Sáng 11-5, TP.HCM lần đầu tiên công bố kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, địa phương - DDCI 2022.
Những kết quả bất ngờ từ DDCI TP.HCM
Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, địa phương - DDCI là một chỉ số tổng hợp sử dụng để đánh giá các khía cạnh khác nhau về năng lực điều hành kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của các sở, ngành, địa phương.
Bộ chỉ số DDCI được xây dựng dựa trên cơ sở bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), hiện đã có nhiều tỉnh khảo sát.
Kết quả khảo sát lần đầu tiên được thực hiện tại TP.HCM đã cho ra kết quả bất ngờ khi nhiều sở, ngành, địa phương bị đánh giá thấp trên nhiều chỉ số thành phần.
Cụ thể kết quả DDCI như sau:
Đối với khối sở, ban, ngành, Sở Khoa học và Công nghệ dẫn đầu bảng xếp hạng, trong khi đó Sở Lao động, Thương binh và Xã hội xếp chót bảng
Trong số các chỉ số thành phần, chi phí không chính thức tại Sở Khoa học và Công nghệ được đánh giá đứng đầu, trong khi Sở Y tế đứng cuối bảng
Đối với khối địa phương, quận Phú Nhuận đứng ở vị trí "quán quân", trong khi TP Thủ Đức đứng chót bảng
Đối với chi phí không chính thức, quận 3 dẫn đầu trong khi huyện Bình Chánh đứng vị trí cuối bảng
Đối với vai trò người đứng đầu, quận Tân Phú được đánh giá đứng đầu
TP.HCM sẽ cải thiện PCI
Tại lễ công bố, TP cũng đã triển khai các giải pháp để cải thiện, nâng cao các chỉ số Par Index, PAPI và PCI.
Ông Huỳnh Thanh Nhân - giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM - cho biết để cải thiện chỉ số PAPI, TP sẽ triển khai hàng loạt giải pháp, trong đó nâng cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu, nâng cao trách nhiệm giải trình với người dân...
Trong khi đó, ông Đào Minh Chánh - phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM - cho biết TP sẽ cải thiện, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI. Trong đó, TP sẽ chấn chỉnh những tồn tại, cải thiện môi trường đầu tư, đẩy nhanh chuyển đổi số, tăng thực hiện dịch vụ công trực tuyến...
Theo Báo Tuổi trẻ
Vật liệu bê tông hàm lượng tro bay cao do Phân viện Vật liệu Xây dựng miền Nam chế tạo, có thể sử dụng cho kết cấu trong công trình xây dựng, nhằm giảm lượng sản xuất xi măng gây ô nhiễm môi trường, đồng thời tận dụng được nguồn tro - xỉ từ các nhà máy nhiệt điện.
Bê tông là một trong những vật liệu xây dựng bền vững nhất về mặt sản xuất và bảo trì so với các vật liệu xây dựng khác. Tuy nhiên, thành phần chính trong bê tông là xi măng (chiếm 5-20% khối lượng bê tông), lại chiếm hơn 74-81% lượng phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính (GHG). Vì thế, để giảm mức tiêu thụ xi măng, có thể thay bằng tro bay trong việc sản xuất bê tông.
Bê tông hàm lượng tro bay cao được sản xuất thử nghiệm
Tro bay thường được đề xuất thay thế xi măng đến 35% tổng khối lượng xi măng Portland theo ACI 211, ACI 232. Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể ở thời gian dài, các nhà nghiên cứu cho rằng việc thay thế xi măng bằng tro bay có thể lên đến 50% hoặc lớn hơn, bê tông thậm chí còn có một số tính chất vượt trội và gọi bê tông chứa hơn 50% hàm lượng tro bay theo khối lượng thay thế xi măng Portland được coi là bê tông hàm lượng tro bay (High Volume Fly Ash Concrete - HVFC).
Trong khi đó, tại Việt Nam hiện nay hơn 25 triệu tấn tro, xỉ được thải ra mỗi năm chủ yếu từ các nhà máy điện trên cả nước. Dự báo nếu lượng tro xỉ không được tái chế sử dụng, đến năm 2030 ước tính tồn trữ lên đến 422 triệu tấn. Hầu hết lượng tro, xỉ này được vận chuyển ra ngoài bãi thải, nếu không được sử dụng về lâu dài sẽ tác động xấu đến môi trường, chiếm diện tích đất để tồn chứa ngày càng lớn, đồng thời lãng phí nguồn tài nguyên.
Chính vì vậy nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu chế tạo bê tông hàm lượng tro bay cao dùng cho các kết cấu công trình xây dựng" đã được nhóm tác giả Phân viện Vật liệu xây dựng miền Nam (Viện Vật liệu xây dựng - Bộ Xây dựng) thực hiện, nhằm giảm phát thải GHG của xi măng và giảm ô nhiễm do để bay tro lưu trữ trong đất và nước.
Ngoài ra, nhiệm vụ cũng hướng đến mục tiêu sử dụng hàm lượng tro bay thay thế đến 80 % xi măng Portland để chế tạo bê tông sử dụng cho mục đích kết cấu trong công trình xây dựng, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và hạn chế ô nhiễm môi trường; và quan trọng hơn hết là làm chủ công nghệ chế tạo bê tông hàm lượng tro bay cao sử dụng cho kết cấu trong công trình xây dựng.
Lê Văn Quang, chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết, HVFC khác hoàn toàn với bê tông hệ geopolymer, có thể thay thế tro bay 100%.HVFC không yêu cầu bảo dưỡng nhiệt, không đòi hỏi sử dụng kiềm cao, đó là một ưu điểm so với bê tông geopolymer trong ngành xây dựng. Tuy nhiên HVFC có nhược điểm lớn đó là phát triển cường độ chậm, đặc biệt ở tuổi sớm, làm hạn chế tính ứng dụng của loại bê tông này. Điều này khiến HVFC làm giảm tiến độ thi công, khai thác công trình, khó sử dụng trong thời tiết lạnh,....
Cũng theo lời TS. Lê Văn Quang, nếu sử dụng bê tông HVFC cho mục đích kết cấu buộc phải cải thiện cường độ tuổi sớm. Một số các phương pháp được cho là có hiệu quả cao như sử dụng tỷ lệ nước/chất kết dính thấp, bổ sung thêm vôi Ca(OH)2, bổ sung silica fume, sử dụng hóa chất tăng tốc, hay kích hoạt tro bay trước khi nhào trộn bê tông.
“Vì vậy, ngoài mục đích sử dụng hàm lượng tro bay cao thay thế xi măng Portland đến 80% để chế tạo bê tông cho mục đích kết cấu, chúng tôi còn nghiên cứu để thúc đẩy sự phát triển cường độ sớm cho loại bê tông này, ngoài những biện pháp truyền thống sử dụng xi măng OPC có hàm lượng C3A cao, hạ thấp tỷ lệ nước/bột”, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ nhấn mạnh.
Mẫu bê tông cốt thép (sử dụng vật liệu HVFC)
Theo đó, để chế tạo bê tông HVFC, TS. Lê Văn Quang và các cộng sự sử dụng nguyên vật liệu là xi măng OPC40 Nghi Sơn, tro bay của nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1, cốt liệu nhỏ (cát sông, cát nghiền), cốt liệu lớn (đá dăm), nước, vôi bột hydrat Ca(OH)2. Ngoài ra, nhóm còn sử dụng các phụ gia siêu dẻo, Silica fume và hỗn hợp hóa chất tăng tốc, đông kết sớm và tăng cường độ sớm cho bê tông HVFC là sodium thiocyanate (NaSCN), diethanolamine (DEA) and glycerol (Gly).
Lê Văn Quang, chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết thêm rằng, vì hàm lượng xi măng Portland sử dụng trong bê tông HVFC rất ít, nên sẽ thiếu lượng vôi Ca(OH)2 (sản phẩm thủy hóa của xi măng) để tham gia vào phản ứng puzolanic với tro bay cũng như đảm bảo tính kiềm để bảo vệ cốt thép. Vì vậy, để chế tạo bê tông HVFC đáp ứng các mục tiêu đã đề ra, nhóm đã nghiên cứu bổ sung lượng vôi Ca(OH)2 hợp lý vào trong bê tông . Đồng thời, sử dụng phụ gia tăng tốc đóng rắn nhanh silica fume, phụ gia tăng tốc 3 thành phần.
Quy trình sản xuất bê tông hàm lượng tro bay
Kết quả, nhóm các nhà khoa học tại Phân viện vật liệu xây dựng miền Nam đã nghiên cứu chế tạo được bê tông HVFC, với tỷ lệ thay thế xi măng lên tới 80% tro bay, đáp ứng được các tính chất cơ học như cường độ nén, uốn, nén chẻ, mô-đun đàn hồi và độ co ngót khô.
