào sự phát triển của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đất đai, quy hoạch và xây dựng, phục vụ công tác hỗ trợ chuyển đổi số của Thành phố. Đối với kinh tế - xã hội và môi trường là hệ thống cũng cho phép chia sẻ dữ liệu, thông tin tới cộng đồng, người dân, tổ chức những thông tin về dữ liệu đất đai, quy hoạch, xây dựng trên địa bàn TP.HCM.

Được biết, sự kiện kết nối sáng tạo tháng 9 với chủ đề “Các giải pháp ứng dụng GIS trong quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng” là một sự kiện thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công (Inno-Coffee) nhằm kết nối chia sẻ khó khăn trong khu vực công và tạo điều kiện các doanh nghiệp, startup đưa ra những sáng kiến giải quyết vấn đề đóng góp cho sự phát triển của Thành phố, do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chủ trì tổ chức. 

Nhật Linh (CESTI)

Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM có chức năng hỗ trợ theo dõi tiến độ triển khai các nhóm nhiệm vụ và số lượng nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025.

Ngày 19/9/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, Trung tâm Dữ liệu ĐHQG TP.HCM tổ chức Hội nghị phổ biến, hướng dẫn sử dụng Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM.

Đại biểu tham dự Hội nghị là đại diện các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giữa UBND TP.HCM với ĐHQG TP.HCM giai đoạn 2022 – 2025, cùng thành viên Tổ công tác liên ngành triển khai thực hiện Chương trình hợp tác giữa UBND TP.HCM với ĐHQG TP.HCM giai đoạn 2022 – 2025.

Tại Hội nghị, ông Bùi Quốc Anh (Giám đốc Trung tâm Dữ liệu ĐHQG TP.HCM) đã giới thiệu về Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM cùng các bước thao tác, thực hiện trên Cổng.

congnhiemvu2.jpg

Theo đó, Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM có chức năng hỗ trợ theo dõi tiến độ triển khai các nhóm nhiệm vụ và số lượng nhiệm vụ thuộc Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025. Cổng có biểu đồ phân bố nhiệm vụ của đơn vị phía UBND TP.HCM và biểu đồ phân bố nhiệm vụ của đơn vị phía ĐHQG TP.HCM. Các nhiệm vụ được chia thành từng nhóm nhiệm vụ cụ thể, ví dụ như: Nhóm #1 – Tiếp tục triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm 2022; Nhóm #1 – Các nhiệm vụ trọng tâm năm 2023… Từng nhiệm vụ được cập nhật, bổ sung thông tin chi tiết như đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, thành viên, tiến độ, lộ trình…

Trong khuôn khổ Hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, trao đổi, đóng góp ý kiến để hoàn thiện Cổng quản lý nhiệm vụ hợp tác giữa TP.HCM và ĐHQG TP.HCM. Dự kiến Cổng sẽ chính thức ra mắt trong tháng 11/2023.

Trước đó, ngày 2/7/2023, UBND TP.HCM và ĐHQG TP.HCM đã ký kết Chương trình hợp tác giai đoạn 2022-2025. Nội dung ký kết hợp tác giữa hai đơn vị gồm 4 lĩnh vực chính: Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM; Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; và Phát triển hạ tầng Khu Đô thị ĐHQG TP.HCM. Chương trình hợp tác nhằm phục vụ mục tiêu phát triển và hội nhập kinh tế - xã hội của TPHCM, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong giai đoạn 2022-2025; thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ĐHQG TPHCM trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.

Hoàng Kim (CESTI)

Các nhà khoa học TP.HCM vừa hoàn thiện quy trình tổng hợp và chế tạo một loại vật liệu có khả năng hấp thụ đáng kể không khí chứa các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi và vi sinh, phù hợp để ứng dụng nhanh trong ngành y tế và một số lĩnh vực cần tức thời lọc không khí và kháng khuẩn trong môi trường.

Phòng khám nha khoa là những khu vực tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm cao do sự hiện diện của một lượng lớn các sol khí (aerosol) chứa các vi sinh vật sống (còn được gọi là sol khí sinh học  bioaerosol) được phát tán từ các khoang miệng của bệnh nhân đang được điều trị nha khoa.

Các báo cáo cho thấy mật độ của các hạt sol khí và giọt chất lỏng (giọt nước lỏng) bắn tung tóe là cao nhất trong một số công đoạn điều trị nha khoa như công đoạn cạo vôi răng hoặc công đoạn khoan trám răng. Những vi sinh vật sống được tìm thấy rất phổ biến trong phòng khám nha khoa là trực khuẩn mủ xanh, khuẩn tụ cầu vàng; và chúng là thủ phạm gây nhiễm khuẩn các cơ sở y tế và có khả năng gây tử vong cao.

Bên cạnh đó các vật tư tiêu hao, vật tư sát khuẩn nhanh thường phát thải một lượng các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) nhất định như ethanol, formaldehyde. Tuy nhiên, việc làm sạch không khí trong phòng khám và điều trị nha khoa ở TP.HCM chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các sol khí và VOCs phát tán ra môi trường ngoài phòng khám thông qua hệ thống thông gió. Việc xử lý tại chỗ các nguồn ô nhiễm này cần được quan tâm đúng mức khi mật đô dân cư thành phố cùng với vấn đề ô nhiễm không khí đang ở mức báo động.

Từ thực tế này, các nhà khoa học tại Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Chế tạo màng lọc đa chức năng ứng dụng làm sạch không khí chứa VOCs và vi sinh".

