Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố nguy cơ để chẩn đoán sớm 6 loại ung thư” do tác giả Hồ Phạm Thục Lan cùng cộng sự (Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) chủ trì thực hiện, nhằm phục vụ chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp ở Việt Nam.
Tại buổi nghiệm thu, ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, ung thư hiện là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Mỗi năm, hàng trăm nghìn người Việt Nam được chẩn đoán mắc ung thư, trong đó, ung thư di căn ở giai đoạn muộn là nguyên nhân của 90% các trường hợp tử vong. Tuy nhiên, các biện pháp chẩn đoán ung thư hiện nay chủ yếu dựa trên hình ảnh học, nội soi và sinh thiết mô thường gây đau đớn, tốn kém và khó thực hiện ở giai đoạn đầu, hoặc nhiều trường hợp khối u khó tiếp cận. Trong bối cảnh này, sinh thiết lỏng có đặc điểm gắn liền với sinh bệnh học của ung thư ngay từ cấp độ tế bào, đã nổi lên như một phương pháp chẩn đoán tiềm năng với nhiều ưu điểm vượt trội. Phương pháp này mang lại độ chính xác cao, mở ra cơ hội phát hiện sớm cũng như theo dõi hiệu quả 6 loại ung thư phổ biến tại Việt Nam là ung thư phổi, vú, đại trực tràng, buồng trứng, gan và dạ dày.
Quang cảnh buổi nghiệm thu.
“Thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi hướng đến mục tiêu ứng dụng sinh thiết lỏng và yếu tố dịch tễ lâm sàng cho chẩn đoán sớm 6 loại ung thư thường gặp, góp phần phát triển dấu ấn sinh học mới, tối ưu hóa các phương pháp để phân lập, phân tích những đặc điểm phân mảnh cfDNA giúp tăng hiệu suất chẩn đoán ung thư giai đoạn sớm”, bà Lan chia sẻ thêm.
Cũng theo bà Lan, khác với sinh thiết mô truyền thống, sinh thiết lỏng là phương pháp ít xâm lấn hơn, sử dụng mẫu máu để phát hiện các dấu ấn sinh học ung thư, bao gồm DNA tự do từ tế bào ung thư (cfDNA). Phương pháp này không chỉ giảm thiểu rủi ro và sự khó chịu cho bệnh nhân mà còn có khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm. Hơn nữa, sinh thiết lỏng cho phép theo dõi tiến triển bệnh và hiệu quả điều trị theo thời gian thực.
Với đề tài này, nhóm tác giả đã tiến hành 3 nội dung chính là thu thập đối tượng nghiên cứu (gồm ước tính cỡ mẫu, xây dựng quy trình chọn nhóm bệnh, xây dựng quy trình chọn nhóm chứng: bắt cặp theo tuổi và giới tính của nhóm bệnh); xây dựng dữ liệu cho mô hình chẩn đoán (gồm xác định yếu tố nguy cơ của 6 loại ung thư cho quần thể nghiên cứu và xây dựng profile dữ liệu đột biến gen cho 6 loại ung thư); xây dựng mô hình chẩn đoán sớm cho 6 loại ung thư dựa trên sinh thiết lỏng và yếu tố lâm sàng.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã thu thập 658 ca ung thư từ 4 Bệnh viện ở TP.HCM (Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện Đại học Y Dược, Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch) và 658 ca chứng từ nghiên cứu VOS (nghiên cứu về loãng xương ở Việt Nam), được bắt cặp theo nhóm tuổi và giới tính. Tuổi trung bình của các đối tượng là 56, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ, ngoại trừ trong trường hợp ung thư vú.
Các ca ung thư bao gồm 6 loại thường gặp: phổi, gan, vú, đại trực tràng, dạ dày, thận, tất cả đều ở giai đoạn sớm (I-III) và chưa di căn. Kết quả mô bệnh học tương đồng với các nghiên cứu trong nước, tuy nhiên, phần lớn các ca có độ biệt hoá trung bình hoặc kém, cho thấy bệnh vẫn được phát hiện muộn, đặc biệt đối với ung thư phổi và dạ dày. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn giữa phân loại giai đoạn cTNM (đánh giá phân độ TNM theo lâm sàng) và pTNM (đánh giá phân độ TNM theo giải phẫu bệnh) ở tất cả các loại ung thư.
Về các yếu tố nguy cơ, mỗi loại ung thư có những yếu tố riêng, tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận các yếu tố kinh điển trong y văn như thuốc lá, rượu bia, tiền sử gia đình, nhiễm khuẩn HBV, HCV và H. pylori. Ngoài ra, chế độ ăn uống nhiều rau củ quả là yếu tố bảo vệ, trong khi ăn nhiều thịt đỏ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Triệu chứng lâm sàng, bao gồm triệu chứng tại chỗ do khối u và các triệu chứng toàn thân, phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước, tuy nhiên, các triệu chứng thường không điển hình, đồng thời xuất hiện ở giai đoạn muộn.
Trong nghiên cứu, phân tích cfDNA được thực hiện trên toàn bộ hệ gen bằng Whole Genome Sequencing, trên tập huấn luyện gồm 100 ca ung thư giai đoạn III-IIIb và 250 ca chứng, sử dụng mô hình mạng nơ-ron. Mô hình tối ưu của nhóm nghiên cứu gồm hai yếu tố: Wise-1 về lệch bội và InsideMonomer của Motif cuối đoạn, với chỉ 2.900 biến, giúp tối giản quy trình xử lý và tối ưu hiệu quả kinh tế.
Khi sử dụng mô hình Wise-1 + InsideMonomer với ba chỉ số LRScore, SVMScore và RFScore trên bộ kiểm định đa ung thư và từng loại ung thư, kết quả ghi nhận độ phân định cao giữa ung thư và không ung thư, nhưng hiệu suất chẩn đoán thay đổi theo loại bệnh, với AUC từ 0,67 đến 0,96, độ nhạy dao động từ 20% đối với ung thư thận và 84% đối với ung thư gan, tại độ đặc hiệu 98%.
Kết hợp thêm các yếu tố nguy cơ lâm sàng của quần thể nghiên cứu vào mô hình di truyền (bao gồm ba chỉ số LRScore, SVMScore, và RFScore), phân tích bằng BMA và các phương pháp học máy, hiệu suất chẩn đoán của mô hình kết hợp không cải thiện nhiều, ngoại trừ ung thư vú, khi AUC tăng từ 0,67 lên 0,83. Tuy vậy, mô hình kết hợp vẫn có giá trị lâm sàng, giúp phân tầng nguy cơ tốt hơn, từ đó lựa chọn đối tượng có nguy cơ cao để thực hiện phân tích di truyền.
ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan (chủ nhiệm nhiệm vụ) báo cáo kết quả đề tài tại buổi nghiệm thu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các mô hình chẩn đoán sớm có thể ứng dụng hiệu quả vào thực tế lâm sàng qua hai bước:
- Bước 1: tại tuyến cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu, sử dụng các mô hình học máy hoặc nomogram dành riêng cho yếu tố nguy cơ để nhận diện các đối tượng có nguy cơ cao. Tiếp theo sẽ rà soát các triệu chứng lâm sàng có liên quan ung thư được ghi nhận từ nghiên cứu. Nếu có triệu chứng gợi ý sẽ chuyển qua bước 2.
- Bước 2: tại tuyến trên chuyên khoa, sẽ thực hiện xét nghiệm sinh thiết lỏng để chẩn đoán sớm ung thư và dùng mô hình chẩn đoán sớm (nomogram và học máy) để quyết định bệnh nhân cần thực hiện tiếp các xét nghiệm để chẩn đoán xác định.
Nhằm hỗ trợ tốt hơn cho việc ứng dụng mô hình vào thực tiễn lâm sàng, nhóm thực hiện đề tài cũng đề xuất một số nội dung như cần có những nghiên cứu đoàn hệ với quy mô lớn, thiết kế riêng cho từng loại ung thư để tìm đặc điểm phân mảnh cfDNA riêng biệt cho mỗi loại khối u, đặc biệt đối với những loại ung thư có tỷ lệ phát hiện thấp; cần tận dụng những tiến bộ trong lĩnh vực học máy, học sâu, mạng nơ-ron để tích hợp hợp lý các yếu tố lâm sàng, sinh thiết lỏng, chẩn đoán hình ảnh và các dữ liệu omics khác (proteomics, microbiomics, metabolomics), nhằm nâng cao độ nhạy, độ đặc hiệu của mô hình, đồng thời giảm thiểu tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả; đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước với các nhóm chuyên về sinh học phân tử, di truyền học, học máy...
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu, đại diện nhóm nghiên cứu nhận định, việc kết hợp xét nghiệm chẩn đoán sớm với phân tầng nguy cơ trên nhóm nguy cơ cao sẽ nâng cao hiệu quả chẩn đoán. Điều này không chỉ mở ra triển vọng cho việc kết hợp sinh thiết lỏng và các yếu tố dịch tễ lâm sàng để phát triển công cụ chẩn đoán sớm hiệu quả, mà còn góp phần giảm thiểu gánh nặng bệnh tật, cải thiện chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư.
Minh Nhã (CESTI)
Trong hai ngày 26-27/11, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố".