Trong đó, cường độ nén của bê tông HVFC có xu hướng tăng dần theo thời gian, ở 28 ngày đạt giá trị 59,47-70,13 MPa; ở tuổi 180 ngày đạt 73,51-80,12 MPa.
Kết quả cho thấy bê tông HVFC hoàn toàn có thể ứng dụng vào thực tế nhờ vào việc đã cải thiện được cường độ ở tuổi sớm và vẫn tiếp tục phát triển cường độ mạnh mẽ ở những tuổi muộn, vượt rất nhiều so với yêu cầu mục tiêu 40 MPa đề ra ở 28 ngày.
Bê tông sử dụng tro bay thay thế xi măng trong sản xuất có các ưu điểm như: Các cấp phối tối ưu đã được lựa chọn phù hợp với yêu cầu cường độ nén ≥ 40 MPa, độ bền cao, các tính chất khác đều vượt trội hơn so với bê tông đối chứng, đặc biệt về các tính chất độ bền lâu. |
Thí nghiệm xác định thời gian đông kết của hỗn hợp bê tông
Thử nghiệm khả năng bảo vệ ăn mòn cốt thép của bê tông HVFC cho kết quả vượt trội hơn với bê tông thường, khi độ pH đạt khoảng 11,61 đến 11,82 cao, hơn mẫu đối chứng (pH 10,66) ở tuổi 180 ngày. Hàm lượng ion hòa tan trong axít của bê tông HVFC đều có giá trị thấp khoảng từ 0,020-0,025 % và nằm trong giới hạn cho phép về ngưỡng ăn mòn theo các tiêu chuẩn thế giới hiện hành.
Kết quả về điện thế ăn mòn đo được theo phương pháp gia tốc chu kỳ khô + nhiệt - ẩm đều cho giá trị thấp < -350 mV, nằm dưới ngưỡng xác suất 90% cốt thép có thể bị ăn mòn.
Mẫu bê tông hàm lượng tro bay cao và thiết bị thí nghiệm khả năng Carbonat hóa (hai hình hàng trên); Các mẫu thí nghiệm quá trình Carbonat hóa (ba hình hàng dưới)
Thí nghiệm xác định mô-đun đàn hồi của bê tông HVFC
Nhóm nghiên cứu cũng đã ứng dụng bê tông HVFC tỷ lệ 80% tro bay thay thế xi măng vào sản xuất cọc vuông bê tông cốt thép. Quy trình sản xuất cọc vuông bê tông đúc sẵn được thực hiện qua 5 bước bao gồm: Chuẩn bị vật liệu - Thi công cốt thép - Thi công ván khuôn - Thi công bê tông - Bảo dưỡng. Cọc 350x350 mm, dài 10m, có thép chủ gồm 4 cáp tao sợi loại 7 tao, đường kính 12,7mm; thép đai đường kính 6mm. Cường độ chịu tải theo thiết kế đạt Pmax= 200T; lớp bê tông bảo vệ dày ít nhất 35mm.
Chế tạo bê tông cốt thép HVFC dạng cọc/trụ vuông
Kết quả thử nghiệm cho thấy, cọc bê tông HVFC và cọc bê tông mẫu đối chứng đều có chất lượng tốt, được thể hiện qua giá trị mô men uốn nứt và mô men uốn gãy vượt qua yêu cầu kỹ thuật theo tiêu chuẩn MS 1314.
Cụ thể ở mô men uốn nứt 35 kN.m, cả hai loại cọc bê tông thử nghiệm không xuất hiện vết nứt nào (trong khi yêu cầu của tiêu chuẩn cho phép vết nứt có độ rộng lớn nhất ≤ 0,2 mm và không quy định về số lượng vết nứt). Mô men uốn gãy của cọc tại (70 kN.m) cả hai loại cọc đều không bị phá hủy, không bị gãy cọc.
Hình ảnh thí nghiệm uốn gãy và uốn nứt cọc
Phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế kỹ thuật, nhóm chuyên gia Phân viện Vật liệu xây dựng miền Nam khẳng định, bê tông HVFC có giá thành tương đương với bê tông thương phẩm thông thường nên về cơ bản có thể có tính khả thi cao.
Hơn nữa việc sử dụng lên đến 80% tro bay thay thế xi măng có thể giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường đối với chất thải tro xỉ nhiệt điện, tiết kiệm tài nguyên, cũng như giảm phát thải khí nhà kính. Không những thế, hoàn toàn có thể sử dụng các dây chuyền, thiết bị sản xuất bê tông chất lượng cao để sản xuất bê tông HVFC, do công nghệ trộn hỗn hợp bê tông hoàn toàn tương tự.
Thông tin liên hệ: Điện thoại: 028.37305015 Website: svibm.vibm.vn |
Quy trình sản xuất vật liệu kháng khuẩn dạng màng ứng dụng chế tạo băng gạc ở quy mô pilot do PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp và nhóm cộng sự tại Đại học Quốc tế (ĐHQG TP.HCM) hoàn thiện, đã sẵn sàng chuyển giao cho các đơn vị có nhu cầu sản xuất băng gạc y tế với khả năng kháng khuẩn, hỗ trợ lành nhanh vết thương.
Da là cơ quan có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi sự tác động, sự ảnh hưởng không có lợi từ môi trường bên ngoài. Thông thường, khi da bị thương, vết thương sẽ tự lành theo cơ chế tự nhiên của cơ thể. Tuy nhiên, vùng da bị thương tổn dù nhẹ nhưng vẫn có nguy cơ lâu hồi phục, hoặc nhiễm trùng nếu vết thương không được điều trị và bảo vệ đúng cách. Quá trình lành thương da là một quá trình động và vô cùng phức tạp, đòi hỏi một môi trường thích hợp để đẩy nhanh tiến trình lành thương. Ngày nay, với sự phát triển khoa học - công nghệ, đã có hơn 3.000 sản phẩm đã được phát triển để điều trị các vết thương da khác nhau dựa trên loại tổn thương khác nhau và phụ thuộc giai đoạn lành thương khác nhau.
Tùy vào tình trang tổn thương da, người dùng (bác sĩ chỉ định hay bệnh nhân) sẽ chọn ra loại băng gạc phù hợp. Băng gạc thường được chế tạo từ nhiều vật liệu tự nhiên hoặc tổng hợp và có tính phân hủy sinh học hoặc không. Liên kết giữa các sợi trong băng gạc này có thể được dệt hoặc không dệt dưới dạng miếng dán, bọt xốp hoặc keo nước có sức bền cấu trúc tốt để giữ hình thái vật lý.
Nhiều băng gạc có cấu tạo đa lớp, mỗi lớp có tính chất khác nhau, ví dụ như một băng gạc bốn lớp gồm lớp dệt, lớp bọt xốp, lớp tạo nước và lớp dính hỗ trợ. Loại vật liệu dùng làm băng gạc rất đa dạng bao gồm polyester, poly(vinyl alcohol), alginate, collagen, poly(ethylene glycol) và poly(lactic-coglycolic acid). Thông thường những băng gạc này có chứa chất hỗ trợ kháng vi sinh vật như Ag, bitmut, chlorhexidine, polyhexamethylene biguanide...
Việc chọn lựa băng gạc thường được các cơ sở y tế cũng như đội ngũ y bác sỹ chú trọng theo các tiêu chí như: (1) cung cấp môi trường ẩm, (2) làm tăng quá trình hình thành lớp thượng bì, (3) giúp tăng sinh mạch máu và mô liên kết, (4) thoáng khí, (5) ổn định nhiệt, (6) chống khuẩn, (7) dễ tháo gỡ và (8) không độc hại.
Hiện nay, băng gạc được phân thành 5 loại chính: (1) dạng màng bán thấm, (2) dạng bọt bán thấm, (3) dạng hydrogel, (4) dạng hydrocolloid và (5) dạng alginate, các dạng này có tải Ag hay không tải Ag. Trong đó băng gạc chứa "Ag kháng khuẩn" là sản phẩm được quan tâm trên thị trường Việt Nam lẫn thế giới.
Tuy nhiên, các loại băng gạc hỗ trợ tích cực quá trình lành thương và kháng vi sinh vật vẫn chưa được phổ biến trong sản xuất công nghiệp ở Việt Nam và hầu hết được nhập khẩu. Hiện tại, các loại băng gạc sản xuất trong nước chủ yếu vẫn sử dụng kỹ thuật sợi không dệt và hạn chế trong việc kết hợp với các hoạt chất.