H-1-ghep.jpg

GS.TSKH. Lưu Cẩm Lộc - Chủ tịch Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ thị phạm sản phẩm của nghiên cứu

TS. Trần Thụy Tuyết Mai - chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết, nhóm đã thiết kết vật liệu co-doping Ag và Ni trên nền cryptomelane có khả năng oxy hóa hoàn toàn formaldehyde (~57% HCHO đã được xử lý) ở nhiệt độ phòng 30 độ C, độ ẩm 62 %. Hơn nữa vật liệu Ag/Ni-OMS-2 còn có khả năng kháng trực khuẩn mủ xanh và khuẩn tụ cầu vàng với đường kính vòng ức chế sự phát triển của vi khuẩn đạt 13 mm khi nồng độ Ag/Ni-OMS-2 phân tán 2g/L.

H-2.jpg

TS. Trần Thụy Tuyết Mai tại buổi báo cáo nghiệm thu nhiệm vụ

Những kết quả đạt được cho thấy Ag/Ni-OMS-2 là vật liệu tiềm năng cho màng lọc đa chức năng ứng dụng làm sạch không khí chứa VOCs và vi sinh. Trên cơ sở vật liệu Ag/Ni-OMS-2,  TS. Trần Thụy Tuyết Mai và cộng sự đã biến tính vật liệu cryptomelane với graphite bằng phương pháp đồng kết tủa. Kết quả vật liệu sau biến tính (Ng4) chứa 44,44% Mn; 1,62% K; 6,55% Ag; 0,05% Ni (% khối lượng, theo phân tích ICP-MS). Màng chế tạo từ vật liệu Ng4 có ứng suất Young 298 N/mm2.

Kết quả đánh giá hoạt tính xử lý hơi ethanol và hơi formaldehyde ở vùng nhiệt độ thấp (< 100 độ C) cho thấy ở nhiệt độ phản ứng 50 độ C, độ ẩm 65%, độ chuyển hóa tổng cộng formaldehyde tương ứng là 70 %. Ở nhiệt độ 50 độ C, màng chế tạo có khả năng xử lý ~25% ethanol trong suốt 56 giờ thử nghiệm. Màng Ng4 cũng có khả năng xử lý ~80% formaldehyde ở nhiệt độ phản ứng là 60 độ C.

Đáng chú ý, màng cryptomelane có khả năng kháng khuẩn tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh với đường kính vòng kháng khuẩn tương ứng là 11,2 ± 2,0 mm và 8,3 ± 0,2 mm. Ngoài ra màng chế tạo còn có khả năng kháng khuẩn Streptococci mutans với đường kính vòng kháng khuẩn là 8,1 ± 0,3 mm.

Kết quả thử nghiệm tại Viện vệ sinh y tế công cộng ghi nhận màng chế tạo có khả năng khuẩn  Shigella sonnei với độ rộng vùng ức chế là 2,2 mm và khả năng kháng Staphyl (tụ cầu vàng) với độ rộng vùng ức chế là 2,6 mm (theo phương pháp AATCC TM147-2011 (2016e)).

Kết quả đánh giá khả năng diệt khuẩn trên màng cryptomelane biến tính ghi nhận tỷ lệ suy giảm khuẩn sau 24 giờ là 100% (theo  phương pháp AATCC TM100-2019).

H-4.jpg

Sản phẩm màng/tấm lọc Mdoped cryptomelane kích thước 25x25 cm

Những kết quả bên trên cho thấy màng cryptomelane là màng đa chức năng có khả năng xử lý các hợp chất hữu cơ (ethanol và formaldehyde) ở nhiệt độ thấp (<100 độ C) và có khả năng kháng chủng loại vi sinh gram âm, gram dương điển hình như khuẩn tụ cầu vàng và trực khuẩn mủ xanh. Hơn nữa màng chế tạo còn có khả năng kháng khuẩn lỵ Shigella sonnei và khuẩn gây bệnh sâu răng Streptococci mutans. Có thể nói, màng cryptomelane chế tạo có nhiều tiềm năng ứng dụng trong xử lý không khí cơ sở y tế, đồng thời bột cryptomelane chế tạo có thể ứng dụng làm vật liệu sơn phủ chứa lớp kháng khuẩn và xử lý không khí ô nhiễm trong môi trường y tế.

Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được tổ chức, TS. Trần Thụy Tuyết Mai cho biết: các báo cáo liên quan cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện đang là một trong những vấn đề nghiệm trong khi tỷ lệ bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện và tử vong ngày càng tăng cao. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do các loại vi khuẩn, chẳng hạn như Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), Escherichia coli, Staphylococcus aureus (khuẩn tụ cầu vàng),

Trong môi trường bệnh viện, trực khuẩn mủ xanh thường tìm thấy ở đầu các ống thông, máy khí dung, máy hô hấp nhân tạo, máy hút ẩm, bình chứa nước, thậm chí ở trong cả một số dung dịch sát khuẩn dùng để rửa vết thương. Trong khi đó, tụ cầu vàng được tìm thấy nhiều nhất ở các cơ sở y tế, đặc biệt là các cơ sở nha khoa. Tụ cầu vàng tồn tại trong cơ thể người và có nhiều trong dịch nhầy. Tại các cơ sở nha khoa, một số quy trình như cạo vôi răng có sử dụng siêu âm hoặc khoan tốc độ cao tạo điều kiện cho vi khuẩn này phát tán vào không khí và môi trường. Từ đó, nguy cơ nhiễm khuẩn của nhân viên y tế và bệnh nhân là rất cao.