Đây là một trong 4 lớp tập huấn về năng suất và chất lượng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của TP.HCM năm 2024 nhằm tuyên truyền, phổ biến và chia sẻ kinh nghiệm cũng như cung cấp kiến thức về các giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn Thành phố.
Tại lớp tập huấn, PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) trao đổi và làm rõ các nội dung liên quan đến khái niệm, định nghĩa về năng suất, các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất; tầm quan trọng của năng suất; năng suất và những yếu tố liên quan; tác động của các công nghệ 4.0 đến năng suất và chất lượng; các giải pháp nâng cao năng suất;…
Theo đó, năng suất không còn là một khái niệm mới mẻ, hiện nay, ba hình thức năng suất khác nhau đã được hầu hết các nhà nghiên cứu và thực hành năng suất chấp nhận rộng rãi, bao gồm: năng suất tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng với tất cả các yếu tố đầu vào"; năng suất nhân tố tổng hợp là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng trên tổng số lao động liên quan và các yếu tố đầu vào khác"; năng suất một phần là "tỷ lệ giữa tổng sản lượng đầu ra với một loại đầu vào".
Lớp tập huấn "Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tổ chức từ ngày 26-27/11
Phân tích một số định nghĩa về năng suất cho thấy, năng suất là mối quan hệ giữa số lượng đầu ra (hàng hóa và dịch vụ được sản xuất) và số lượng đầu vào (bao gồm các nguồn lực như lao động, vật liệu, máy móc và năng lượng) được sử dụng trong sản xuất. Trong định nghĩa "năng suất = hiệu quả x hiệu suất x hiệu năng": hiệu quả là tỷ lệ giữa kết quả đạt được và tổng số nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó; hiệu suất là tỷ lệ giữa thời gian và nguồn lực đã sử dụng để hoàn thành công việc; hiệu năng là tỷ lệ giữa khả năng hoạt động thực tế của hệ thống và khả năng hoạt động trong điều kiện tối ưu nhất.
Qua phân tích một số khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ, và ý kiến về năng suất của một số chuyên gia và tổ chức, ông Tuấn lưu ý, năng suất theo cách tiếp cận mới một cách chung nhất và cơ bản nhất hiện nay nhấn mạnh vào việc giảm lãng phí trong mọi hình thức (giảm lãng phí chứ không phải là giảm đầu vào); năng suất là làm việc thông minh hơn chứ không phải vất vả hơn. Tăng năng suất đồng nghĩa với sự đổi mới, sáng tạo và cải tiến liên tục. Trong thực tế, những cải tiến được tạo ra từ những thay đổi trong thiết kế, sản xuất, giao hàng,… Đây là những thay đổi cần phải có do ảnh hưởng của các yếu tố như công nghệ, quản lý, yêu cầu về sản phẩm và phương pháp làm việc.
PGS.TS. Phạm Ngọc Tuấn (chuyên gia về năng suất chất lượng) là báo cáo viên chính của chương trình
Đạt được năng suất cao hơn là một trong những mục tiêu chính của bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào. Điều này mang lại những lợi ích thiết thực như chi phí sản xuất giảm; tăng lợi thế cạnh tranh; tăng khối lượng bán hàng; lợi nhuận tăng; sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn; sự hài lòng của khách hàng được cải thiện;… Để tăng năng suất và chất lượng cho doanh nghiệo, hàng loạt nội dung về các giải pháp và công cụ đã được đề cập và trao đổi tại lớp tập huấn. Cụ thể như bảy công cụ kiểm soát chất lượng; sản xuất tinh gọn; sáu Sigma; Kaizen; 5S; KPI; một số công cụ đổi mới; phương pháp giải quyết vấn đề sáng tạo; lý thuyết giải quyết các bài toán sáng chế; công thái học trong cải tiến sản phẩm, hệ thống và môi trường làm việc; quản lý dự án; quản lý và cải tiến quy trình; siêu tập trung; trí tuệ nhân tạo; tư duy thiết kế; trí tuệ cảm xúc;...
Trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) là một trong những công nghệ 4.0 có thể cung cấp cho doanh nghiệp những công cụ cần thiết để tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm lãng phí và tăng hiệu quả; tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và nâng cao tính linh hoạt, cải thiện tính minh bạch của chuỗi cung ứng. Bằng cách cung cấp thông tin chi tiết và đề xuất dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực, AI có thể giúp doanh nghiệp cải thiện quá trình ra quyết định, xác định các lĩnh vực cần cải thiện và thực hiện các điều chỉnh để tối ưu hóa quy trình; phát hiện các lỗi trong thời gian thực và thực hiện các điều chỉnh để cải thiện chất lượng sản phẩm. AI cũng có thể được sử dụng để tạo ra những ý tưởng và đổi mới (tạo ra các thiết kế mới hoặc tối ưu hóa các thiết kế hiện có), giúp các sản phẩm và quy trình được cải tiến.
Theo thông tin từ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các lớp tập huấn được tổ chức miễn phí dành cho doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh và tổ chức thử nghiệm hoạt động trên địa bàn Thành phố. Trước đó, 2 lớp tập huấn đã diễn ra là Đánh giá hiệu quả công việc (KPI) và chuyển đổi số (ngày 12-13/11) và Tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn Thành phố (ngày 19-20/11). Sắp tới, lớp tập huấn về "Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố" được tổ chức từ ngày 03-04/12.
Lam Vân (CESTI)
“Nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp có số lượng đơn đăng ký nộp nhiều nhất. Tuy nhiên, so với số lượng doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM hiện nay thì con số này vẫn còn thấp…”, đó là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tại Hội nghị tập huấn “Kỹ năng lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu”do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức ngày 14/11/2024 vừa qua.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu tại Hội nghị tập huấn
Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, hiện nay các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến sở hữu trí tuệ, thông qua việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, tham gia các lớp tập huấn sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm, chờ đến khi bán được hàng mới đi đăng ký nhãn hiệu hay thậm chí có những doanh nghiệp tồn tại 5 năm, 10 năm nhưng vẫn chưa đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho đến khi xảy ra tranh chấp nhãn hiệu thì mới bắt đầu tìm hiểu. Hoặc cũng có trường hợp doanh nghiệp đi đăng ký nhưng chỉ để hoàn thiện hồ sơ, phục vụ cho các mục đích khác (quảng cáo, bàn hàng trên trang thương mại điệm tử…). Do đó, Doanh nghiệp cần nhận thức vai trò sở hữu trí tuệ, sử dụng nhãn hiệu (tài sản trí tuệ) của mình để nó trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần ổn định hoạt động sản xuất của kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững… và đó chính là câu chuyện về quản trị tài sản trí tuệ.
Đồng quan điểm với bà Nguyễn Thị Ngọc Nhung, khi chia sẻ thêm những thông tin liên quan đến các vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ cho rằng, hiện nay doanh nghiệp đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, nhưng không phải tất cả các chủ thể đều nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu thông qua việc đăng ký nhãn hiệu và vẫn có những nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và thương hiệu hay nhãn hiệu và tên thương mại… Điều này rất dễ phát sinh những xung đột quyền giữa tên thương mại, thương hiệu với nhãn hiệu được bảo hộ.
“Về nhãn hiệu đây là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Cũng có nhãn hiệu mang tính chất tập thể và đây là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên, của các tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Bên cạnh đó còn có nhãn hiệu mang tính chất chứng nhận và đây là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ tin cậy, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Căn cứ vào đó nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu đáp ứng thêm được các điều kiện như có dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố nêu trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa và đây cũng là một điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ 2023. Đồng thời, cũng phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”, bà Vũ Thị Phương Giang thông tin.
Bà Vũ Thị Phương Giang - Trung tâm Thẩm định Nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ nhiều nội dung về cách thức đăng ký nhãn hiệu
Cũng theo bà Vũ Thị Phương Giang, một số dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu như dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế. Hay dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài và dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế cũng như dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ…
“Hiện nay, quy trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu được công khai, các cá nhân, tổ chức nếu có nhu cầu cũng có thể tra cứu thông tin, đăng ký đơn trực tuyến trên cổng thông tin của Cục Sở hữu trí tuệ ở địa chỉ https://www.ipvietnam.gov.vn”, bà Vũ Thị Phương Giang chia sẻ thêm.
Trong khuôn khổ sự kiện, những kiến thức từ buổi tập huấn còn nhanh chóng được vận dụng vào thực hành. Các đại biểu đã được hướng dẫn nhận biết các loại nhãn hiệu, tra cứu thông tin nhằm đánh giá khả năng bảo hộ nhãn hiệu trước khi nộp đơn đăng ký, hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn thực hành lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, xử lý tình huống... Một số doanh nghiệp với mong muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng được các chuyên gia nhiệt tình tư vấn tại Hội nghị tập huấn lần này.
Các cá nhân, tổ chức và đại diện các doanh nghiệp thẳng thắn đặt câu hỏi, trao đổi cùng các chuyên gia tại Hội nghị tập huấn
Ngoài ra, trong Hội nghị “Chương trình thương hiệu quốc gia và các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng phát triển thương hiệu” đã được ông Tạ Mạnh Cường - Trưởng phòng Phòng Phát triển năng lực Cúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương giới thiệu; PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh - Giảng viên cấp cao, trường Đại học Thương mại chia sẻ chuyên đề “Thương hiệu - Tiếp cận tư duy chiến lược” giúp doanh nghiệp tiếp cận thêm thông tin để xây dựng chiến lược, từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường.