"Bởi vì không có các hoạt chất kháng khuẩn và các thành phần giúp hỗ trợ lành thương, nên các loại băng gạc thông thường chỉ được sử dụng với mục đích chính là cách ly vật lý vết thương và môi trường bên ngoài. Những sản phẩm này kém hiệu quả trong việc phòng chống với các tác nhân gây bệnh bên ngoài như vi khuẩn hoặc nấm", PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp cho biết, "Tuy nhiên, bằng cách sử dụng phương pháp tạo sợi nano từ kỹ thuật electrospinning, sản phẩm băng gạc có thể được kết hợp với nhiều hoạt chất khác để tăng khả năng sinh học hỗ trợ lành thương".
Sẵn sàng triển khai ở quy mô công nghiệp
PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ " Nghiên cứu quy trình sản xuất vật liệu kháng khuẩn dạng màng ứng dụng chế tạo băng gạc ở quy mô pilot " cho biết, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Quốc tế (ĐHQG TP.HCM) đã tiến hành khảo sát quy trình sản xuất băng gạc kháng khuẩn từ polycaprolactone (PCL), nano bạc (Ag) kết hợp oligomer chitosan (Cs).
Thành phẩm băng gạc kháng chuẩn được sản xuất thử nghiệm theo quy trình do nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Quốc tế (ĐHQG TP.HCM) đề xuất
Cụ thể, nhóm triển khai nhiệm vụ đã chế tạo dung dịch PCL chứa nano Ag để tạo màng PCL tải nano Ag, chế tạo màng phun Oligomer Chitosan. Từ những nguồn nguyên liệu này, nhóm chế tạo sản phẩm băng gạc từ màng PCL-Ag-Cs, gồm 2 lớp: màng PCL chứa các hạt nano Ag (được tổng hợp bằng phương pháp electrospinning), lớp phủ hỗn hợp gồm oligomer chitosan (Cs) và polyvinylpyrrolidone (PVP).
"Kết quả khảo sát các tính chất màng PCL-Ag-Cs chế tạo quy mô pilot cho kết quả tương đồng với các màng chế tạo ở quy mô phòng thí nghiệm", PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp khẳng định.
Sơ đồ khối quy trình tạo màng PCL-Ag-Cs quy mô pilot
Trong các loại vật liệu đã được sử dụng chế tạo màng thì PCL được chú trọng nhờ vào tính chất cơ lý tốt, tính tương hợp sinh học cao và màng PCL làm từ phương pháp electrospinning rất khó biến dạng trong điều kiện nhiệt độ cơ thể và nhiệt độ phòng. Công nghệ màng electrospinning là công nghệ đơn giản nhưng có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cao vì khả năng tạo màng mỏng dẫn đến tiết kiệm nhiên liệu trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, công nghệ này đang dần được ưa chuộng trong ngành y học do tính đa năng (có khả năng ứng dụng cho mọi loại vật liệu). Ngoài việc có khả năng tạo ra màng có tính chất giống băng gạc truyền thống, băng gạc làm từ phương pháp electrospinning còn có nhiều ưu điểm, như thoáng khí, dễ tổng hợp và đặc biệt hơn là rất dễ thêm các chất khác nhằm tăng kháng khuẩn như Ag, gentamicin, hay hỗ trợ lành thương như protein, các hoạt chất tăng sinh tế bào.
Công nghệ electrospinning là công nghệ sử dụng máy electrospinner, trong đó cấu tạo máy bao gồm: bộ nguồn cao áp một chiều; hệ thống khối thu sợi; và hệ thống bơm tiêm điện chứa polymer. Electrospinning có thể tạo ra các sợi nano nhờ việc ứng dụng tính chất của điện trường cao. Khi một điện áp đủ cao được đặt vào một giọt chất lỏng, thì phần chất lỏng sẽ tích điện, và lực đẩy tĩnh điện chống lại sức căng bề mặt, từ đó giọt chất lỏng bị kéo căng tạo thành tia phun đến khối thu màng (collector). Điểm phun này được gọi là hình nón Taylor (Taylor cone). Nhìn chung, electrospinning là một bộ điện trường điều khiển các tia phun polymer đến khối thu màng tạo thành sản phẩm định dạng thành màng không dệt. Các sản phẩm electrospinning thu được có cấu trúc vi mô là vô số các sợi polymer đan xen, những sợi này có đường kính từ vài trăm nano đến vài micro mét.
Mô hình mô tả thiết bị electrospiner công nghiệp
Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, phương pháp electrospinning cũng đã có những đóng góp to lớn cho hướng nghiên cứu y sinh trong việc chế tạo các thiết bị y tế, y sinh và chăm sóc sức khỏe. Rất nhiều nhà khoa học trên thế giới đã và đang vận dụng phương pháp này trong các nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp mới cho điều trị trong y học.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, nhờ được bổ sung lớp phủ oligomer chitosan nên sản phẩm băng gạc từ màng PCL-Ag-Cs không chỉ có công dụng kháng khuẩn, mà còn có tác dụng giữ vết thương thông thoáng và hút dịch dư của vết thương, giúp quá trình làm lành vết thương đạt hiệu quả tốt hơn.
Thử nghiệm trên thỏ, sau 30 ngày, vết thương đắp băng gạc PCL-Ag-Cs cho kết quả lành thương tốt hơn đắp gạc cotton. Ngoài ra, sản phẩm cũng có thể dùng cho vết thương bỏng.
PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp cũng thông tin thêm rằng, băng gạc 2 lớp được sản xuất ở quy mô công nghiệp bao gồm: (1) màng polycaprolactone (PCL) chứa các hạt nano bạc được tổng hợp bằng phương pháp chiếu xạ gamma được tạo thành bằng phương pháp electrospinnning và (2) lớp phủ hỗn hợp oligomer chitosan (Cs) và polyvinylpyrrolidone (PVP).
Thành phần kháng khuẩn của băng gạc là nano bạc và Cs. Lớp phủ có tác dụng giữ vết thương thông thoáng và hút dịch dư của vết thương giúp cho quá trình lành thương đạt hiệu quả hơn.
"Sau khi hoàn thiện quy trình tạo màng kháng khuẩn trên quy mô công nghiệp, nhóm đã tiến hành sản xuất thử nghiệm băng gạc kháng khuẩn nhằm đảm bảo chất lượng, số lượng và ghi nhận ở mức cơ bản các chi phí cần thiết để sản xuất", PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp cho biết, "Hơn thế nữa, thành công của nhiệm vụ tạo ra quy mô pilot, để từ đó có thể dùng chế tạo nhiều loại băng gạc khác nhau".
Được biết, các lô (sản phẩm) băng gạc được sản xuất thử nghiệm từ quy trình nói trên cũng đã được các cơ quan chức năng, cơ quan hữu quan ngành y đánh giá, xác nhận là đạt các tiêu chuẩn về khả năng kháng khuẩn theo quy định trong nước và quốc tế.
Các thành viên Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức đã có buổi tham quan, trực tiếp ghi nhận quy trình và máy móc sản xuất thử nghiệm sản phẩm băng gạc kháng khuẩn
Nhận định về tiềm năng cho quy trình sản xuất băng gạc kháng khuẩn ở quy mô pilot vừa hoàn thiện, PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp cho biết, băng gạc kháng chuẩn được sản xuất trong nước trước tiên mang đến cơ hội sử dụng các sản phẩm y tế chất lượng cao ở mức giá thành hợp lý cho mọi người dân, và sau nữa tạo cơ hội để các nhà sản xuất, các đơn vị chế tạo cùng cộng tác, cùng tham gia vào việc sản xuất ra các thiết bị của quy trình sản xuất loại băng gạc này, chẳng hạn như thiết bị cho công đoạn phủ và công đoạn sấy.
Hay nói cách khác, cũng theo lời PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, thành công của nhiệm vụ khoa học - công nghệ mà nhóm các nhà khoa học Trường Đại học Quốc tế (ĐHQG TP.HCM) đã hoàn thành một lần nữa khẳng định trình độ, năng lực của ngành y sinh Việt Nam trong công tác nghiên cứu, phát triển các giải pháp, sản phẩm y tế đạt tiêu chuẩn, phục vụ tối đa nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân.
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TP.HCM) Địa chỉ:Khu phố 6, phường Linh Trung, TP. Thủ Đức, TP.HCM Email: nthiep@hcmiu.edu.vn Điện thoại: 0983888700 |
Quy trình công nghệ do nhóm nhà khoa học TP.HCM hoàn thiện tạo ra cơ hội "tận dụng" nguồn nước thải từ nhà máy sản xuất phân bón để tiếp tục tạo ra các sản phẩm hữu ích, giúp giảm thiểu lượng chất thải nguy hại ra môi trường.