Hệ thống lọc không khí ứng dụng bộ lọc hiệu suất cao (High Efficiency Particulate Air filter – HEPA) được sử dụng nhiều trong các cơ sở nha khoa, y tế, phòng sạch. Các nghiên cứu trước đây trên thế giới đã chỉ ra rằng thiết bị lọc không khí IQAir Cleanroom H13 với trang bị HEPA có thể làm giảm từ 75-93% lượng S.aureus kháng methicillin (MRSA) có trong môi trường không khí đối với phòng dành cho bệnh nhân dương tính với MRSA. Các bộ lọc HEPA hoạt động dựa trên nguyên tắc rây, tức các sợi vật liệu của HEPA sẽ tạo thành rây có kích thước đủ nhỏ, phối hợp với sự lưu chuyển của dòng không khí để lưu giữ bụi mịn, vi sinh vật hay thậm chí VOCs trên màng lọc.

Tuy nhiên, HEPA chỉ thể hiện tác dụng “bắt giữ” các vi sinh vật nhưng chưa có tác dụng tiêu diệt hoàn toàn chúng. Cụ thể, chủng khuẩn cùng giống với tụ cầu vàng là tụ cầu da (Staphylococcus epidermidis) có thể tồn tại 5 ngày sau khi bị “bắt giữ” bằng màng lọc HEPA. Ngoài ra, khuẩn MS-2 coliphageAspergillus brasiliensis có thể sống đến ngày thứ sáu, thậm chí trường hợp của khuẩn Bacillus atrophaeus là hơn 210 ngày trên màng lọc HEPA.

"Vì vậy việc nghiên cứu ứng vật liệu có khả năng kháng S.aureus, kháng trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa nhằm áp dụng trong màng lọc làm sạch không khí hoặc làm phụ gia cho các vật liệu tiêu hao dùng trong các phòng khám y tế, nha khoa rất đáng được quan tâm", TS. Trần Thụy Tuyết Mai thông tin.

H-3.jpg

Các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ trao đổi với đại diện nhóm nghiên cứu về kết quả của sản phẩm

Là một phần của nhiệm vụ, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Bách Khoa (TP.HCM) cũng đã hoàn thiện Quy trình tổng hợp vật liệu đa chức năng với các minh chứng về định danh vật liệu và khả năng oxy hóa hoàn toàn VOCs ở nhiệt độ thấp, cũng như khả năng kháng khuẩn tốt; và Quy trình chế tạo màng lọc không khí đa chức năng Mdoped cryptomelane.

Thông tin liên hệ:
Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM)
Địa chỉ: 268 Lý Thường Kiệt, Phường 14, Quận 10, TP.HCM
Điện thoại: 028.38636856 -  0903156004

E-mail: tuyetmai@hcmut.edu.vn - khcn@hcmut.edu.vn

Website: www.hcmut.edu.vn

Kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ do nhóm chuyên gia, nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) thực hiện giúp các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị thuận tiện hơn trong việc chế bản sách giáo khoa dạng chữ nổi.

Thực tế cho thấy, từ đầu năm học 2020-2021, các cơ sở giáo dục, trung tâm và mái ấm nuôi dạy trẻ em khiếm thị tại TP.HCM đã và đang gặp phải nhiều khó khăn trong việc thực hiện các bộ sách giáo khoa hình và chữ nổi trên nền tảng các bộ sách biên soạn theo chương trình mới, đặc biệt đối với các môn học như Toán, Tự nhiên và Xã hội (TNXH), Khoa học và Tự nhiên (KHTN).

Các bộ sách giáo khoa mới được đầu tư biên soạn rất công phu, tích hợp đa dạng các nội dung với nhiều hình ảnh sinh động mô tả đặc điểm, tính chất và chuyển động của vật thể. Điều này hỗ trợ tốt cho việc dạy và học theo định hướng giáo dục mới đối với học sinh bình thường, nhưng dẫn đến yêu cầu cao về việc nghiên cứu, thay đổi hình ảnh cho phù hợp mà không làm ảnh hưởng đến nội dung các môn học cần chế bản để in sách cho học sinh khiếm thị. Đây là thử thách lớn cho đội ngũ chuyển đổi sách giáo khoa ở các trường chuyên biệt nói chung.

H-1A.jpg

Đại diện hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ trực tiếp xem một mẫu chế bản hoàn thiện

Trên tinh thần đó, nhằm kịp hỗ trợ cho giáo viên và học sinh khiếm thị có sách giáo khoa để dạy và học trong các năm học tiếp theo, trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM đã tiến hành làm sách giáo khoa lớp 1 theo bộ sách Chân trời sáng tạo. Tuy nhiên, vẫn như mọi lần, đội ngũ giáo viên của nhà trường lại gặp khó khăn trong việc thực hiện sách giáo khoa hình và chữ nổi cho các môn Toán, TNXH và KHTN. Dự đoán được những khó khăn này sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai, đại diện nhà trường đã đặt hàng các nhà khoa học trên địa bàn TP.HCM về việc xây dựng hệ thống chế bản hình và chữ nổi Braille để in sách giáo khoa Toán, TNXH và KHTN theo bộ sách Chân trời sáng tạo nhằm phục vụ việc giảng dạy cho học sinh khiếm thị.

Hiện tại, trường phổ thông đặc biệt chỉ có thể chọn một số hình ảnh đơn giản để làm bởi vì trường không có chuyên viên hỗ trợ thiết kế đồ họa, hạn chế về nguyên vật liệu, dụng cụ và trang thiết bị máy móc để chuyển hình. Mọi thao tác vẽ, cắt, tỉa, dán… đều được làm bằng tay. Vì thế, quá trình thực hiện chế bản của đơn vị này vẫn tập trung chủ yếu vào việc chuyển ngữ, dẫn đến việc tiếp nhận thông tin hình ảnh thông qua kênh xúc giác của học sinh khiếm thị còn nhiều hạn chế. Trong thời gian vừa qua, nhà trường đã tiến hành chuyển đổi sách Tiếng Việt lớp 1 và 2 bộ sách Chân trời sáng tạo sang chữ nổi Braille để phục vụ công tác dạy và học của học sinh khiếm thị tại trường, đồng thời hỗ trợ các đơn vị cần sách Tiếng Việt trên toàn quốc. Đội ngũ làm sách của trường Nguyễn Đình Chiểu với khoảng 20 giáo viên và nhân viên phải dành 30 ngày mỗi tháng, làm việc xuyên suốt từ tháng 3-5/2020 để thực hiện công tác chuyển đổi hai cuốn sách giáo khoa môn Tiếng Việt nói trên.