Nhật Linh (CESTI)
“Phòng thí nghiệm có hệ thống quản lý chất lượng và bảo đảm năng lực kỹ thuật, có khả năng cung cấp các kết quả tin cậy, chính xác và có giá trị về mặt kỹ thuật”, đó là nhận định của ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng tại lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM. Lớp tập huấn được Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức trong 02 ngày, từ 18 - 19/11/2024 nhằm phổ biến kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, tổ chức về giải pháp nâng cao năng suất chất lượng…
Ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng của lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM chia sẻ nhiều kiến thức mới và kinh nghiệm cho học viên
Theo ông Nhan Thanh Liêm - Chuyên gia Năng suất chất lượng chia sẻ, trên thế giới hiện nay có nhiều tiêu chuẩn khác nhau liên quan tới chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Một trong những bộ tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến nhất dành cho các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn là ISO/IEC 17025 của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế.
Tiêu chuẩn ISO 17025 là tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý chất lượng (QMS - Quality Management System) dành riêng cho các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn. Tiêu chuẩn này do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO (International Organization for Standardization) kết hợp với Ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế (IEC - International Electrotechnical Commission) xây dựng và ban hành. ISO/IEC 17025 nhằm cung cấp một khuôn khổ cho việc phát triển, thực hiện, giám sát và cải tiến liên tục Hệ thống quản lý chất lượng đối với những tổ chức có các hoạt động thử nghiệm, hiệu chuẩn, lấy mẫu nhằm đảm bảo các kết quả mà phòng thí nghiệm công bố là chính xác và đáng tin cậy.
Bộ tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 ra đời dựa trên nhu cầu về kiểm định năng lực của các phòng thử nghiệm một cách thống nhất trên toàn thế giới. Ban đầu tiêu chuẩn này có tên gọi là ISO/IEC Guide 25 (Tài liệu này được ILAC - Hợp tác Chứng nhận Phòng thí nghiệm Quốc tế, ban hành vào ngày 01/10/1978). ISO Guide 25 không đề cập đến các phòng thí nghiệm hiệu chuẩn mà chỉ đề cập đến các phòng thí nghiệm thử nghiệm. Trong tài liệu có những hướng dẫn chung để các phòng thử nghiệm có thể chứng minh năng lực kỹ thuật của mình. Tuy nhiên, Hướng dẫn vẫn cho phép các cơ quan đánh giá yêu cầu các yêu cầu khác ngoài những yêu cầu đã được nêu trong văn bản Hướng dẫn. Sau này, Tổ chức ISO đã ban hành tiêu chuẩn ISO 17025 để thay thế cho ISO/IEC Guide 25.
Lịch sử của bộ tiêu chuẩn ISO 17025 bắt nguồn từ cuộc họp năm 1975 của tổ chức Hợp tác Công nhận Phòng thí nghiệm Quốc tế (ILAC). Sự kiện đã cho thấy sự cần thiết phải có một hướng dẫn quốc tế về những yêu cầu chung đối với năng lực của các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn.
Bộ tiêu chuẩn ISO 17025 được thể hiện lần đầu tiên dưới dạng hướng dẫn ISO/IEC Guide 25 vào năm 1990. Đến năm 2005 thì bộ tiêu chuẩn này được ra đời phiên bản thứ 2 có bao gồm 5 điều khoản: có yêu cầu quản lý chủ yếu liên quan đến hiệu lực và vận hành hệ thống Quản lý Chất lượng của PTN; Yêu cầu kỹ thuật bao gồm các yếu tố xác định tính chính xác và độ tin cậy của các thử nghiệm và hiệu chuẩn được thực hiện trong phòng thí nghiệm. Phiên bản mới nhất hiện nay của ISO/IEC 17025 được ban hành năm 2017 có 8 điều khoản: Phạm vi áp dụng; Tài liệu viện dẫn; Thuật ngữ và định nghĩa; Yêu cầu chung; Yêu cầu cơ cấu; Yêu cầu nguồn lực; Yêu cầu quá trình; Yêu cầu hệ thống quản lý.
ISO/IEC 17025:2017 là phiên bản mới nhất hiện nay của bộ tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý chất lượng cho phòng thí nghiệm. ISO 17025:2017 được ban hành thay thế cho phiên bản trước đó là ISO 17025:2005. ISO 17025 đưa ra các yêu cầu nhằm xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình thử nghiệm, hiệu chuẩn, lấy mẫu, áp dụng cho mọi quy mô tổ chức. Vì vậy, tất cả các tổ chức cung cấp dịch vụ này đều có thể áp dụng và chứng nhận ISO/IEC 17025. Năm 2018, Việt Nam đã chấp nhận hoàn toàn phiên bản ISO/IEC 17025:2017 và ban hành Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2017 tương đương.
Lớp tập huấn đã thu hút được đông đảo đại diện các đơn vị trên địa bàn TP.HCM tham gia học tập
Nói về sự khác biệt của Tiêu chuẩn ISO 17025:2017 so với các phiên bản cũ, ông Nhan Thanh Liêm cho biết, về quan điểm tiếp cận, hiệu chuẩn cũng như thử nghiệm và phân tích mẫu là các hoạt động hàng ngày của hơn 60.000 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 về “Các yêu cầu chung về năng lực của các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” đã trở thành tài liệu tham khảo Quốc tế quan trọng cho các phòng thí nghiệm muốn chứng minh khả năng cung cấp kết quả đáng tin cậy của họ trên thị trường. Việc đáp ứng các yêu cầu của Tiêu chuẩn này cho phép các phòng thí nghiệm nâng cao khả năng tạo ra các kết quả có giá trị sử dụng ổn định.
Kể từ khi phiên bản ISO/IEC 17025:2005 được ban hành, bối cảnh thị trường và công nghệ đã có sự thay đổi đáng kể, phương pháp tiếp cận quản lý dựa trên tư duy rủi ro đã được đưa vào phiên bản mới ISO 17025:2017. Việc xem xét để sửa đổi, bổ sung và tích hợp những thay đổi trên vào phiên bản mới cho phù hợp là một đòi hỏi khách quan.
Để phản ánh những thay đổi mới nhất của điều kiện khách quan, phiên bản ISO/IEC 17025: 2017 đã bao quát các hoạt động và cách thức làm việc mới của các phòng thí nghiệm hiện nay, bao gồm các thay đổi về kỹ thuật, thuật ngữ và các phát triển về kỹ thuật công nghệ thông tin, đồng thời điều chỉnh để ISO 17025:2017 phù hợp với ISO 9001:2015 về quản lý chất lượng.
Trên cơ sở quan điểm tiếp cận nêu trên, phiên bản ISO 17025:2017 đã có nhiều thay đổi mang tính toàn diện về cả nội dung lẫn bố cục so với phiên bản ISO 17025:2005. Những thay đổi chính được tổng hợp lại bao gồm: Mở rộng phạm vi bao gồm tất cả các hoạt động trong phòng thí nghiệm như lấy mẫu, thử nghiệm, hiệu chuẩn; Điều chỉnh phương pháp tiếp cận theo quá trình để phù hợp với các tiêu chuẩn mới hơn có liên quan như ISO 9001 (quản lý chất lượng), ISO 15189 (chất lượng phòng thí nghiệm y tế) và ISO/IEC 17021-1 (yêu cầu đối với tổ chức đánh giá và chứng nhận hệ thống); Nhấn mạnh vào kết quả của quá trình thay vì mô tả chi tiết các nhiệm vụ và các bước của nó; Tập trung nhiều hơn vào việc áp dụng công nghệ thông tin, kết hợp việc sử dụng hệ thống máy tính, hồ sơ điện tử vào các kết quả, báo cáo dạng điện tử; Bổ sung chương mới giới thiệu khái niệm về tư duy dựa trên rủi ro và mô tả những điểm tương đồng với phiên bản mới ISO 9001:2015; Cập nhật thêm một số thuật ngữ để phu hợp với thế giới ngày nay, bao gồm những thay đổi trong Từ vựng Đo lường Quốc tế (VIM) và sự liên kết với những thay đổi về thuật ngữ của ISO/IEC. Cụ thể, ban hành một tài liệu riêng về những thuật ngữ và định nghĩa chung cho tất cả các tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp, thay đổi trong hoạt động vận hành và quản lý phòng thí nghiệm. Ví dụ như hiện nay các bản cứng của sổ tay, hồ sơ và báo cáo thử nghiệm đang dần bị loại bỏ theo hướng chuyển sang các phiên bản điện tử….
Gợi ý một số bước cơ bản trong quy trình xây dựng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 17025, bao gồm:
Bước 1: Tìm hiểu về tiêu chuẩn ISO 17025 (Nắm vững nội dung, yêu cầu và nguyên tắc của tiêu chuẩn ISO 17025; Hiểu rõ các khái niệm và nguyên tắc chung về quản lý chất lượng).
Bước 2: Xác định phạm vi và mục tiêu của Hệ thống QMS (Xác định rõ ràng phạm vi của Hệ thống QMS bao gồm các quy trình, hoạt động và phòng ban tham gia; Đặt ra các mục tiêu cụ thể mà tổ chức mong muốn đạt được thông qua Hệ thống QMS).