Thực tế cho thấy, nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam và Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Theo Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 150/QĐ-TTg, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 2,5-3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5-6%/năm; mở rộng và phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5-6%/năm.
Đặc biệt, Chiến lược đề ra mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới với ngành công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, hiệu quả, thân thiện với môi trường. Nông thôn Việt Nam không còn hộ nghèo và trở thành “nơi đáng sống” văn minh, xanh, đẹp…
Nhu cầu cấp bách
Có thể khẳng định rằng, phân bón là nguyên liệu đầu vào cực kỳ quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, và nhu cầu phân bón ngày càng tăng, từ đó sản xuất phân bón càng được đẩy mạnh, đặc biệt là ngành sản xuất phân bón hóa học. Bên cạnh việc mở rộng quy mô sản xuất phục vụ nhu cầu phát triển của nông nghiệp, thì việc xử lý các nguồn chất thải, đặc biệt là khí thải, nước thải trong quá trình sản xuất phân bón luôn được chú trọng.
Khí thải sau khi ra khỏi hệ thống tách bụi đi qua hệ thống rửa khí và hấp phụ trước khi khí thải ra môi trường bên ngoài. Nếu dung dịch này được hồi lưu để tiếp tục sử dụng thì hàm lượng các chất di dưỡng bị hấp phụ trong dung dịch chứa hàm lượng lớn các chất dinh dưỡng Nitơ (N) và Phốtpho (P) vốn rất cần thiết cho cây trồng.
Trong khi đó, để xử lý nguồn nước này đạt tiêu chuẩn môi trường,hầu hết nhà máy đang áp dụng công nghệ hóa lý để xử lý lượng nước thải nói trên, đặc biệt là nguồn nước thải chứa nhiều dinh dưỡng chính như N và P. Theo đó, dung dịch NaOH được cho vào bể phản ứng với hàm lượng lớn để "đuổi" N (ở dạng khí NH3) ra khỏi dung dịch. Như vậy, có thể thấy chất ô nhiễm (hợp chất của N) ở dạng lỏng được chuyển sang chất ô nhiễm dạng khí và phát tán ra không khí, tổng lượng N phát tán ra môi trường được xem là không đổi. Ngoài ra, nguồn nước thải sau khi đuổi N có pH cao, nên phải sử dụng lớn HCl để trung hòa, chuyển pH nước thải về trung tính để thực hiện các công đoạn tiếp theo trước khi thải ra môi trường. Như vậy, doanh nghiệp phải tiêu tốn một lượng lớn hóa chất NaOH và HCl mà vẫn không thể thể giảm lượng NH3 phát ra môi trường.
"Do đó, việc giảm thiểu hóa chất để xử lý nước thải và thu hồi các chất dinh dưỡng N và P từ nước thải luôn là công nghệ mà các nhà môi trường và doanh nghiệp hướng đến, và các công nghệ này được xem là thân thiện với môi trường, rất có ý nghĩa về mặt kinh tế", PGS.TS Lê Minh Viễn nhận định, "Hơn nữa, theo thống kê, thì các trữ lượng P trong các mỏ để sản xuất phân lân cũng đang ngày càng giảm sút. Do đó, việc thu hồi các nguyên tố dinh dưỡng như N và P ngày càng cấp bách hơn".
Tuy nhiên, trước thực tế trong nước hiện chưa có nghiên cứu đầy đủ nào về công nghệ thu hồi N và P từ các nhà máy sản xuất phân bón, cũng như nghiên cứu sử dụng các sản phẩm sau thu hồi để sản xuất phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp", PGS.TS Lê Minh Viễn và nhóm cộng sự tại Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu công nghệ thu hồi nitơ, phốtpho trực tiếp từ nước thải nhà máy phân bón và định hướng sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân bón".
PGS.TS Lê Minh Viễn trình bày kết quả triển khai nhiệm vụ "Nghiên cứu công nghệ thu hồi nitơ, phốtpho trực tiếp từ nước thải nhà máy phân bón và định hướng sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân bón"
Hướng tiếp cận mới
Theo đó, là kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu, PGS.TS Lê Minh Viễn và các cộng sự đã nghiên cứu xây dựng mô hình hệ thống thử nghiệm thu hồi N và P từ nước thải nhà máy phân bón công suất xử lý 1 m3/ngày và sản xuất 50 kg struvite theo quy trình công nghệ gián đoạn; đồng thời nghiên cứu sản xuất phân bón NPK sử dụng nguồn struvite sản xuất từ nước thải nhà máy phân bón.
Cụ thể, PGS.TS Lê Minh Viễn và các cộng sự đã xác định các thành phần chính của nguồn nước để đề xuất phạm vi của các thông số công nghệ và các phương pháp điều chế, đánh giá các tính chất của sản phẩm. Kết quả nghiên cứu ở quy mô phòng thí nghiệm cho thấy các thông số công nghệ như pH, tỷ lệ mol Mg/P, tỷ lệ mol N/P, thời gian phản ứng ảnh hưởng đến hiệu suất kết tủa struvite. Trong đó, thông số ảnh hưởng mạnh nhất là pH, tỷ lệ mol Mg/P, tỷ lệ mol N/P.
Quy trình thu hồi struvite
"Struvite dễ dàng kết tủa trong khoảng pH từ 7-9,5, thậm chí ở thời gian phản ứng là 30 phút. Đặc biệt, nghiên cứu này đã xây dựng được sự tương quan của các thông số công nghệ đến hiệu suất thu hồi N", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ thông tin.
Từ kết quả tối ưu hóa, các thông số công nghệ được lựa chọn để tiến hành kiểm tra, thử nghiệm với quy mô pilot với công suất 1 m3/ ngày. Quá trình kết tủa struvite được thiết kế và vận hành thực tế trên thiết bị có tổng thể tích là 1.000 lít. Với thông số công nghệ đã tối ưu (với hàm mục tiêu là hiệu suất 80%), tỷ lệ mol Mg/P=1,0 và N/P= 1,2; pH=8,3, thời gian là 60 phút ở nhiệt độ môi trường, sản phẩm thu được là struvite có độ đơn pha cao (kiểm chứng bằng phương pháp XRD), dạng bột có kích thước hạt từ 13-22 micro mét (kiểm chứng bằng phương pháp SEM và phần mềm Image J). Tỷ trọng riêng từ 1.573 - 1.598 kg/m3, khối lượng riêng đổ đống là từ 497-580 kg/m3. Hàm lượng dinh dưỡng phù hợp với struvite thương mại.
Mô hình hệ thống
Đối chiếu với tiêu chuẩn về độ tan theo ISO 18644:2016, sản phẩm struvite thu được là loại phân bón chậm tan. Struvite có hàm lượng dinh dưỡng (Mg, N và P) cao cùng với tính chất tan chậm, struvite phù hợp để làm phân bón tan chậm phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, sự tương thích của struvite với các nguyên liệu truyền thống cũng được kiểm tra nhằm sử dụng nguyên liệu này để sản xuất các sản phẩm phân bón NPK. Kết quả thử nghiệm với các sản phẩm phân bón một hạt NPK 10-10-5 (10% khối lượng struvite, 20% khối lượng struvite, 30% khối lượng struvite), NPK 17-3-5 (10% khối lượng struvite), NPK 16-20-0 (10% khối lượng struvite) và phân bón 3 màu NPK 20-15-5.
Kết quả cho thấy struvite dễ dàng sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất phân bón như các nguyên liệu truyền thống khác. Khi sử dụng struvite càng nhiều, độ tan của sản phẩm NPK càng giảm. Độ tan giảm của sản phẩm là lợi thế cho việc tiết kiệm và sử dụng phân bón hiệu quả do hạn chế sự rửa trôi và thất thoát do phân bón tan quá nhanh.
Struvite hay MAP (magie amoni Photphat) là một tinh thể thường gặp trong tự nhiên với hằng số KS = 12,6-13,26 ở dạng không tan (rất ít tan). Struvite tan ít trong nước và dung dịch nên sự giải phóng chậm struvite đã tạo ta nguồn N, P và Mg hiệu quả cho cây trồng bón qua lá hay đất. Sử dụng phân bón MAP có thể giảm từ 20-30%, thậm chí nhiều hơn, nếu xét trên khối lượng (sử dụng) so với phân bón thông thường mà vẫn có năng suất tương đương.