Bên cạnh đó, hiện có một số đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị có thói quen làm hình ảnh bằng máy in chấm nổi gây nhiều khó khăn cho học sinh trong lúc nhận diện hình (sờ các đường viền chấm nổi để hình dung những dáng người, hình dạng các loài động, thực vật, vi sinh vật, nhà cửa, trường học,…), thì đa số các đơn vị làm sách đều cắt hình và kết nối với chữ để tạo thành chế bản rồi dùng máy in chữ nổi kết hợp với máy in nhiệt để in sách. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực, trang thiết bị và năng lực thiết kế đồ họa hạn chế nên đội ngũ làm sách chủ yếu làm hình một cách thủ công (dùng dao và kéo để tạo hình). Điều này dẫn đến việc chỉ có một số hình đơn giản trong sách giáo khoa được chuyển đổi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận kiến thức cũng như phát triển năng lực tri giác xúc giác.

 

Từ "đặt hàng" này cùng sự hỗ trợ kinh phí từ Sở KHCN TP.HCM, nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Xây dựng quy trình thực hiện và hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị" đã được triển khai thực hiện.

Đơn vị chủ trì nhiệm vụ là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) và thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi là chủ nhiệm nhiệm vụ.

Nhu cầu cấp thiết

Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ, thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi cho biết, hai lý do chính dẫn đến tình trạng khan hiếm sách chữ nổi là do thiếu nguồn nhân lực có kỹ thuật tốt và chi phí nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc chuyên dụng quá cao (5.500-7.500 đồng/tờ giấy ép nhiệt và khoảng 700 triệu đồng cho máy ép nhiệt và máy in chữ Braille).

"Hiện tại cả nước chỉ có trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM, trường phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu TP.Hà Nội và và Mái ấm Nhật Hồng (TP.HCM) là có đủ máy móc, trang thiết bị để in sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị của đơn vị mình và hỗ trợ vài nơi trong khả năng có thể", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ phân tích, "Tuy nhiên, hệ thống sách giáo khoa được sản xuất vẫn tập trung chủ yếu vào sự mô tả bằng ngôn ngữ hơn là minh họa hình nổi. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tri thức của học sinh khiếm thị, đặc biệt là ở các môn Toán, TNXH, KHTN vốn dĩ luôn đòi hỏi phải có hình ảnh minh họa cho khái niệm, tính chất, nguyên lý và các bài tập ứng dụng".

H-2.jpg

Thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi trình bày kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ

Cũng theo lời thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi, nhiệm vụ bắt đầu được triển khai bằng việc tổng quan tài liệu để xác định các phần mềm và trang thiết bị máy móc cần thiết hỗ trợ in sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị. Cơ sở lý thuyết về quy trình thực hiện chế bản ở một số quốc gia trên thế giới, quy trình làm sách hình và chữ nổi chung ở Việt Nam sẽ được nghiên cứu nhằm đánh giá tình hình và các quy trình làm sách hiện có, làm cơ sở để xây dựng quy trình thực hiện hệ thống chế bản cho đề tài.

Việc khảo sát đánh giá nhu cầu, trang thiết bị hiện có của các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị cũng được triển khai. Song song đó là quá trình học hỏi, đúc kết kinh nghiệm từ các đơn vị đã thực hiện chuyển đổi sách giáo khoa cho học sinh khiếm thị ở Việt Nam. Từ đây, một quy trình chuẩn phù hợp với điều kiện của Việt Nam sẽ được xây dựng, làm cơ sở để thiết kế, xây dựng, thử nghiệm, và hiệu chỉnh hệ thống chế bản theo đúng quy trình chuẩn đã đề xuất. Cuối cùng, nguyên lý gia nhiệt điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sẽ được nghiên cứu để in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị.

Sau thời gian nghiêm túc nghiên cứu và triển khai, nhiệm vụ đã hoàn thành các nội dung chính yếu, đó là:

1) Điều tra, khảo sát và đánh giá thực trạng cũng như nhu cầu sử dụng sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille tại các trường, trung tâm, mái ấm… đang nuôi dạy học sinh khiến thị;

2) Thiết kế hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6 theo bộ sách giáo khoa Chân trời Sáng tạo;

3) Xây dựng hệ thống chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6 theo quy trình và thiết kế;

4) Thực hiện in sách giáo khoa theo nguyên lý gia nhiệt điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa hình và chữ nổ Braille Toán 1, TNXH 1; Toán 2, TNXH 2; Toán 6, KHTN 6;

5) Biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên về quy trình, cách làm hệ thống chế bản và điều khiển hệ thống ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa.

Là một phần của nhiệm vụ, nhóm triển khai cũng đã thực hiện video hướng dẫn quy trình, cách làm hệ thống chế bản và điều khiển ép nhiệt tờ rời sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille. Video được đăng tải công khai cho mọi người có thể thuận tiện tham khảo tại địa chỉ www.youtube.com/watch?v=7QmXizTxHkQ.