Bước 3: Xây dựng và triển khai Hệ thống QMS (Xây dựng các quy trình, chức năng và phương pháp liên quan đến việc quản lý chất lượng; Phân công trách nhiệm cho các hoạt động và quy trình trong Hệ thống QMS; Triển khai các biện pháp cần thiết để tuân thủ yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 17025).
Bước 4: Đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn ISO 17025 (Xác định các chỉ số và tiêu chí đo lường để kiểm tra mức độ tuân thủ tiêu chuẩn; Thực hiện kiểm tra và đánh giá định kỳ để đảm bảo rằng quy trình và hoạt động đang tuân thủ yêu cầu ISO 17025).
Bước 5: Đào tạo (Đào tạo nhân viên về các yêu cầu và quy trình trong hệ thống quản lý chất lượng; Tạo cơ hội cho việc học hỏi và nâng cao kỹ năng để cải thiện hiệu suất).
Bước 6: Đánh giá và cải thiện liên tục (Thực hiện các cuộc đánh giá nội bộ và ngoại bộ để xác định các điểm mạnh và điểm yếu của Hệ thống QMS; Dựa trên kết quả đánh giá, tiến hành các biện pháp cải thiện liên quan đến quy trình, chất lượng và hiệu suất tổng thể).
Bước 7: Chứng nhận và duy trì hệ thống QMS (Khi hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng đủ yêu cầu tiêu chuẩn, tổ chức có thể xin cấp chứng nhận ISO 17025 từ cơ quan chứng nhận uy tín; Duy trì hệ thống qua việc tiếp tục tuân thủ yêu cầu, kiểm tra và cải thiện liên tục).
Lưu ý: Việc triển khai Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn ISO 17025 là một quá trình phức tạp và đòi hỏi sự cam kết từ các cấp quản lý và nhân viên. Tùy thuộc vào quy mô và ngành nghề của tổ chức, các bước cụ thể có thể thay đổi.
Được biết, lớp tập huấn về tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn TP.HCM là chuỗi chương trình tập huấn được Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức miễn phí nhằm phổ biến kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, tổ chức về giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, giới thiệu các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Qua đó, nâng cao nhận thức và năng lực của các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn TP.HCM, đẩy mạnh hoạt động đánh giá hiệu quả công việc (KPI) và chuyển đổi số tại từng đơn vị. Chuỗi chương trình tập huấn này sẽ còn lại 2 lớp, với chủ đề: Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố; Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố.
Doanh nghiệp, tổ chức quan tâm có thể đăng ký tham dự trực tuyến các lớp tiếp theo tại: https://forms.gle/Z3ydgbSyY9gJG5Bw5.
Nhật Linh (CESTI)
Buổi làm việc nhằm thảo luận về định hướng hợp tác, đồng hành cùng các công ty Khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI. Cũng như, về việc thành lập Trung tâm tính toán AI… Đây là những nội dung nằm trong các nhóm mục tiêu lớn mà Tập đoàn NVIDIA đang hướng đến TP.HCM, điểm đầu tư chiến lược tại khu vực Châu Á.
Sáng ngày 15/11/2024, tại trụ sở của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã diễn ra buổi gặp gỡ và làm việc giữa Sở Khoa học và Công nghệ cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố (Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM, Công ty TNHH MTV Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung…) với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA. Đây là hoạt động nhằm tìm hiểu, thúc đẩy hợp tác và đầu tư của Tập đoàn NVIDIA hướng đến TP.HCM trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI.
Buổi làm việc giữa Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA
Đại diện nhóm chuyên gia cấp cao của Tập đoàn NVIDIA chia sẻ, ngành công nghệ AI là một trong những ngành quan trọng của thế giới bởi sự chi phối đang hiện hữu trong toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống và kinh tế toàn cầu. Việc Tập đoàn NVIDIA tìm hiểu, lựa chọn TP.HCM là điểm đầu tư chiến lược tại khu vực châu Á xuất phát từ thực tế TP.HCM đang có đầy đủ yếu tố để phát triển và làm chủ ngành công nghệ AI.
Hiện, NVIDIA mong muốn cùng TP.HCM xây dựng AI có chủ quyền, đây là AI đề cập đến khả năng của một quốc gia trong việc sản xuất trí tuệ nhân tạo bằng cách sử dụng cơ sở hạ tầng, dữ liệu, lực lượng lao động và mạng lưới kinh doanh của riêng mình.
Các quốc gia từ lâu đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong nước để phát triển nền kinh tế, kiểm soát dữ liệu của riêng họ và tận dụng các cơ hội công nghệ trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, truyền thông, thương mại, giải trí và chăm sóc sức khỏe.
AI, công nghệ quan trọng nhất của thời đại chúng ta, đang thúc đẩy sự đổi mới trong mọi khía cạnh của xã hội. Nó được kỳ vọng sẽ tạo ra hàng nghìn tỷ đô la lợi nhuận kinh tế và tăng năng suất.
Các quốc gia đang đầu tư vào AI có chủ quyền để phát triển và khai thác những lợi ích như vậy cho riêng mình. AI có chủ quyền đề cập đến khả năng của một quốc gia trong việc sản xuất trí tuệ nhân tạo bằng cách sử dụng cơ sở hạ tầng, dữ liệu, lực lượng lao động và mạng lưới kinh doanh của riêng mình.
Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA làm việc tại Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM và chia sẻ về các thành tố quan trọng của AI có chủ quyền
Cũng theo nhóm chuyên gia cấp cao của Tập đoàn NVIDIA, nhu cầu cấp thiết toàn cầu đối với các quốc gia trong việc đầu tư vào năng lực AI có chủ quyền đã tăng lên kể từ khi AI thế hệ xuất hiện, đang định hình lại thị trường, thách thức các mô hình quản trị, truyền cảm hứng cho các ngành công nghiệp mới và chuyển đổi các ngành khác - từ trò chơi đến dược phẩm sinh học. Nó cũng đang viết lại bản chất của công việc, khi mọi người trong nhiều lĩnh vực bắt đầu sử dụng “phi công phụ” do AI hỗ trợ.
AI có chủ quyền bao gồm cả cơ sở hạ tầng vật lý và dữ liệu. Cơ sở hạ tầng sau bao gồm các mô hình nền tảng có chủ quyền, chẳng hạn như các mô hình ngôn ngữ lớn, được phát triển bởi các nhóm địa phương và được đào tạo trên các tập dữ liệu địa phương.
Ví dụ, các mô hình AI nói có thể giúp bảo tồn, thúc đẩy và phục hồi ngôn ngữ bản địa. Và mô hình ngôn ngữ lớn này không chỉ để dạy AI ngôn ngữ của con người, mà còn để viết mã phần mềm, bảo vệ người tiêu dùng khỏi gian lận tài chính, dạy robot các kỹ năng vật lý và nhiều hơn nữa.
Ngoài ra, khi trí tuệ nhân tạo và điện toán tăng tốc ngày càng trở thành công cụ quan trọng để chống biến đổi khí hậu, thúc đẩy hiệu quả năng lượng và bảo vệ chống lại các mối đe doạ an ninh mạng, AI có chủ quyền có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho mọi quốc gia để tăng cường nỗ lực phát triển bền vững.
Hơn hết phải tính đền các “nhà máy AI”, gồm cơ sở hạ tầng mới, thiết yếu cho sản xuất AI, nơi dữ liệu đi vào và trí thông minh đi ra. Đây là các trung tâm dữ liệu thế hệ tiếp theo lưu trữ các nền tảng điện toán tiên tiến, tăng tốc toàn bộ ngăn xếp cho các tác vụ tính toán chuyên sâu nhất.
Các quốc gia đang xây dựng năng lực điện toán trong nước thông qua nhiều mô hình khác nhau. Một số đang mua sắm và vận hành các đám mây AI có chủ quyền hợp tác với các nhà cung cấp hoặc tiện ích viễn thông do nhà nước sở hữu. Những quốc gia khác đang tài trợ cho các đối tác đám mây địa phương để cung cấp nền tảng điện toán AI dùng chung cho khu vực công và tư nhân sử dụng.
Hiện các quốc gia trên thế giới đang đầu tư vào AI có chủ quyền. Kể từ năm 2019, sáng kiến AI Nations của NVIDIA đã giúp các quốc gia trên khắp thế giới xây dựng năng lực AI có chủ quyền, bao gồm cả việc hỗ trợ hệ sinh thái và phát triển lực lượng lao động, tạo điều kiện cho các kỹ sư, nhà phát triển, nhà khoa học, doanh nhân, nhà sáng tạo và quan chức trong khu vực công theo đuổi tham vọng AI của họ tại quốc gia mình ví như: Pháp, Thuỵ Sĩ, Ý, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore...
Lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng một số Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố làm việc với Đoàn chuyên gia cấp cao Tập đoàn NVIDIA
Trên tinh thần trao đổi cởi mở, thiện chí, hợp tác giữa hai bên, đại diện cho các Sở ban ngành, đơn vị trực thuộc Thành phố tham dự buổi làm việc, ông Nguyễn Việt Dũng - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM thống nhất sẽ báo cáo, tham mưu và đề xuất cho Lãnh đạo Thành phố những nội dung quan trọng đối với định hướng hợp tác, đồng hành của Tập đoàn NVIDIA cho các công ty Khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và phát triển ứng dụng AI. Đặc biệt là việc thành lập Trung tâm tính toán AI tại TP.HCM…
“Chúng tôi sẽ tham mưu cho Lãnh đạo Thành phố để đẩy nhanh quá trình hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, đề xuất với NVIDIA tiếp tục ngồi lại với chúng tôi để từ đây cho tới cuối năm 2024, cùng nhau nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch cụ thể hơn về nhu cầu AI của Thành phố. Tiếp đến, về vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng chúng tôi nhận thấy nếu đầu tư dàn trải ở tất cả các đơn vị thì rất lãng phí, do đó sẽ đề xuất với Thành phố trước mắt nên đầu tư một hệ thống dùng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp của nhà nước cũng như tư nhân và cả cộng đồng đều dùng được, nhưng vấn đề về bảo mật thông tin, bảo mật dữ liệu phải được đảm bảo và việc đặt ở đâu hai bên sẽ thống nhất. Riêng, về phía Sở Khoa học và Công nghệ, chúng tôi cũng mong muốn có sự phối hợp của NVIDIA đối với quá trình đào tạo nguồn nhân lực về AI cho hệ sinh thái tại Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo Thành phố và mời NVIDIA cùng tham gia vào không gian làm việc mở của Trung tâm này. Chúng tôi cũng mong muốn được NVIDIA huấn luyện cho các chương trình ươm tạo về AI mà Thành phố đang triển khai và hơn hết là có thể đầu tư vào các nhóm Startup tiềm năng”, ông Nguyễn Việt Dũng chia sẻ.
Được biết, tại buổi làm việc giữa ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM với ông Keith Strier - Phó Chủ tịch Tập đoàn NVIDIA (Hoa Kỳ) vào hồi tháng 4/2024. Chủ tịch UBND Thành phố Phan Văn Mãi cũng đã đề nghị các cơ quan chức năng liên quan cùng với Tập đoàn NVIDIA thành lập ngay tổ công tác để tạo điều kiện thuận lợi cho tập đoàn sớm vào đầu tư tại TPHCM. Tổ công tác này cũng sẽ hoạch định tầm nhìn, định hướng lộ trình, mục tiêu, cơ chế để phát triển công nghệ AI, cũng như tư vấn cho Thành phố những mục tiêu ưu tiên, trọng tâm và lộ trình ứng dụng AI trong hoạt động điều hành, quản lý. Thành phố cam kết phát triển hình thức hợp tác công tư để đẩy nhanh việc xây dựng hạ tầng cho ngành công nghệ AI.
NVIDIA là tập đoàn đa quốc gia của Mỹ có trụ sở chính tại Santa Clara, California chuyên về lĩnh vực công nghệ. Lĩnh vực chính của NVIDIA là phát triển bộ xử lý đồ họa (GPU) cho thị trường gaming và đồ họa chuyên nghiệp.
Ngoài sản xuất GPU, NVIDIA còn cung cấp một giao diện lập trình ứng dụng (API) được gọi là CUDA nhằm mục đích giúp các nhà khoa học, lập trình viên tận dụng khả năng tính toán song song của GPU để tăng tốc độ thực hiện các tác vụ như xử lý hình ảnh, video, phân tích và tính toán các thuật toán cũng như tác vụ AI, machine learning (máy học).
Cũng vào hồi đầu năm nay 29/02, sau hơn 09 tháng thương thảo với NVIDIA, trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã chính thức nhập về siêu máy chủ AI NVIDIA DGX A100 nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu, phát triển các ứng dụng, thuật toán AI.
Thêm vào đó, NVIDIA còn tham gia sản xuất bộ xử lý di động Tegra cho điện thoại thông minh, máy chơi game, máy tính bảng cũng như hệ thống định vị và giải trí trên xe.
Nhật Linh (CESTI)
Ngày 14/11/2024, Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM tổ chức sự kiện Kết nối sáng tạo tháng 11 với chủ đề “Hiện trạng và giải pháp ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Thành phố”. Sự kiện do Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM (SIHUB) triển khai thực hiện, thuộc chuỗi các sự kiện kết nối hợp tác giữa khu vực nghiên cứu với khu vực công.
Ứng dụng khoa học và công nghệ trong xây dựng nông thôn mới là một động lực quan trọng góp phần đổi mới mô hình phát triển, nâng cao chất lượng đời sống người dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, sự kiện Kết nối sáng tạo tháng 11 kỳ vọng xác định được các vấn đề, nhu cầu kết nối, tìm kiếm công nghệ, giải pháp, và quy trình hiệu quả nhằm phát triển các mô hình nông nghiệp tiên tiến, từ đó phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp đô thị và nông thôn mới của TP.HCM.
Thông tin tại sự kiện, đại diện Chi cục Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) cho biết TP.HCM đã triển khai Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) từ năm 2018. Sản phẩm OCOP tập trung vào 6 nhóm, gồm: Nhóm thực phẩm, Nhóm đồ uống; Nhóm dược liệu và sản phẩm từ dược liệu; Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ; Nhóm sinh vật cảnh; Nhóm dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và điểm du lịch. Đến nay, Thành phố đã công nhận 255 sản phẩm OCOP của 87 chủ thể, trong đó, 79 sản phẩm đạt chuẩn 4 sao và 176 sản phẩm đạt chuẩn 3 sao. Riêng trong 10 tháng đầu năm 2024, Thành phố đã công nhận 121 sản phẩm của 34 chủ thể được công nhận sản phẩm OCOP, trong đó, 43 sản phẩm đạt chuẩn 4 sao và 78 sản phẩm đạt chuẩn 3 sao.
Với đặc điểm nông nghiệp đô thị và khoa học công nghệ phát triển, TP.HCM có tiềm năng phát triển sản phẩm OCOP rất lớn, đặc biệt là hướng phát triển sản phẩm thực phẩm chế biến sâu, sản phẩm có ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất, sản phẩm có gắn kết với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, ở góc độ các chủ thể OCOP, việc ứng dụng khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Đầu tiên có thể kế đến là ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tham gia trên các sàn thương mại điện tử vào lĩnh vực nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, đối với các sản phẩm đề xuất công nhận sản phẩm đạt 4 sao, 5 sao còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về ghi nhãn hàng hóa, đăng ký mã số, mã vạch, truy xuất nguồn gốc, sở hữu trí tuệ.
Chia sẻ hoạt động xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn huyện Cần Giờ, ông Nguyễn Hồ Chí Trung - đại diện Phòng Kinh tế huyện Cần Giờ cho biết Phòng Kinh tế huyện thường xuyên đồng hành, hỗ trợ cấp xã theo sát các chủ thể tiềm năng để kịp thời triển khai các chính sách hỗ trợ, điển hình là hỗ trợ các chủ thể tham gia trưng bày sản phẩm OCOP tại các sự kiện của Thành phố do điều kiện xa. Cần Giờ cũng đã triển khai sử dụng phần mềm quản lý, chấm điểm, đánh giá và phân hạng sản phẩm OCOP huyện Cần Giờ. Tính đến nay, Cần Giờ có 73 sản phẩm OCOP (51 sản phẩm đạt 4 sao và 22 sản phẩm đạt 3 sao), 6 nhãn hiệu tập thể và 3 sản phẩm nông nghiệp được cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi.
Tại sự kiện, các đại biểu chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất nhiều giải pháp về ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm phát triển sản phẩm OCOP trên địa bàn Thành phố hiệu quả hơn, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Cụ thể, Chi cục Phát triển nông thôn đề xuất một số giải pháp cần được tập trung về ứng dụng khoa học và công nghệ. Đó là rà soát các cơ chế chính sách thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ hỗ trợ xây dựng nông thôn mới, chú trọng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn các huyện ngoại thành Thành phố. Bên cạnh đó, cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ đối với các sản phẩm OCOP, tập trung hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá nhân về quy định ghi nhãn hàng hóa; thủ tục đăng ký mã số, mã vạch, sở hữu trí tuệ, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Ông Nguyễn Hồ Chí Trung - đại diện Phòng Kinh tế huyện Cần Giờ cũng nêu ý kiến sản phẩm OCOP cần tập trung vào chất lượng chứ không chạy theo số lượng nhằm tập trung phát huy nội lực và gia tăng giá trị của sản phẩm OCOP, nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP gắn với phát triển du lịch, hướng đến sản phẩm OCOP xanh – hữu cơ. Đồng thời tăng cường quảng bá và phát triển nhiều hơn các điểm trưng bày sản phẩm OCOP.
Theo bà Lê Thị Bé Ba – Phó Giám đốc Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM (SIHUB), nếu các quận, huyện và thành phố Thủ Đức hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã có nhu cầu, yêu cầu “đặt hàng” giải quyết các bài toán, vấn đề về ứng dụng khoa học công nghệ hoặc chuyển đổi số, Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM và Trung tâm Khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM (SIHUB) sẽ thực hiện các mô hình demo để chia sẻ và giới thiệu, triển khai các hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao…
Hoàng Kim (CESTI)
Trong 2 ngày từ 12 đến13/11/2024, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức lớp tập huấn “Đánh giá hiệu quả công việc và chuyển đổi số”.
Quang cảnh buổi tập huấn.