Là hợp phần quan trọng của nhiệm vụ, nhóm chuyên gia tại Đại học Bách Khoa đã sản xuất thử nghiệm thành công 50kg sản phẩm struvite thu hồi từ nước thải (của nhà máy sản xuất phân bón); hoàn thiện quy trình công nghệ thu hồi struvite từ nước thải nhà máy phân bón; cũng như quy trình công nghệ sản xuất phân NPK sử dụng sản phẩm struvite tạo ra trong quá trình thu hồi N, P từ nước thải nhà máy phân bón. Bên cạnh đó, nhóm triển khai nhiệm vụ cũng xây dựng bộ tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm struvite và 3 loại phân NPK sản xuất từ nguồn struvite tổng hợp được.
Phân bón NPK từ struvite
Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy việc sử dụng hóa chất để kết tủa các nguyên liệu phân bón bị hòa tan vào trong dung dịch nước để quay trở lại quá trình sản xuất phân bón dễ thực hiện. Trong khi phương pháp hóa lý, việc sử dụng dung dịch NaOH để xử lý NH3 trong dung dịch và sử dụng dung dịch HCl để chuyển pH nước thải về trung tính đã làm tiêu hao một lượng hóa chất đáng kể mà không thu được sản phẩm phụ nào. Ngoài ra, phương pháp kết tủa struvite sử dụng công nghệ và thiết bị đơn giản, dễ vận hành cho thấy việc kết tủa struvite từ nước thải ngành công nghiệp sản xuất phân bón không những có ý nghĩa khoa học, mà còn có ý nghĩa về kinh tế so với phương pháp truyền thống.
Nhận xét về hiệu quả khoa học - công nghệ, PGS.TS Lê Minh Viễn khẳng định: kết quả của nhiệm vụ đã góp phần cung cấp các dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm, cung cấp công nghệ xử lý nước thải, và công nghệ này được xem là công nghệ đơn giản, hiệu quả, sạch - xanh để xử lý nước thải chứa nhiều N và P, hạn chế sử dụng hóa chất để xử lý nước thải mà không thể thu hồi được.
Về hiệu quả kinh tế xã hội, có thể thấy rằng, công nghệ xử lý nước thải thân thiện với môi trường không những giảm thiểu tiêu tốn hóa chất mà còn thu hồi được các chất dinh dưỡng từ nước thải, làm giảm thất thoát nguyên liệu trong quá trình sản xuất, và đặc biệt hơn hết là giảm chi phí xử lý so với công nghệ truyền thống.
"Do đó, nhiệm vụ đã tiếp cận một cách có hệ thống và mang tính thực tiễn cao để xử lý nước thải với công nghệ xử lý thân thiện môi trường, giảm chi phí hóa chất, góp phần làm giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Từ đó gián tiếp góp phần thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường, thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo hướng nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn", PGS.TS Lê Minh Viễn nhấn mạnh.
Thông tin liên hệ: |
Với độ chính xác ở mức cao nhờ ứng dụng các mô hình phân tích trí tuệ nhân tạo, bộ công cụ chẩn đoán viêm ruột thừa giúp các cơ sở y tế thuận tiện hơn trong công tác thăm khám, đưa ra các chỉ định điều trị phù hợp.
Chiều ngày 11/04/2023 vừa qua, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã tổ chức hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ “Chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng bằng kỹ thuật máy học”. Đây là nhiệm vụ do Bệnh viện Nhân dân Gia Định làm cơ quan chủ trì triển khai; TS.BS Mai Phan Tường Anh và PGS.TS Thái Thanh Trúc là đồng chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ.
Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cho biết, viêm ruột thừa là bệnh nguy hiểm, khó phát hiện sớm để điều trị kịp thời. Viêm ruột thừa có biến chứng là kết quả của ruột thừa bị vỡ dẫn đến áp-xe hay hoại tử, viêm tấy quanh ruột thừa, gây nên nhiều hậu quả xấu cho sức khỏe bệnh nhân.
"Dù việc phẫu thuật cắt ruột thừa vẫn là phương pháp điều trị được lựa chọn phổ biến, song nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng vai trò của việc điều trị bảo tồn không phẫu thuật trên một số cơ địa đặc biệt. Do đó, việc cân nhắc chẩn đoán với điều trị phù hợp trong viêm ruột thừa có biến chứng và viêm ruột thừa không biến chứng mang lại lợi ích tốt nhất cho người bệnh", TS.BS Mai Phan Tường Anh thông tin.
Trên tinh thần đó, nhóm các nhà khoa học đang công tác tại Đại học Y dược TP.HCM và Bệnh viện Nhân dân Gia Định đã phối hợp nghiên cứu hồi cứu trên những bệnh nhân đã phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định trong 5 năm (2016-2020), kết hợp đánh giá kiểm thử trong dữ liệu thực tế bổ sung thêm. Từ đó, xây dựng mô hình chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng bằng các phương pháp thường dùng cho kỹ thuật máy học là Support Vector Machine - SVM; Decision Tree - DT; Random Forest - RF; Artificial Neural Network - ANN; k-Nearest neighbors - KNN, Logistic Regression - LR/hồi quy logistic và Gradient Boosting - GB; cũng như xác định giá trị của các mô hình kỹ thuật máy học trong chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng. Đồng thời, nhóm các khoa học TP.HCM cũng đã hoàn thiện, xây dựng quy trình và các công cụ hỗ trợ sử dụng kỹ thuật máy học hỗ trợ chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng.
Từ các mô hình máy học chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng gồm SVM, DT, RF, LR, KNN, ANN và GB với các tham số tương ứng với từng mô hình được hoàn thiện, nhóm triển khai nhiệm vụ đã xây dựng mô hình máy học có giá trị trong chẩn đoán viêm ruột thừa biến chứng với độ chính xác trên nền tảng mô hình GB vốn được xác định là có giá trị dự báo tối ưu nhất.
Được biết, để tạo dữ liệu huấn luyện cho các mô hình máy học, nhóm triển khai nhiệm vụ đã thống kê hơn 4.000 hồ sơ bệnh án thực hiện phẫu thuật cắt ruột thừa tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, trong đó thu thập các biến (giá trị) gồm Giới tính; Tuổi; Sinh hóa máu; Số lượng bạch cầu (WBC); Số lượng neutrophil (NEU); Số lượng lymphocyte (LYM); CRP; Đường kính ruột thừa qua siêu âm; Vị trí ruột thừa; Hình ảnh thâm nhiễm; và cuối cùng là biến phụ thuộc Viêm ruột thừa biến chứng.
Sơ đồ tiến trình xử lý số liệu
Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những nghiên cứu đánh giá giá trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng tại TP.HCM trong vòng 5 năm. Từ đó cung cấp một bức tranh toàn diện về tình hình viêm ruột thừa nói chung và mảng ứng dụng trí thông minh nhân tạo hỗ trợ bác sĩ dự đoán khả năng có biến chứng.
PGS. TS Thái Thanh Trúc cho biết, tính ứng dụng của nhiệm vụ chính là đã phác thảo tình hình chung của bệnh viêm ruột thừa biến chứng tại TP.HCM, đồng thời xây dựng mô hình máy học chẩn đoán viêm ruột thừa biến chứng. Qua đó, hệ thống thang đo dự đoán cho chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng cho cộng đồng người dân TP.HCM nói chung và tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định nói riêng được xây dựng hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ cũng đã hoàn thiện trang điện tử trực tuyến www.viemruotthua.com để người dùng là người dùng (bác sĩ) có thể thao tác và nhập các chỉ số để đưa ra tiên đoán về tình trạng viêm ruột thừa biến chứng trên bệnh nhân. Giải pháp này về cơ bản cũng có thể được tích hợp vào hệ thống dữ liệu bệnh viện và đề xuất khả năng viêm ruột thừa biến chứng để hỗ trợ việc chẩn đoán trên bệnh nhân viêm ruột thừa cấp. Chưa dừng lại ở đó, dữ liệu từ người dùng (bệnh nhân) có thể được thu thập nhằm cung cấp trở lại cho mô hình học máy, nâng cấp và tăng khả năng chẩn đoán trong tương lai.
Giao diện công cụ chẩn đoán viêm ruột thừa có sử dụng nền tảng trí tuệ nhân học được cung cấp tại địa chỉ viemruotthua.com
Giao diện của bộ công cụ cho phép bác sỹ và kỹ thuật viên y tế chủ động nhập vào 10 chỉ số chẩn đoán gồm giới, tuổi, hình ảnh siêu âm ổ bụng (đường kính ruột thừa - mm, vị trí ruột thừa, dịch ổ bụng và tình trạng thâm nhiễm xung quanh ruột thừa) và các xét nghiệm sinh hóa máu (tổng số lượng bạch cầu hạt, số lượng bạch cầu trung tính, số lượng bạch cầu lympho và CRP). Ở trung tâm bên dưới hình ảnh của ứng dụng là tóm tắt thông tin của bệnh nhân (bao gồm các chỉ số chẩn đoán mà bác sĩ nhập ở bên cột trái). Ở dưới cùng là kết luận có viêm ruột thừa biến chứng hay không, và xác suất xảy ra (%) nếu có.