H-3-Quy trinh.jpgQuy trình đề xuất

Công phu

Theo quy trình được đề xuất, hoạt động nghiên cứu sách giáo khoa và sách giáo viên sẽ giúp đội ngũ chuyển đổi sách hiểu rõ nội dung, tư duy của các tác giả cũng như việc định hướng giảng dạy cho giáo viên theo sách giáo khoa đã được biên soạn. Bên cạnh đó, việc xác định tư duy, trải nghiệm xúc giác của học sinh khiếm thị nói chung và đặc biệt là năng lực tri giác xúc giác đối với sách giáo khoa ở cấp lớp mà các em chuẩn bị được tiếp cận là rất quan trọng. Từ đây, những người tham gia công tác chuyển đổi sẽ phải xác định những nội dung chữ và hình ảnh nào cần được thực hiện. Việc xác định nguồn lực rất quan trọng trong hoạt động cần sự đầu tư rất lớn về cả nhân lực, vật lực và thời gian. Vì vậy, đội ngũ làm sách cần xác định số lượng và phân chia nhân sự phù hợp với kinh nghiệm và năng lực vốn có (chuyển ngữ, thiết kế, kỹ thuật, công nghệ…), trang thiết bị và máy móc bổ trợ cho quá trình làm sách, các nguồn nguyên vật liệu dễ tìm, giá thành thấp nhưng vẫn đảm bảo chất  lượng sản phẩm đầu ra…

Trước khi bắt tay vào thực hiện chế bản, đội ngũ làm sách sẽ lựa chọn một số hình ảnh từ đơn giản đến phức tạp trong sách giáo khoa để thiết kế và xây dựng mẫu thử. Nếu thực hiện theo quy trình chuyển đổi sách của Mái ấm Nhật Hồng, ở bước này chỉ cần chọn hình, scan hình và dùng phần mềm PictureBraille để chuyển đổi hình ảnh thành những chấm nổi hỗ trợ nhận diện hình và dùng máy in chữ nổi để đồng thời tập tin chữ và hình ảnh. Theo cách thông thường của trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM, trường phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu TP.Hà Nội và nhiều đơn vị làm sách trên thế giới, đội ngũ chuyển đổi sẽ chọn hình và thiết kế thử nghiệm bằng phần mềm CorelDRAW 12 (hoặc một số phần mềm chuyên dụng có cùng chức năng), sau đó cài đặt phần mềm CorelLASER 2013.02 kết nối với máy CNC để cắt và tạo hình trên các nguyên vật liệu khác nhau theo những mẫu thiết kế. Dán các hình vừa được cắt lên những tờ giấy in liên tục (giấy dùng để dập chữ Braille) tạo thành các tờ chế bản mẫu và sử dụng máy Thermoform cùng giấy in nhiệt Braillon để in thành các bảng mẫu.

H-3B.jpg

Chế bản được hoàn thiện

Tất cả hình ảnh cùng tập tin dàn trang hoàn thiện sẽ được cắt và in bằng máy cắt CNC và máy in chuyên dụng. Các hình ảnh sẽ được dán lên tập tin dàn trang (ở chỗ những khung hình đang để trống) để tạo thành chế bản mẫu. Sau đó, in và thử nghiệm bản mẫu tại cộng đồng và hiệu chỉnh theo yêu cầu.

Cuối cùng, theo thiết kế đã được thống nhất từ đơn vị đặt hàng, đội ngũ thực hiện đề tài dưới sự hỗ trợ của phần mềm CorelLASER 2013.02 sẽ dùng máy CNC để cắt và sau đó dán hình vào từng trang chữ Braille đã được in ra và duyệt trước đó để tạo thành chế bản. Hệ thống chế bản được xây dựng gồm 42 quyển (Toán 1: 6 quyển, TNXH 1: 6 quyển, Toán 2: 8 quyển, TNXH 2: 6 quyển, Toán 6: 9 quyển, KHTN 6: 7 quyển).

Toàn bộ chế bản đã được quay video giới thiệu và nộp đính kèm cho Sở KHCN TP.HCM tại hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ.

H-4A.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK Toán 1 – hình 2 lớp mật độ vừa

H-4B.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK TNXH 1 – hình 4 lớp mật độ nhiều

H-4C.jpg

Chế bản và bản ép nhiệt tờ rời SGK KHTN 6 – hình 2 lớp mật độ nhiều

Thiết thực

Từ những kết quả đạt được, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ khẳng định, việc ứng dụng mô hình dạy học tích hợp STEM thông qua dự án làm sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille vào môi trường đại học là cần thiết. Bởi lẽ, nếu như giáo viên tại các đơn vị nuôi dạy học sinh khiếm thị vừa dạy, vừa chuyển đổi sách giáo khoa sẽ tốn nhiều thời gian lẫn công sức, nhưng rốt cuộc chỉ có thể tập trung hỗ trợ cho học sinh tại đơn vị mình.

"Vì thế, khi các môi trường giáo dục khác nhau đều triển khai những dự án STEM phục vụ cộng đồng, như sản xuất sách chữ nổi, thì việc tạo ra một nguồn nhân lực khổng lồ với tri thức cao, có thể giúp giải quyết rất nhiều vấn đề cấp thiết trong cuộc sống, cho những cộng đồng cần đến", thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi chia sẻ thêm.

Nhận định về hiệu quả về khoa học - công nghệ của nhiệm vụ vừa được Sở KHCN TP.HCM nghiệm thu, thạc sỹ Phan Nguyễn Ái Nhi khẳng định giáo dục STEM đang phát triển khắp thế giới và được Bộ GDĐT định hướng triển khai tại các trường phổ thông trên toàn quốc. Bên cạnh đó, các hoạt động giáo dục gắn kết cộng đồng nhằm tạo điều kiện cho việc ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn cuộc sống, kích thích tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề và đặc biệt phát triển ý thức phục vụ cộng đồng của người học luôn được Việt Nam và thế giới quan tâm trong nhiều thập kỷ.

"Nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên là một trong những ứng dụng của quá trình nghiên cứu và thử nghiệm mô hình giáo dục STEM kết nối cộng đồng. Từ đây, định hướng sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh dấn thân vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giáo dục khuyết tật, làm sách giáo khoa và giáo cụ học tập cho học sinh khiếm thị, phương pháp học tập phục vụ cộng đồng…; thúc đẩy các kỹ sư, nhà giáo dục, nhà khoa học nghiên cứu và tạo ra những sản phẩm hỗ trợ cho quá trình sống và học tập của người khuyết tật nói chung và khiếm thị nói riêng. Đồng thời, giúp đội ngũ giáo viên cũng như các nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm hơn đến các định hướng giáo dục mới không tách rời khỏi nhu cầu cộng đồng và thực tế cuộc sống.

Nhận định về hiệu quả xã hội, theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, trong bối cảnh Bộ GDĐT thúc đẩy triển khai giáo dục hòa nhập, thì việc có sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille kịp thời sẽ giúp quá trình học tập của học sinh khiếm thị tham gia hòa nhập trở nên thuận lợi hơn. Từ đây, thúc đẩy các học sinh khuyết tật nói chung và học sinh khiếm thị nói riêng tiếp tục vươn lên ở những bậc học cao hơn, tích cực khám phá năng lực của bản thân trong trong học tập, công việc và cuộc sống ổn định sau này. Điều này góp phần xóa bỏ áp lực xã hội đối với nhóm đối tượng chuyên biệt đôi khi vẫn bị xem là “gánh nặng”, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong giáo dục đến với mọi đối tượng học sinh tại Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. 

Về cơ bản, có thể hiểu chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille cho học sinh khiếm thị là hệ thống các phôi, khuôn hay mẫu in gồm nhiều hình ảnh và chữ nổi được chuyển đổi trực tiếp từ sách giáo khoa, làm cơ sở tạo thành những cuốn sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille hỗ trợ việc học cho học sinh khiếm thị qua các quá trình đúc, thổi, in, ép… bằng nhiều kỹ thuật khác nhau.
Trong khuôn khổ của nội dung nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được nghiệm thu, những cuốn sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille này sẽ được tạo thành theo công năng của máy ép nhiệt Thermoform (loại máy đặc thù được dùng để sản xuất sách cho học sinh khiếm thị với loại giấy Brailon chuyên dụng) bằng kỹ thuật tạo hình chân không. Do đó, các nguyên vật liệu được dùng để làm chế bản chủ yếu là giấy carton, bìa cứng và một số loại nguyên vật liệu không nóng chảy khác để đảm bảo độ bền và độ phân lớp rõ nét của hình ảnh trên chế bản.

 

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM)

Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, Phường 4, Quận 5, TP.HCM

Điện thoại: (028) 38350098

Email: pnainhi@hcmus.edu.vn

Website: www.hcmus.edu.vn

Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp đáp ứng tốt các yêu cầu chuyên môn của dịch tễ học, dự báo tình hình dịch bệnh, đồng thời đáp ứng yêu cầu theo dõi tiến độ của việc xử lý dịch, có thể áp dụng ngay vào công tác phòng chống dịch tay chân miệng trên địa bàn TP.HCM.