Lớp tập huấn nhằm phổ biến kiến thức cũng như chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn về giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, chuyển đổi số, các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đại diện Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cho biết, tại TP.HCM, những năm gần đây, hoạt động chuyển đổi số bắt đầu diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp trên mọi lĩnh vực, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức.
Mặt khác, việc đánh giá hiệu suất công việc (KPI) là yếu tố quan trọng, một “công cụ” hiện đại giúp các nhà quản lý triển khai chiến lược lãnh đạo thành các mục tiêu quản lý và chương trình hành động cụ thể cho từng lĩnh vực, từng cá nhân nhằm đảm bảo sự hiệu quả và tiến bộ trong quản lý tổ chức. Đồng thời, giúp doanh nghiệp theo dõi tiến độ, so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra, đo lường hiệu quả việc ứng dụng các công nghệ số vào hoạt động kinh doanh. Bắt nhịp xu thế đó, tính cần thiết của chương trình tập huấn về KPI và chuyển đổi số dần được quan tâm và phổ biến rộng rãi với nhiều hình thức và đa dạng khóa học.
Trong lớp tập huấn lần này, các đại biểu, khách mời tham dự sẽ được trao đổi những nội dung như: các khái niệm liên quan đến KPI; 12 bước xây dựng KPI, KVI trong doanh nghiệp; phương thức sản xuất thông minh trong nền công nghiệp 4.0; các khái niệm về chuyển đổi số; hướng dẫn xây dựng lộ trình chuyển đổi số, sản xuất thông minh cho các tổ chức. Toàn bộ những nội dung này góp phần giúp các doanh nghiệp, tổ chức được tư vấn, hướng dẫn, giải đáp thêm nhiều vướng mắc trong quá trình hoạt động.
Ông Mai Ngọc Khánh (đại diện Công ty TNHH Coyosu Việt Nam) báo cáo viên tại Hội nghị cho biết, một số KPI quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp gồm các yếu tố như: mức độ tự động hóa quy trình; hiệu suất làm việc của nhân viên; chỉ số sử dụng công nghệ mới; tỷ lệ hoàn thành dự án đúng hạn; giảm chi phí vận hành; tăng doanh thu từ các kênh số; chỉ số hài lòng của khách hàng; chỉ số an ninh và bảo mật thông tin... Những KPI này giúp doanh nghiệp theo dõi và điều chỉnh chiến lược chuyển đổi số, đảm bảo rằng dự án không chỉ triển khai thành công mà còn mang lại giá trị thực tế.
Cụ thể, 12 bước xây dựng KPI, KVI trong doanh nghiệp được triển khai gồm: cam kết của đội ngũ quản lý cấp cao; thành lập đội ngũ dự án “winning KPI”; thiết lập văn hóa và quy trình “cứ làm đi”; thiết lập chiến lược phát triển KPI toàn diện; tiếp thị (marketing) hệ thống KPI đến tất cả nhân viên; xác định các yếu tố thành công quan trọng của tổ chức; ghi lại các phép đo hiệu suất trong cơ sở dữ liệu; chọn các phép đo hiệu suất ở cấp độ đội, nhóm; chọn các KPI “winning KPI” của tổ chức; phát triển khung báo cáo ở mọi cấp; tạo điều kiện thuận tiện cho việc sử dụng các winning KPIs và cuối cùng là bước tinh chỉnh KPI để duy trì sự liên quan của chúng.
Ông Mai Ngọc Khánh (đại diện Công ty TNHH Coyosu Việt Nam) trình bày các nội dung tại sự kiện.
Còn với nội dung về sản xuất thông minh – lộ trình chuyển đổi số, ông Khánh chia sẻ, đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là sự tích hợp về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Thời gian qua, bên cạnh những thuận lợi, hoạt động chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: nhiều cá nhân/đơn vị chưa theo kịp sự thay đổi, am hiểu về các công nghệ để thực hiện chuyển đổi số; máy tính, thiết bị, hệ thống phần mềm chưa phù hợp với hoạt động chuyển đổi số; rủi ro về an ninh mạng; tốn chi phí để xây dựng cơ sở dữ liệu; thói quen của người dân, doanh nghiệp trong thực hiện các công việc...
Dịp này, ông Khánh đã làm rõ các khái niệm về sản xuất thông minh, số hóa, chuyển đổi số, IoT, Bigdata, AI & Block-chains… Tại Hội nghị, ông Khánh cũng giới thiệu các phần mềm thông dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi số như: MRP, MRPII, ERP, ERP II… Đồng thời hướng dẫn xây dựng lộ trình chuyển đổi số, sản xuất thông minh cho tổ chức, từ việc phổ biến công cụ đánh giá mức độ sẵn sàng trong chuyển đổi số của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SIRI, iBench, VDMA, ViPA), một số giải pháp công nghệ, quản lý theo lộ trình chuyển đổi số, đến đánh giá mức độ sẵn sàng trên thị trường của các nhóm giải pháp.
Được biết, sắp tới, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tư vấn, hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thực hiện xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, công bố hợp chuẩn, hợp quy, mã số mã vạch sản phẩm hàng hóa; tư vấn hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015, TCVN ISO/IEC 17025:2017… Gần nhất, Chi cục sẽ tổ chức các lớp tập huấn (miễn phí) dành cho doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn Thành phố, gồm:
+ Tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025:2017 (ISO/IEC 17025:2017) cho các tổ chức thử nghiệm trên địa bàn Thành phố: ngày 19-20/11/2024.
+ Các giải pháp nâng cao toàn diện về năng suất cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố: ngày 26-27/11/2024.
+ Năng suất xanh và kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố: ngày 03-04/12/2024.
Minh Nhã (CESTI)
Thông tin đưa ra tại hội thảo Đánh giá, tổng kết 5 năm thực hiện "Đề án hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo TP.HCM giai đoạn 2021-2025" và kết quả triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (ĐMST).
Hội thảo do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức ngày 06/11, nhằm trao đổi, thảo luận, góp ý về kết quả thực hiện của giai đoạn 2021-2025 và đánh giá cụ thể các mặt đạt được, những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, đồng thời đề xuất nội dung, nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai trong nhiệm kỳ 2025-2030,… Những nội dung này được thực hiện theo chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân TP.HCM về Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện "Đề án hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo TP.HCM giai đoạn 2021-2025" (còn gọi là Đề án 672), nhằm phục vụ xây dựng Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XII.
Tại hội thảo, các đại biểu đã lắng nghe 2 báo cáo tham luận: Dự thảo Báo cáo kết quả hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2021-2025 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2026-2030; Đánh giá kết quả triển khai Đề án 672 giai đoạn 2021-2025 và đề xuất các giải pháp cải thiện. Qua đó đưa ra các ý kiến đóng góp, trao đổi, thảo luận để hoàn hoàn thiện các báo cáo.
Nhiều kết quả thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thành phố
Theo báo cáo của Sở Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2020-2025, ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) của Thành phố tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm xây dựng thành phố thông minh, phục vụ chương trình chuyển đổi số và các ngành công nghiệp chủ lực; nghiên cứu và triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế chia sẻ, kinh tế số và kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức KH&CN trong và ngoài nước để triển khai các nhiệm vụ KH&CN phục vụ các chương trình, đề án của Thành phố giai đoạn 2020-2025; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST), đồng hành và tích cực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST.
Ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) trình bày dự thảo Báo cáo kết quả hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2021-2025 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2026-2030
Nhìn chung, hoạt động khoa học công nghệ và ĐMST đã khẳng định được vai trò động lực, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách về khoa học, công nghệ và ĐMST ngày càng hoàn thiện, bám sát nhu cầu thực tế, Thành phố luôn năng động, kịp thời trong việc xây dựng các chính sách hỗ trợ, kết nối hệ sinh thái, tăng cường hoạt động truyền thông, hoạt động ĐMST, hợp tác quốc tế nhằm thu hút nguồn lực phục vụ phát triển Thành phố. Qua đó, thúc đẩy đầu tư của xã hội cho hoạt động KH&CN: bình quân giai đoạn 2021-2023 chi đầu tư cho KH&CN của xã hội ước đạt 0,88%/GRDP, ước đến năm 2025 đạt bình quân 1%/GRDP. Tỉ trọng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào GRDP Thành phố của doanh nghiệp thuộc 4 ngành công nghiệp và 9 ngành dịch vụ trọng yếu của Thành phố giai đoạn 2021-2022 bình quân đạt trên 47,2%.
Cụ thể, Thành phố đã tái cấu trúc các chương trình nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; phát triển, giải mã, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, phục vụ trực tiếp cho các ngành công nghiệp, dịch vụ và các đề án đô thị thông minh/đô thị sáng tạo, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI),… Trong đó, tập trung triển khai thực hiện 6 chương trình nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST trọng điểm giai đoạn 2020-2025 (Chương trình Nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ phục vụ đô thị thông minh và chuyển đổi số; Chương trình Nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ công nghiệp; Chương trình Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ; Chương trình Nghiên cứu phát triển, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; Chương trình Nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý và phát triển đô thị; Chương trình Vườn ươm khoa học và công nghệ Trẻ).