Chia sẻ thêm về nghiên cứu, PGS.TS Thái Thanh Trúc cho rằng, quá trình thu thập dữ liệu, xây dựng và hoàn thiện đề tài đã có sự kết hợp giữa chuyên môn ngoại khoa tiêu hóa, thống kê và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trên nền tảng ngôn ngữ Python nhằm cho ra một mô hình chẩn đoán tối ưu nhất. Nghiên cứu xử lý dữ liệu theo nhiều tình huống khác nhau (chuẩn hóa và không chuẩn hóa cũng như bổ sung dữ liệu theo nhiều cách tiếp cận so với khi không bổ sung dữ liệu) để đảm bảo đánh giá đúng và đủ giá trị của mô hình chẩn đoán. Ngoài ra, các mô hình được xây dựng với nhiều tùy chọn tham số phổ biến nhằm đánh giá toàn diện và đa dạng các mô hình. Việc này nhằm đảm bảo không bỏ sót các tình huống và các tham số tiềm năng của từng mô hình.
Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ nhấn mạnh rằng kết quả nghiên cứu mang nhiều ý nghĩ thực tế. Ngoài tỷ lệ viêm ruột thừa có biến chứng phát hiện được để từ đó gợi ý về xác suất tiền định viêm ruột thừa có biến chứng của các trường hợp nhập viện có liên quan đến viêm ruột thừa, thì các yếu tố liên quan phát hiện được cũng có nhiều lợi ích.
Kết quả dự báo khả năng viêm ruột thừa được công cụ cung cấp
Theo lời PGS.TS Thái Thanh Trúc, tất cả yếu tố này là các chỉ số lâm sàng, cận lâm sàng thường quy và dễ dàng có thể có được, kể cả tại các cơ sở y tế có nguồn lực hạn chế. Vì thế, điều này có nghĩa là, hầu hết cơ sở y tế có thể sử dụng các yếu tố này để biết được bệnh nhân có nhiều nguy cơ viêm ruột thừa có biến chứng hay không.
"Trong trường hợp khả năng viêm ruột thừa có biến chứng là rất thấp thì có thể chọn các phương pháp phù hợp hơn cho bệnh nhân. Ngược lại, trong các trường hợp mà căn cứ vào các yếu tố liên quan xác định được bệnh nhân nhiều nguy cơ viêm ruột thừa có biến chứng thì sẽ có thể xử lý sớm một cách phù hợp hoặc chuyển tuyến bệnh viện khi cần thiết", PGS. TS Thái Thanh Trúc nhấn mạnh.
Tựu trung, việc xây dựng mô hình chẩn đoán dựa trên các tiêu chí trong thang đo có sẵn và qua siêu âm sẽ có nhiều thuận lợi, giúp xác định nguy cơ viêm ruột thừa có biến chứng mà không cần kiến thức chuyên sâu hoặc trang thiết bị phức tạp. Ngoài ra, việc hoàn thành nghiên cứu này mang ý nghĩa lớn về tính khả thi trong triển khai các nghiên cứu tương tự và là cơ sở ban đầu để tiến hành mở rộng các nghiên cứu tương tự trong lĩnh vực y học.
Thông tin liên hệ: Địa chỉ: 01 Nơ Trang Long, P.7, Q. Bình Thạnh, TP.HCM Điện thoại: 0908381266 - 0918343165 Email: ThaiThanhTruc@ump.edu.vn - mptuonganh@gmail.com Website: www.bvndgiadinh.org.vn |
Hoạt động đổi mới sáng tạo là một trong những lợi thế cạnh tranh khi các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh. Hoạt động này đã và đang được phụ nữ quan tâm và tạo ra nhiều sản phẩm, tài sản trí tuệ làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chia sẻ của bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) được chứng minh bởi những câu chuyện về hành trình từ ý tưởng đến các sản phẩm sáng chế, sáng tạo tại tọa đàm “Phụ nữ với sở hữu trí tuệ - thúc đẩy đổi mới sáng tạo”. Tọa đàm do Sở KH&CN phối hợp cùng Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên đoàn Lao động, Hội Sở hữu trí tuệ TP.HCM, Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức ngày 22/04 trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2023.
Bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM) chia sẻ tại tọa đàm
Tại buổi tọa đàm, diễn giả là các đại diện gương phụ nữ điển hình đã chia sẻ những kinh nghiệm, câu chuyện về hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo ra tài sản sở hữu trí tuệ để khẳng định vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện đại trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.
Cụ thể như NSND Kim Cương (lĩnh vực sân khấu, cải lương, kịch nói Việt Nam); BS. Phạm Thị Kim Loan (nhà sáng chế); bà Trần Thị Triệu (nhà sáng chế, Giám đốc Công ty TNHH TMDV Hoàng Gia Hải Yến); bà Nguyễn Thị Hiếu (nhà khởi nghiệp, Giám đốc Công ty TNHH SXTM Nấm Linh chi Đất Thép); bà Võ Thị Kiều Tiên (Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện Củ Chi chia sẻ ý tưởng dám nghĩ, dám làm, đưa ra những sáng kiến giúp Củ Chi trở thành một trong ba quận, huyện kiểm soát được dịch bệnh Covid sớm nhất của TP.HCM); bà Phạm Thị Kim Oanh (Phó Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Với 15 năm miệt mài nghiên cứu, lao động sáng tạo, BS. Phạm Thị Kim Loan đã tạo ra nhiều sản phẩm giúp người dùng bảo vệ và điều chỉnh cột sống của mình hàng ngày, chống lại các bệnh lý về cơ xương khớp. Nhà sáng chế nữ hiện là chủ sở hữu hơn 252 Bằng độc quyền sáng chế đăng ký tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
Chia sẻ câu chuyện từ ý tưởng đến bằng sáng chế của mình, BS. Nguyễn Thị Kim Loan cho rằng, đó là một hành trình dài. Trong quá trình làm việc tại Mỹ, bà biết đến một phương pháp chỉnh xương mà không dùng thuốc bằng cách nghiên cứu cơ chế sinh bệnh để giải quyết tận tốc. Bà cho biết, các bệnh về cột sống thủ yếu do thói quen sống hàng ngày của con người, ngồi các loại ghế gây tổn thất xương. Từ thực tế này, BS. Loan mất 2 năm nghiên cứu tạo ra loại ghế giúp con người giữ hệ xương khi ngồi không bị lệch. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia, bà tạo ra ghế bằng vật liệu sợi composite có khả năng chịu được lực rất lớn, không bị nứt gãy, giúp nâng đỡ cột sống. Tiếp theo đó, các sản phẩm như gối lưng, đệm thiền… cũng được ra đời. Bà đăng ký và được cấp nhiều bằng sáng chế ở Việt Nam và một số nước như Mỹ, Canada, Singapore, Nhật Bản,...
Các nhà sáng chế, diễn giả nữ chia sẻ tại tọa đàm
Về quá trình đăng ký sở hữu trí tuệ, theo BS. Loan, cần nhất là sự kiên nhẫn, vì ở nước ngoài có những hàng rào kỹ thuật rất khắt khe yêu cầu sản phẩm phải có tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng thực tiễn. Tại Australia, bằng sáng chế của bà phải mất hơn 9 năm mới được cấp. “Trải qua hành trình dài làm sở hữu trí tuệ, tôi mới thấm thía câu sáng tạo là kết quả 99% lao động và 1% từ ý tưởng sáng tạo”, bà Loan nói.
Với truyền thống làm nghề tổ yến, bà Trần Thị Triệu (70 tuổi) đã sáng chế ra nhiều sản phẩm tổ yến thực dưỡng, kẹo tổ yến… được cấp bằng sở hữu trí tuệ. Tại tọa đàm, bà cho biết, gia đình có nghề truyền thống làm tổ yến từ trước giải phóng. Năm 1986, sau khi đất nước mở cửa, bà có thời gian sang Nhật Bản làm việc. Nhìn thấy trong bữa ăn người Nhật thường có các vi chất dinh dưỡng dưới dạng viên, dạng bột hay dạng nước được tổng hợp từ rau củ quả, rong biển… Khi về Việt Nam, bà suy nghĩ và bắt đầu nghiên cứu, tìm cách làm ra những sản phẩm tương tự cho người Việt. Với truyền thống làm nghề tổ yến, bà đã nghiên cứu nâng cao giá trị sản phẩm gấp nhiều lần bằng việc tạo ra sản phẩm tổ yến thực dưỡng ăn liền dạng gói. Nghiên cứu ra sản phẩm, bà làm thủ tục bảo hộ và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế cho sản phẩm tổ yến thực dưỡng năm 2020.