Là vùng trọng điểm kinh tế thu hút đông đảo nguồn nhân lực từ nhiều tỉnh thành trên cả nước, cũng như có sự giao thương quốc tế mạnh mẽ, TP.HCM rất dễ bùng phát các bệnh lây truyền trực tiếp (như cúm, sởi, tay chân miệng,…).
Mỗi năm, TP.HCM ghi nhận hàng chục ngàn trường hợp bệnh tay chân miệng, và cao điểm của bệnh thường xuất hiện vào tháng 9 với nhiều ổ dịch trong các trường học, từ đó tiếp tục lây lan sang các cụm dân cư khác. Trong khi đó, bệnh sởi dù đã có vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng, nhưng vẫn xảy ra dịch với tuần suất sau mỗi 3-4 năm.
"Hằng năm, các bệnh lây truyền trực tiếp khác như thủy đậu, quai bị, rubella,… vẫn gây ra những ổ dịch, từ đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân. Những bài học lịch sử và thực tiễn đòi hỏi ngành y tế TP.HCM phải chủ động xây dựng một hệ thống kiểm soát bệnh truyền nhiễm hiện đại, được vận hành và quản lý chặt chẽ thông tin để kịp thời đáp ứng với từng dịch bệnh", đại diện và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) cho biết.
Trong kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp, nguyên tắc chung là phát hiện ca bệnh sớm, áp dụng kỹ thuật điều tra “theo vết” (tracking) để tìm kiếm và theo dõi các ca tiếp xúc, qua đó xác định được chuỗi ca bệnh lây truyền nhau để có biện pháp xử lý đúng, hiệu quả, ngăn chặn được sự lây truyền của bệnh. Do đó, từ tháng 4/2017, TP.HCM đã triển khai hoạt động giám sát bệnh truyền nhiễm theo Thông tư số 54/2015/TT-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 28/12/2015 về hướng dẫn chế độ thông tin, báo cáo và khai báo bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm đến tất cả các trạm y tế phường xã, Trung tâm Y tế quận/huyện và 68 bệnh viện công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thành phố. Theo đó, cơ sở y tế phải thực hiện báo cáo thông tin từng ca bệnh của 35 bệnh truyền nhiễm vào phần mềm trực tuyến được gọi là Hệ thống quản lý, giám sát bệnh truyền nhiễm (HTQLGSBTN). Nhờ vậy mà trong nhiều năm qua, hoạt động kiểm soát bệnh truyền nhiễm trên địa bàn TP.HCM đã đạt được những thành quả nhất định.
Tuy nhiên, các quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vẫn còn được vận hành theo cách thủ công. Hoạt động điều tra, xử lý ca bệnh, giám sát người tiếp xúc, xử lý ổ dịch được theo dõi, lưu vết qua hồ sơ giấy; việc thu thập, chuyển gửi, trao đổi thông tin giữa các tuyến chủ yếu qua email có thể dẫn đến thất lạc hồ sơ lưu, chia sẻ thông tin chậm trễ ảnh hưởng lớn đến việc kiểm soát dịch, không đánh giá được diễn tiến thực của dịch.
Thực tế cho thấy, một ca bệnh được báo cáo lên HTQLGSBTN được xem là "ca chỉ điểm" để khởi động các hoạt động điều tra nguồn lây, lập danh sách người tiếp xúc với bệnh nhân trong thời gian lây nhiễm, từ đó theo dõi và tổ chức các biện pháp phòng chống dịch. Trong đó, việc điều tra, lập danh sách nguồn lây, lập danh sách người tiếp xúc và và theo dõi họ chủ yếu được trạm y tế nơi có ca bệnh chỉ điểm thực hiện. Phiếu điều tra và các danh sách được lập trên giấy và chuyển bản scan về Trung tâm Y tế quận/huyện và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) bằng email, chủ yếu để báo cáo.
Việc theo dõi người tiếp xúc và điều tra nguồn lây hầu như chỉ được thực hiện khi những đối tượng này ở cùng phường xã với ca chỉ điểm (nếu ca bệnh bị lây nhiễm ở phường xã hoặc quận huyện khác thì việc theo dõi xác định chuỗi lây truyền thường rất trễ, hết thời gian can thiệp tốt nhất). Vì thế mà các tính năng của HTQLGSBTN chỉ đáp ứng được việc thông tin ca bệnh một chiều từ bệnh viện đến Trung tâm Y tế quận/huyện, không đáp ứng được việc trao đổi thông tin trong quá trình điều tra, xử lý và đánh giá tình hình dịch bệnh trên địa bàn theo không gian, thời gian.
Do đó, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) đã triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao năng lực và hiệu quả Hệ thống kiểm soát các bệnh lây truyền trực tiếp tại Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả của HTQLGSBTN. Mục tiêu của nhiệm vụ là xây dựng bộ quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp có ứng dụng công nghệ thông tin, kịp thời phân tích và đánh giá tình hình dịch bệnh, theo dõi được diễn tiến thực của dịch. Qua đó, ngành y tế TP.HCM có thể dễ dàng theo dõi sự hình thành và phát triển của chuỗi lây truyền ca bệnh từ một ca chỉ điểm, theo dõi sự hình thành và phát triển của chuỗi lây truyền ca bệnh từ một ca chỉ điểm, triển khai nhanh các hoạt động kiểm soát dịch bệnh.

NV-33-H1.jpg

BSCKII. Nguyễn Trí Dũng trình diễn thao tác vận hành trên HTTT KSBLTTT

BSCKII. Nguyễn Trí Dũng (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, nhóm thực hiện đã đánh giá toàn bộ HTQLGSBTN hiện hành, từ đó triển khai thiết kế, xây dựng quy trình tổ chức vận hành hoạt động của Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp (HTTT KSBLTTT) trên cơ sở kết hợp giữa cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý GIS và công nghệ Blockchain để đánh giá diễn biến dịch theo không gian, thời gian và ứng dụng Blockchain để đảm bảo tính bảo mật, an toàn của cả hệ thống. Cụ thể, HTTT KSBLTTT có phần nền tảng quản lý và kiểm soát dịch bệnh được phát triển theo kiến trúc Microservices để phù hợp và hữu ích cho hoạt động kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp - vốn có rất nhiều chức năng riêng biệt, nhiều đối tượng người dùng và nhiều loại dịch bệnh khác nhau.
Quy trình HTTT KSBLTTT được xây dựng trên nền tảng BPM (Business Process Management) nhằm cho phép tùy chỉnh, tự động hóa và tối ưu hóa các quy trình, linh hoạt nhập liệu bằng biểu mẫu (không cần sử dụng biểu mẫu giấy), xâu chuỗi đối tượng, trích xuất dữ liệu phục vụ thống kê - báo cáo, phù hợp với hệ thống kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vốn có rất nhiều quy trình được thiết lập và những quy trình này cũng thay đổi liên tục để phù hợp với tình hình ứng phó dịch bệnh.