Một số kết quả nổi bật như: Chương trình Nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ phục vụ đô thị thông minh và chuyển đổi số đã xây dựng hoàn chỉnh Bộ hướng dẫn mô hình hóa thông tin công trình (BIM) áp dụng cho các hạng mục khác nhau trong các dự án đường sắt đô thị tại TP.HCM từ giai đoạn đầu lập dự án, nghiên cứu tiền khả thi, khả thi, thiết kế cơ sở đến khai thác, vận hành bảo dưỡng, giúp các bên tham gia tương tác hiệu quả, giảm sai sót và đẩy nhanh tiến độ xây dựng; chế tạo thành công Hệ thống đo lường nước thông minh, giúp làm chủ công nghệ chế tạo, giảm phụ thuộc vào thiết bị nhập khẩu, góp phần thực hiện chiến lược Smart City và công nghệ 4.0; thiết kế Mạng băng thông rộng cho thành phố thông minh, kết quả nhiệm vụ là tiền đề triển khai cơ sở hạ tầng cho đô thị thông minh và chuyển đổi số; xây dựng Hệ thống bản đồ cảnh báo rủi ro sử dụng cảm biến năng lượng thấp và dữ liệu viễn thám, giúp kiểm soát ô nhiễm không khí, nhiệt độ bề mặt và cung cấp thông tin nguy hiểm như dịch bệnh, biến đổi khí hậu,…
Chương trình Nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ công nghiệp đã hỗ trợ các ngành công nghiệp đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đặc biệt là nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực và nhóm sản phẩm tiềm năng của Thành phố, điển hình như các nghiên cứu: "Hoàn thiện công nghệ và chế tạo thiết bị tự động lắp - vặn đầu xoắn E27 cho bóng đèn Led", giúp doanh nghiệp nâng cao mức độ tự động hóa trong sản xuất bóng đèn LED, cho phép sản xuất nhiều chủng loại bóng đèn LED trên một máy duy nhất, giúp tiết kiệm không gian và diện tích, nâng cao tính nội địa hóa và sự chủ động trong công nghệ sản xuất; "Hoàn thiện công nghệ và sản xuất thử nghiệm hố ga nhựa đa dụng chống trào ngược, ngăn mùi và thu gom rác" tập trung vào việc cải thiện các sản phẩm hố ga nhằm nâng cao hiệu quả và thân thiện với môi trường, có tính năng chống trào ngược, ngăn mùi và thu gom rác, dễ dàng lắp đặt và sử dụng, với độ bền cao, cung cấp cho nhiều đối tượng khác nhau; "Nghiên cứu công nghệ và thiết kế, chế tạo khuôn Preform phôi nhựa PET 96 Cavity phục vụ cho sản xuất thổi chai nhựa PET19", đây là một bước đột phá trong việc làm chủ thiết kế và chế tạo khuôn Preform phôi nhựa PET, phục vụ cho ngành công nghiệp sản xuất chai nhựa PET, giúp sản xuất sản phẩm khuôn tại Việt Nam với chất lượng tốt và giá thành cạnh tranh so với hàng nhập khẩu;…
Về kết quả xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, báo cáo cho biết, trong giai đoạn 2020-2025, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST của Thành phố là nền tảng vững chắc hỗ trợ hoạt động ĐMST và ngày càng lớn mạnh, đang tiến gần đến Top 100 thành phố có hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST năng động nhất toàn cầu. Theo xếp hạng của Startupblink năm 2023, TP.HCM xếp hạng 111 trên thế giới. Thành phố có mặt trong Top 100 thành phố toàn cầu về bốn lĩnh vực: Fintech (thứ 54), Edtech (thứ 62), Thương mại điện tử & Bán lẻ (thứ 71) và Giao thông vận tải (thứ 87).
Ở góc độ đóng góp kinh tế và so sánh với khu vực, TP.HCM đang đứng thứ ba tại Đông Nam Á về giá trị hệ sinh thái khởi nghiệp, với tác động kinh tế lên đến 5,22 tỉ USD, sau Singapore và Jakarta. Thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hà Nội đứng đầu trong top 10 địa phương đạt chỉ số ĐMST cấp địa phương cao nhất cả nước. Điều này góp phần nâng tỉ trọng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) của 4 ngành công nghiệp trọng yếu và 9 ngành dịch vụ vào GRDP giai đoạn 2020-2025 ước đạt trên 50%.
Những kết quả ấn tượng của hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST Thành phố đạt được một phần là nhờ các đóng góp từ Đề án 672. Thời gian qua, Đề án đã tập trung phát triển hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ cho hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, hình thành mạng lưới các cơ sở ươm tạo thuộc khu vực Nhà nước (HIN) với 7 thành viên. Bên cạnh đó, Trung tâm Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Thành phố được thành lập (trong năm 2024) với diện tích hơn 17.000m2, cùng với mạng lưới 45 tổ chức ươm tạo, nâng tổng diện tích hỗ trợ lên hơn 34.000m2, đây là môi trường thuận lợi cho các startup phát triển.
Về nâng cao năng lực và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, Đề án 672 đã hỗ trợ nâng cao năng lực ĐMST cho 5.063 doanh nghiệp, đạt 168,8% so với chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025; hỗ trợ ươm tạo, phát triển 1.001 dự án khởi nghiệp ĐMST, đạt 100,1% chỉ tiêu giai đoạn; hỗ trợ 276 doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST tiếp cận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm (vượt 276% chỉ tiêu đề ra). Về nội dung hỗ trợ phát triển sản phẩm và thị trường, Đề án đã tổ chức xét duyệt 133 dự án đăng ký hỗ trợ ở các giai đoạn tiền ươm tạo, ươm tạo và tăng tốc; triển khai thực hiện các nội dung về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST trên địa bàn Thành phố, trung bình hàng năm tuyển chọn và ươm tạo cho hơn 300 dự án, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại các đơn vị công lập.
Tiếp tục thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và ĐMST
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, kết quả ấn tượng, hoạt động khoa công nghệ và đổi mới sáng tạo tại TP.HCM vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Đại diện Sở KH&CN TP.HCM cho rằng, một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc xoay quanh các vấn đề như cơ chế, chính sách tự chủ về tài chính, tổ chức bộ máy, nhân lực đối với tổ chức KH&CN công lập còn bất cập, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN&ĐMST, gây khó khăn cho công tác quản lý, chưa tạo được động lực thúc đẩy các tổ chức KH&CN phát triển. Các tổ chức KH&CN chưa phát huy tối đa hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất được đầu tư, chưa xây dựng các chương trình nghiên cứu trung và dài hạn làm định hướng phát triển. Bên cạnh đó, mối liên kết trong hoạt động KH&CN giữa trường, viện và doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ và bền vững; đầu tư của xã hội cho KH&CN chưa tương xứng với tiềm năng;…
Hội thảo ghi nhận nhiều ý kiến đề xuất, trao đổi thảo luận của các đại biểu đến từ các sở ban ngành, quận huyện, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, cơ sở ươm tạo, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp,... trên địa bàn Thành phố
Đối với hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, số lượng và chất lượng các startup chưa cao; năng lực của các tổ chức trung gian hỗ trợ doanh nghiệp trong nước còn thấp, trong khi các trường đại học và tổ chức nghiên cứu công lập chưa thực sự hiệu quả trong việc chuyển giao công nghệ và hợp tác với ngành công nghiệp. Ngoài ra, các mô hình không gian hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo hiện nay còn thiếu cơ chế tài chính linh hoạt và chính sách đặc thù đột phá. Điều này hạn chế khả năng thu hút các tổ chức mạnh về khởi nghiệp ĐMST trong nước và quốc tế tham gia và cam kết đồng hành. Các chính sách hỗ trợ hiện hành chưa thật sự phát huy hiệu quả, nguyên nhân chính là do thiếu những cơ chế, chính sách mang tính đột phá đối với mô hình, cơ cấu tổ chức và hoạt động ĐMST của các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo do Nhà nước quản lý.
Do vậy, trong giai đoạn tiếp theo, TP.HCM tiếp tục tăng cường các giải pháp thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và ĐMST, đặt mục tiêu đến năm 2030, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng văn hóa, công nghiệp hiện đại. Một số chỉ tiêu cụ thể như, tỉ trọng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào GRDP hàng năm từ 45%-50%; ít nhất 5 tổ chức KH&CN tiệm cận, đạt chuẩn quốc tế; hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST của Thành phố thuộc nhóm 5 hệ sinh thái dẫn đầu cả nước; số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp KH&CN và số doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST tăng hai lần so với năm 2020, tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động ĐMST đạt 40%;…
Để thực hiện, trong giai đoạn 2026 – 2030, Thành phố triển khai một số nhiệm vụ chủ yếu như: tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển KH&CN và ĐMST; tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu, ứng dụng KH&CN và ĐMST; tập trung phát triển một số tổ chức KH&CN đạt trình độ khu vực và thế giới; phát triển mạnh thị trường KH&CN, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh; thúc đẩy đào tạo và phát huy nguồn nhân lực KH&CN phục vụ phát triển Thành phố; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST theo hướng phát triển toàn diện, phát huy tối đa vai trò, chức năng của các thành tố để Thành phố trở thành trung tâm khởi nghiệp ĐMST quốc gia; tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển mô hình đại học khởi nghiệp và nâng cao hiệu quả quản lý sở hữu trí tuệ;…
Các ý kiến trao đổi, thảo luận tại hội thảo đánh giá cao những kết quả đạt được của ngành KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST Thành phố. Đồng thời góp ý, đề xuất một số giải pháp cho giai đoạn tiếp theo trong việc triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, các startup, dự án khởi nghiệp của sinh viên; đẩy mạnh truyền thông hoạt động của Trung tâm Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Thành phố và nền tảng H.OIP (nền tảng trực tuyến thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo TP.HCM); kết nối các vườn ươm, cơ sở ươm tạo hỗ trợ các dự án khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp; kết nối các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ ươm tạo ở các trường đại học; hướng dẫn chi tiết để doanh nghiệp, startup có thể tiếp cận các chính sách ưu đãi theo nội dung Nghị quyết số 98/2023/QH15 về cơ chế đặc thù cho TP.HCM,…
Lam Vân (CESTI)
Sáng ngày 05/11/2024, tại trường Trung học cơ sở Nguyễn Chí Thanh, Quận 12 đã diễn ra cuộc thi “Tài năng công nghệ nhí Kul-Robo” cho học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở trên địa bàn Quận 12 năm học 2024 - 2025.
“Tài năng công nghệ nhí Kul-Robo” là cuộc thi do Ủy ban nhân dân Quận 12 phối hợp với Công ty TNHH KIDKUL tổ chức đã thu hút 117 thí sinh là các học sinh tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn Quận 12. Tham dự cuộc thi, về phía Sở Khoa học và Công nghệ có ông Nguyễn Đức Tuấn - Giám đốc Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ, ông Phan Quốc Thắng - Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo. Về phía Ủy ban nhân dân Quận 12 có bà Võ Thị Mộng Thu - Trưởng phòng Kinh tế, bà Nguyễn Vĩnh Bảo Châu - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo. Về phía đơn vị tổ chức có ông Nguyễn Ngọc Phương - Tổng Giám đốc Công ty TNHH KIDKUL, ông Cù Minh Trung - Giám đốc phát triển hệ thống trường học Công ty KIDKUL, bà Phạm Thị Ngọc Ánh - Giám đốc Đào tạo Công ty TNHH KIDKUL cùng quý thầy cô đại diện cho các trường.
Cuộc thi đã thu hút được đông đảo học sinh các trường Tiểu học và Trung học cơ sở trên địa bàn Quận 12 dự thi và theo dõi cổ động
Phát biểu khai mạc cuộc thi, bà Võ Thị Mộng Thu cho biết, cuộc thi nhằm giúp các em học sinh trau dồi nâng cao kiến thức, phát huy khả năng sáng tạo, tư duy logic, giúp các em tiếp cận và làm quen với công nghệ hiện đại, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ tự động hóa, trí tuệ nhân tạo. Cuộc thi này là minh chứng cho tinh thần tiên phong, đổi mới của các bạn trẻ. Mỗi chiếc xe trên đường đua đều thể hiện sự nỗ lực, tài năng và quyết tâm vượt qua thử thách của các em. Đồng thời, tạo sân chơi khoa học bổ ích, lý thú, khơi dậy niềm đam mê khoa học, công nghệ và thúc đẩy khả năng sáng tạo cho các em.
“Hôm nay, tôi rất phấn khởi khi nhận được sự quan tâm tham dự của Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo; sự tham gia hưởng ứng của quý thầy cô, các em học sinh của 39 trường Tiểu học, Trung học cơ sở Quận 12 dành cho cuộc thi Tài năng công nghệ nhí Kul-Robo Quận 12 năm học 2024-2025. Cuộc thi này không đơn thuần là một cuộc đua về tốc độ, mà còn là sự kết hợp giữa trí tuệ, sự sáng tạo và những ứng dụng về khoa học công nghệ. Đây là sân chơi để các bạn trẻ, những nhà khoa học tương lai, có cơ hội thử thách bản thân, áp dụng kiến thức khoa học kỹ thuật vào thực tế và thúc đẩy khả năng sáng tạo của mình”, bà Võ Thị Mộng Thu chia sẻ.
Bà Võ Thị Mộng Thu - Trưởng phòng Kinh tế Quận 12, phát biểu khai mạc cuộc thi
Tại hội thi, 24 đội thi cấp Tiểu học và 15 đội thi cấp THCS đã tham gia tranh tài điều khiển xe đua vượt sa bàn để giành quyền tham dự vòng chung kết. Rất nhiều phụ huynh đã có mặt tại cuộc thi để cổ động và theo dõi toàn bộ quá trình dự thi của học sinh.
Kết quả, ở bảng Tiểu học, Tiểu học Kim Đồng xuất sắc giành ngôi Vô địch. Hai giải Nhì thuộc về Tiểu học Phạm Văn Chiêu và Tiểu học Hà Huy Giáp. Ở bảng Trung học cơ sở, THCS Nguyễn Ảnh Thủ xuất sắc giành ngôi Vô địch. Hai giải Nhì thuộc về THCS Nguyễn Hiền và THCS Nguyễn Vĩnh Nghiệp.
Cũng tại cuộc thi, các đội đã trổ tài trang trí chiếc xe đua theo nhiều phong cách khác nhau, in đậm sức sáng tạo hồn nhiên của lứa tuổi học sinh. Ban tổ chức đã trao tổng cộng 10 giải Sáng tạo dành cho các đội thi ở cả 2 bảng.
Ông Nguyễn Đức Tuấn - Giám đốc Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ, trao giải Sáng tạo cho các đội khối Tiểu học
Bà Võ Thị Mộng Thu - Trưởng phòng Kinh tế Quận 12, trao giải Vô địch cho trường THCS Nguyễn Ảnh Thủ
Bà Nguyễn Vĩnh Bảo Châu - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Quận 12, trao giải Vô địch cho trường Tiểu học Kim Đồng
Đại diện Ban tổ chức, khách mời, thầy cô giáo và các đội thi đoạt giải cùng chụp ảnh lưu niệm
Một số hình ảnh ghi nhận tại cuộc thi:
Ban Giám khảo và khách mời cùng tham gia chấm giải Sáng tạo
Các bạn học sinh tham gia trải nghiệm các trò chơi
Nhiều em nhỏ cũng được phụ huynh dành thời gian cho đi tham gia cổ động cho anh chị của mình và cùng trải nghiệm các trò chơi lý thú
Các đội hào hứng bắt đầu phần thi vượt sa bàn
Căng thẳng điều khiển xe vượt cầu cạn
Với sự khéo léo, tập trung cao độ… các bạn nữ cũng tỏ ra không kém cạnh các bạn nam
Thầy cô giáo và phụ huynh tập trung theo dõi và cổ động cho các đội thi
Cảm xúc vỡ òa khi đội nhà giành chiến thắng
Nhật Linh (CESTI)
Chương trình hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 – 2030 do các phòng chức năng và đơn vị trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ thực hiện. Đây là hoạt động nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Ngày 13/9/2024, Ủy ban Nhân dân TP.HCM ban hành Quyết định số 3797/QĐ-UBND về Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 – 2030, thông qua việc cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp cho các sở, ban, ngành Thành phố, đồng thời nghiên cứu vận dụng các nội dung Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM trong quá trình triển khai thực hiện.
Theo đó, toàn Thành phố có 14 nhóm nhiệm vụ cần thực hiện: tài chính xanh; nhân lực chất lượng cao; kết nối xanh; năng lượng xanh; nước sạch và tuần hoàn nước; tuần hoàn vật liệu; tiêu dùng xanh; giao thông xanh; tòa nhà xanh và tiết kiệm năng lượng; công nghiệp xanh; khởi nghiệp, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo xanh; du lịch xanh; mảng xanh đô thị và nông nghiệp xanh; hệ sinh thái Cần Giờ xanh.
Trên cơ sở này, Sở Khoa học và Công nghệ ban hành Kế hoạch số 4398/SKHCN-QLKH nhằm triển khai thực hiện Quyết định số 3797/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân Thành phố, như chủ động nghiên cứu nội dung các nhóm nhiệm vụ tại Phụ lục hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 - 2030 của Kế hoạch để triến khai và tổ chức các hoạt động truyền thông; Triển khai thực hiện các nội dung thuộc nhóm nhiệm vụ XI, XII, XIII và XIV tại Phụ lục hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 - 2030 do Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì.
Cụ thể, ở nhóm nhiệm vụ khởi nghiệp, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo xanh, yêu cầu phát triển và triển khai các chương trình ươm tạo, tăng tốc, hỗ trợ, tập huấn, thử nghiệm sản phẩm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo xanh, từ đó hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo xanh cho Thành phố.
Với nhóm nhiệm vụ du lịch xanh, Sở Khoa học và Công nghệ khuyến khích triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ liên quan đến đổi mới sáng tạo trong việc thay thế nhựa một lần bằng các nguyên liệu có nguồn gốc sinh học, thân thiện với môi trường.
Với nhóm nhiệm vụ mảng xanh đô thị và nông nghiệp xanh, triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ liên quan đến mô hình, giải pháp xanh cho một số lĩnh vực. Còn với hệ sinh thái Cần Giờ xanh là nhóm nhiệm vụ cần có sự phối hợp thực hiện từ nhiều sở, ngành, trong đó, Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện đề án làng xanh tại Cần Giờ.
(Chi tiết đính kèm Quyết định số 3797/QĐ-UBND ngày 13/92024, Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 – 2030, Phụ lục Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2024 – 2030).
Minh Nhã (CESTI)