NV-33-H2.jpg
Kiến trúc tổng quan hệ thống

Điểm quan trọng ở HTTT KSBLTTT là nhóm thực hiện đã triển khai ứng dụng hệ thống thông tin địa lý GIS tích hợp với phần mềm quản lý và kiểm soát bệnh để nhận thông tin, dữ liệu đầu vào. Sau đó, thể hiện dữ liệu không gian địa lý trên các lớp và mô hình thực tế để giúp người dùng nhìn rõ số liệu về dịch bệnh trên bản đồ số, tạo nhiều thuận lợi trong công tác điều tra, truy vết, hình thành góc nhìn toàn cảnh về diễn biến dịch bệnh. Bên cạnh chức năng thể hiện bản đồ chuyên đề ca bệnh, ứng dụng GIS còn đóng vai trò làm công cụ thực hiện cập nhật không gian về tiêm chủng tại mỗi hộ dân, công cụ thực hiện cập nhật không gian về ổ dịch, tìm kiếm và mô tả ca bệnh theo các tiêu chí không gian, thống kê và phân tích số liệu về ổ dịch theo vùng không gian được chọn. Cùng với đó, nhóm thực hiện cũng ứng dụng công nghệ Blockchain để quản lý các vùng dữ liệu được tạo dựng, đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu, đảm bảo hệ thống hoạt động liên tục (24/7), lưu vết tác vụ của người dùng, đảm bảo tính trách nhiệm và pháp lý. Thông tin (ca bệnh, địa điểm, mốc dịch tễ, ca tiếp xúc, ổ dịch…) còn được xâu chuỗi thành những mối liên kết, mối quan hệ giữa các đối tượng.
Nhờ đó, vai trò quan trọng của nguồn dữ liệu, thông tin được thể hiện rõ nét trong suốt quá trình phát hiện, thông báo, điều tra truy vết, can thiệp, xử lý ca bệnh, ca tiếp xúc, ổ dịch của toàn mạng lưới y tế cơ sở, đồng thời hỗ trợ tính thời sự của việc giám sát dịch bệnh trong thời gian thực. Phương thức quản lý các bệnh lây truyền trực tiếp chuyển từ cách quản lý dựa vào số ca bệnh trong từng phạm vi hành chính sang quản lý theo chuỗi lây nhiễm, nên phù hợp hơn với phương thức lây truyền bệnh và đặc trưng giao lưu, di chuyển mạnh của người dân đô thị. Phương thức quản lý theo chuỗi lây nhiễm cũng hỗ trợ theo dõi ca bệnh chính xác hơn, đánh giá đúng diễn tiến của bệnh và từ đó có biện pháp can thiệp phù hợp.

NV-33-H3.jpg

Truy vấn, tìm kiếm ca bệnh trên bản đồ và dạng bảng

Cũng theo lời bác sỹ Nguyễn Trí Dũng, nhóm thực hiện đã xây dựng bộ quy trình kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp, dự kiến áp dụng cho 28 bệnh, có những hoạt động can thiệp khác nhau đối với ca bệnh, ổ dịch và người tiếp xúc ở từng loại bệnh. Bên cạnh đó, nhóm cũng thử nghiệm mô hình bảo đảm sự liên thông, kết nối, chia sẻ và tích hợp dữ liệu không gian bằng cách tiến hành điều tra và nhập liệu 61 trường hợp bệnh tay chân miệng (được chọn làm đại diện cho bệnh lây truyền trực tiếp ở TP.HCM) và 30 trường hợp ca tiếp xúc, qua đó mô tả tổng quan hệ thống giám sát; mô tả thực trạng nhân lực y tế tham gia vào hệ thống và đánh giá chất lượng dữ liệu, tính kịp thời của HTTT KSBLTTT. Cùng với đó, nhóm thực hiện còn triển khai tập huấn vận hành thực nghiệm HTTT KSBLTTT trong công tác phòng chống dịch tay chân miệng cho ba Trung tâm Y tế (cụ thể là Trung tâm Y tế quận 3, Trung tâm Y tế quận Tân Bình, Trung tâm Y tế quận Tân Phú), thực hiện điều tra và nhập dữ liệu 202 ca bệnh và 1.058 ca tiếp xúc, diễn tập 3 kịch bản thường xảy ra trong thực tiễn.

NV-33-H4.jpg

Theo dõi ổ dịch tay chân miệng, mô tả mối liên hệ theo không gian và thời gian giữa các ca bệnh

Kết quả cho thấy, nhờ sự trao đổi thông tin nhanh chóng và đến đúng nơi cần đến, HTTT KSBLTTT giúp giảm thiểu thời gian thao tác cho từng vị trí vì các thông tin về ca bệnh/ổ dịch cần theo dõi luôn được chia sẻ đến những cá nhân cần sử dụng và được phân quyền, có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ theo thời gian và không gian, thông tin điều tra – xử lý được lưu trữ đầy đủ và trình bày trực quan giúp việc ra quyết định được thuận lợi. Hệ thống đáp ứng tốt các yêu cầu chuyên môn của dịch tễ học như thể hiện trực quan sự hình thành chuỗi lây nhiễm, khả năng lây lan bệnh theo từng đặc điểm địa lý - kinh tế - xã hội, phân tích, dự báo tình hình dịch bệnh đồng thời đáp ứng được yêu cầu của cơ quan quản lý trong theo dõi tiến độ của việc xử lý dịch tại 1 địa điểm bất kỳ trên toàn Thành phố. Đồng thời, hệ thống cũng hỗ trợ đánh giá việc tuân thủ quy trình trong điều tra, xử lý ca bệnh/ổ dịch bệnh của tất cả thành viên, đảm bảo thông tin được chia sẻ ngay lập tức đến các bộ phận liên quan liên quan trong điều kiện đảm bảo tính bảo mật.
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức, nhóm thực hiện kiến nghị Sở KHCN cùng Sở Y tế TP.HCM tiếp tục hỗ trợ kết nối, đào tạo chuyển giao để sớm đưa Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp vào hoạt động, khẩn trương phục vụ công tác phòng chống dịch tay chân miệng trên địa bàn Thành phố. Việc sớm triển khai cũng sẽ góp phần thu thập thêm thông tin phản hồi, góp ý để hoàn thiện quy trình, nguồn nhân lực và trang thiết bị phòng chống các bệnh lây truyền trực tiếp khác, tham mưu Sở Y tế TP.HCM triển khai các kế hoạch nâng cao năng lực kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp ở các cơ sở y tế. Hơn thế, Hệ thống thông tin kiểm soát bệnh lây truyền trực tiếp cũng có thể được chia sẻ cho các tỉnh thành khác có nhu cầu nhằm phối hợp tăng cường chất lượng công tác phòng chống dịch bệnh.

Thông tin liên hệ:
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM
Địa chỉ: 366A Âu Dương Lân, Phường 3, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh,

Điện thoại: (028) 39234629

E-mail: ttksbttp.syt@tphcm.gov.vn

Website: https://hcdc.vn/


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353