Ý tưởng về sản phẩm khác cũng đến từ chuyến đi Hàn Quốc khi bà vào các nhà hàng và thấy nhiều món ăn có nguyên liệu từ củ sâm. Nghĩ về Việt Nam, bà nhận thấy sâm là thực vật quý, chỉ sử dụng cho người thu nhập cao và người bệnh cần bồi bổ. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nuôi yến, tại sao không sử dụng chim yến làm món ăn. Từ ý tưởng này, bà Triệu lại miệt mài nghiên cứu và tạo ra sản phẩm kẹo trái cây tổ yến, được cấp bằng giải pháp hữu ích năm 2020. Về quá trình tạo ra sản phẩm mới, bà Triệu chia sẻ một nguyên tắc, khi có ý tưởng bất chợt sẽ viết ngay ra giấy vì sợ quên và bắt tay vào làm ngay. “Ý tưởng có thể đến bất chợt, có khi đến với mình rất tình cờ. Nên khi trong đầu nảy ra suy nghĩ dù là nửa đêm tôi cũng ngồi dậy bật đèn viết ra”, bà Triệu nhớ lại. Bà cho rằng, để có nhiều ý tưởng phải dựa vào quá trình lao động tận tụy bằng sự yêu thích và đam mê. Từ quá trình này, mỗi người sẽ nảy ra những sáng chế. Tuy nhiên, để có thành công thì phải có hàng trăm lần thất bại. Với bà, thông điệp của quá trình này chính là “ở đâu có tình yêu lao động, lao động cần cù, ở đó có sáng tạo”.
Bà cũng mong muốn hợp tác với các doanh nghiệp khác để khai thác, thương mại hóa các sản phẩm đã được cấp bằng sở hữu trí tuệ để phục vụ cộng đồng nhiều hơn nữa. Hiện bà Triệu cũng đang nghiên cứu tạo ra một dạng mỹ phẩm gội đầu từ tổ yến, kết hợp với bồ kết và nha đam và một số loại thảo dược giúp tóc mềm mịn, sạch gàu, chống rụng tóc, chăm sóc da đầu.
Theo bà Phạm Thị Kim Oanh, thế giới hiện đang rất sôi động với các hoạt động thúc đẩy việc nhận thức được vai trò quan trọng của sở hữu trí tuệ nói chung và bản quyền tác giả nói riêng để bảo vệ tài sản trí tuệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Tại Việt Nam đã xây dựng được hành lang pháp lý bảo vệ tác giả với những sáng chế của mình. Bà Oanh mong muốn các tác giả cần chủ động bảo vệ quyền của mình trong các sản phẩm, vì đây là quá trình nỗ lực sáng tạo và xã hội cũng cần tôn trọng quyền bảo hộ với những nhà sáng chế.
Khu vực gian hàng triển lãm "Khi phụ nữ đổi mới, cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn"
Bà Nguyễn Thị Kim Huệ cho biết, Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới (26/04) năm nay, WIPO lấy chủ đề “Phụ nữ với sở hữu trí tuệ - thúc đẩy đổi mới sáng tạo” nhằm tôn vinh những người phụ nữ tài năng trên toàn thế giới. Cách đây 5 năm, WIPO cũng từng lựa chọn chủ đề về phụ nữ để chào mừng ngày Sở hữu trí tuệ thế giới. Có thể thấy, từ những sản phẩm, sáng chế phục vụ các hoạt động của cuộc sống đời thường đến những sản phẩm công nghệ, hay nghiên cứu khoa học, phát minh vaccine,… đều có vai trò sáng tạo của phụ nữ. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà còn làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cùng với buổi tọa đàm này, trong khuôn khổ hoạt động chào mừng Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 2023 tại TP.HCM còn có sự kiện Triển lãm “Khi phụ nữ đổi mới, cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn” nhằm ghi nhận các sáng tạo, thành tựu của chị em phụ nữ phương Nam trong hoạt động sở hữu trí tuệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Triển lãm diễn ra trong hai ngày 22&23/04 đã trưng bày giới thiệu đến cộng đồng các giải pháp, mô hình, sản phẩm nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, các sáng kiến cải tiến kỹ thuật và quản lý công việc, các ấn phẩm văn học nghệ thuật của phụ nữ khu vực phía Nam. Đồng thời, Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam (21/04), Ngày sách và bản quyền thế giới (23/04) cũng diễn ra nhằm khuyến khích, phát triển và tôn vinh văn hóa đọc cho người Việt cũng như như tôn vinh giá trị của sách, thúc đẩy việc đọc, xuất bản sách và bảo vệ quyền tác giả.
Lam Vân
Mục tiêu hướng đến là sàn này có khả năng thực hiện tất cả dịch vụ hỗ trợ cho các bên có nhu cầu giao dịch công nghệ, giới thiệu, tư vấn, môi giới, hỗ trợ định giá, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ đàm phán, ký kết, thực hiện giao dịch công nghệ, tài sản trí tuệ...
Ngày 19/4/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM tổ chức Tọa đàm kết nối chuyên gia tìm kiếm mô hình Sàn giao dịch công nghệ TPHCM. Đây là buổi tham khảo ý kiến chuyên gia về mô hình vận hành phát triển Sàn giao dịch công nghệ TPHCM, về các nội dung và phương thức xây dựng Đề án kết nối các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh với các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ ở các địa phương trong vùng theo Nghị quyết số 154/NQ-CP.
Hiện nay, Sàn giao dịch công nghệ TPHCM đang thực hiện các chức năng như xúc tiến chuyển giao công nghệ, tư vấn – kết nối chuyển giao công nghệ, tìm kiếm đối tác (cho các dự án khởi nghiệp, kết quả nghiên cứu…). Sàn đã xây dựng được mạng lưới đối tác, hạ tầng thông tin, quy trình và hệ thống tác nghiệp. Tuy nhiên, để phát triển hơn nữa, TPHCM vẫn cần các nhà khoa học, doanh nghiệp công nghệ tham vấn thêm về mô hình, cơ chế vận hành sàn. Mục tiêu hướng đến là sàn này có khả năng thực hiện tất cả dịch vụ hỗ trợ cho các bên có nhu cầu giao dịch công nghệ, giới thiệu, tư vấn, môi giới, hỗ trợ định giá, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ đàm phán, ký kết, thực hiện giao dịch công nghệ, tài sản trí tuệ...
Theo TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TPHCM), doanh nghiệp thường mua sản phẩm công nghệ để cải thiện hiệu quả kinh doanh, tăng cường cạnh tranh, quản lý tốt hơn, giảm chi phí, đảm bảo an ninh thông tin và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Trong khi đó, Viện – trường chuyển giao công nghệ và hợp tác với công ty khởi nghiệp để phát triển giải pháp mới. Thế giới cũng đã có nhiều sàn như RocketHub.com, Fundable.com, Kickstarter… cho phép doanh nghiệp khởi nghiệp tìm kiếm nguồn tài trợ và hỗ trợ từ cộng đồng. Nhà đầu tư và người dùng khác cũng có thể đóng góp tiền để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp. Do đó, TPHCM có thể tham khảo mô hình sàn giao dịch công nghệ và sàn gọi vốn cộng đồng thành công trên thế giới, đánh giá liên kết của sàn giao dịch công nghệ với các sàn khác trong nước và quốc tế, từ đó thiết kế mô hình và xây dựng cơ chế vận hành cho sàn.
PGS.TS Trần Minh Quang (Đại học Bách Khoa – ĐHQG TPHCM) góp ý, nếu sàn giao dịch công nghệ chưa thực hiện được việc bảo chứng công nghệ, thì có thể triển khai các dịch vụ giới thiệu công nghệ, tạo dựng môi trường để các bên tham gia giao dịch – chuyển giao công nghệ. Đồng thời, cần có thêm sự kết nối giữa 4 nhà (nhà đầu tư – nhà khoa học – nhà cung ứng – doanh nghiệp) để tăng sự gắn kết, xác định rõ nhu cầu của các bên.
Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) chia sẻ, sàn giao dịch công nghệ không phải như sàn thương mại điện tử, vì sản phẩm có tính đặc thù mà cộng đồng lại nhỏ. Mặt khác, các giao dịch công nghệ sau khi được kết nối, môi giới thành công thì rất khó ghi nhận. Đó không phải là do thực tế không diễn ra giao dịch, mà là do doanh nghiệp ngại công bố (để ghi nhận), chứ chưa nói đến việc thu phí hỗ trợ giao dịch công nghệ.
Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) phát biểu tại tọa đàm.
Sau khi tham vấn ý kiến chuyên gia, ông Nguyễn Việt Dũng cho rằng Nhà nước chỉ nên giữ vai trò kiến tạo, hỗ trợ ở mức cơ bản chứ không thể lo hết. Vai trò kiến tạo thể hiện ở chỗ tạo điều kiện để cộng đồng sẽ tham gia vào trong Sàn. Việc thẩm định công nghệ tốt hay không là do thị trường hoặc các tổ chức trung gian tư vấn. Đây cũng là 1 nhiệm vụ lớn cần có sự chung tay, góp sức của cộng đồng.
Theo đó, Sàn giao dịch công nghệ TPHCM sẽ tiếp tục duy trì hoạt động kết nối các tổ chức trung gian để tư vấn nhu cầu công nghệ cho doanh nghiệp, đồng thời phát triển các hoạt động xung quanh hướng tới phục vụ nhu cầu thực tiễn của Thành phố cùng một số tỉnh Đông Nam Bộ. Sàn cũng sẵn sàng đón nhận thêm các góp ý về bổ sung những điều kiện, tính năng, cũng như những đề xuất cho hoạt động hỗ trợ kết nối chuyển giao công nghệ sắp tới.
Hoàng Kim
Việc chủ động sản xuất cột chiết pha rắn (SPE) hoàn toàn trong nước giúp công tác phân tích, kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường tại các địa phương thêm phần chủ động, đặc biệt về vấn đề kinh phí.
Thực tế cho thấy, việc sử dụng cột chiết pha rắn (Solid Phase Extraction - SPE) hiện rất phổ biến tại các trung tâm phân tích, kiểm nghiệm trong nước. Đặc biệt, tại những trung tâm phân tích tuyến tỉnh vốn dĩ còn hạn chế về trang thiết bị thì cột SPE là vật dụng không thể thiếu để giúp làm giàu mẫu, giúp phân tích chính xác hơn trên các thiết bị có độ nhạy và giới hạn phát hiện kém. Hiện nay, tất cả cột SPE này được nhập khẩu từ các nước tiên tiến với giá thành cao, do đó triển khai sản xuất cột SPE trong nước là nhu cầu cấp thiết.
Từ lâu, chất lỏng ion (ionic liquid - IL) đã được biết đến như là "dung môi xanh" được dùng trong ly trích. Đặc điểm nổi bật của IL là an toàn khi thao tác (không cháy, không bay hơi) và khoảng phân cực rất rộng. Đặc biệt là có thể thiết kế đa dạng các loại IL tùy vào mục đích sử dụng bằng cách thay đổi cấu trúc của cation và anion. Trong 10 năm gần đây, IL được sử dụng trong xử lý mẫu thông qua phương pháp chiết lỏng - lỏng. Tuy độ chọn lọc của chất lỏng ion cao hơn so với dung môi thông thường, nhưng giá thành chất lỏng ion cao hơn nhiều lần so với các dung môi hữu cơ. Do đó, phương pháp chiết lỏng - lỏng sử dụng chất lỏng ion chưa được ứng dụng rộng rãi.
Gần đây, việc kết hợp chất lỏng ion trong xử lý mẫu, đặc biệt là cột chiết pha rắn (SPE) đã bắt đầu được nghiên cứu trên thế giới. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy IL gắn trên chất mang rắn phù hợp được dùng làm pha tĩnh của cột SPE trong phân tích có thể kể đến như phân tích aryl amide, rotenon, sulfonamide, kim loại nặng, bisphenol A, thuốc diệt cỏ triazine,…
"Tuy nhiên, trong nước chưa có nghiên cứu nào về việc sử dụng IL trong điều chế pha tĩnh cho cột SPE", PGS.TS Trần Hoàng Phương (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG TP.HCM) nhận định, "Ngoài ra, qua khảo sát, các trung tâm phân tích trong nước cho biết đang có nhu cầu rất lớn về sản phẩm cột SPE được sản xuất trong nước với độ tin cậy cao, chất lượng đồng nhất, hiệu quả và thuận tiện hơn cho sử dụng".
Sản phẩm là kết quả triển khai nhiệm vụ KH-CN do PGS.TS Trần Hoàng Phương và các cộng sự tại tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) thực hiện
Vì thế, nhóm chuyên gia tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Chế tạo cột chiết pha rắn pha tĩnh chất lỏng ion (ILSPE) và ứng dụng xử lý mẫu trong phân tích" để giải quyết nhu cầu khai thác khả năng ưu việt của chất lỏng ion như khả năng thiết kế và tổng hợp nhiều loại chất lỏng ion có cấu trúc đa dạng, phù hợp và tăng tính chọn lọc khi xử lý mẫu.
Cụ thể, các mục tiêu mà PGS.TS Trần Hoàng Phương và nhóm cộng sự, các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hướng đến, đó là: Điều chế các IL với các khung cation và anion khác nhau, có gắn nhóm định chức; Điều chế DES (IL thế hệ mới) có nguồn gốc từ tự nhiên; Điều chế pha tĩnh bằng cách gắn kết IL lên vật liệu silica gel thương mại; Chế tạo tạo cột ILSPE từ các pha tĩnh; Ứng dụng vào phân tích một số chỉ tiêu như dư lượng chất kháng sinh quinolone và tetracyline, thuốc trừ sâu carbamate và phosphor hữu cơ, kim loại nặng, phenoxyacetic acid và các hợp chất perfluoro (PFOS, PFAS) trong nền mẫu nước hoặc thực phẩm.
Chủ nhiệm nhiệm vụ là PGS.TS Trần Hoàng Phương cho biết nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã tổng hợp thành công 14 IL và 6 DES. Đồng thời, nhiệm vụ đã tiến hành mang các chất lỏng ion trên silica gel, gồm 6 vật liệu, và có 6 chỉ tiêu đã được tiến hành ứng dụng với các vật liệu tương ứng bao gồm: 5 thuốc trừ sâu họ carbamate và 8 thuốc trừ sâu phosphor hữu cơ, 3 kháng sinh quinolone, 3 kháng sinh tetracycliene, 5 kim loại nặng (Cr3+, Ni2+, Cu2+, Cd2+, Pb2+), 4 thuốc trừ sâu phenoxyacetic acid, 5 hợp chất perfluorooctanoic acid và perfluorooctansulfonic acid.
Theo đó, PGS. TS Trần Hoàng Phương và nhóm cộng sự đã hoàn thành các mục tiêu như: Tổng hợp 14 IL bao gồm khung imidazolium từ 1-methylimidazole và imidazole; khung phosphonium từ triphenylphosphine; khung DABCOnium từ DABCO; khung pyrrolidium từ 1-methylpyrrolidine; khung pyridinium từ pyridine và các chất hữu cơ đơn giản; tổng hợp 6 DES (IL thế hệ mới); Điều chế pha tĩnh và chế tạo cột ILSPE; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích các họ thuốc trừ sâu như họ phosphor hữu cơ và carbamate trong mẫu nước; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích kháng sinh quinolone trong trứng gà và tôm; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích kháng sinh tetracyclin trong sữa và mẫu nước; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích các nguyên tố kim loại nặng trong nước máy và nước sông Sài Gòn; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích phenoxyacetic acid trong mẫu nước; Sử dụng cột ILSPE vào phân tích PFOS, PFOA trong mẫu nước.
Một số mẫu IL và DES là sản phẩm dạng 1 của nhiệm vụ KH-CN
Là một phần của nhiệm vụ, nhóm các nhà khoa học cũng đã hoàn thiện quy trình trình điều chế chất lỏng ion; cũng như quy trình tổng hợp chất lỏng ion và vật liệu chiết pha rắn tương ứng.
Nhận định về tính hiệu quả của kết quả triển khai nhiệm vụ, PGS.TS Trần Hoàng Phương khẳng định mỗi cột SPE với khối lượng 200mg pha tĩnh (khối lượng chất lỏng ion khoảng 20-30 mg, còn lại là 170-180mg silica gel tùy thuộc vào mỗi loại vật liệu cụ thể) ước tính giá thành sản phẩm dao động từ 10.000-15.000 đồng/cột, có thể thương mại hóa và cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Các sản phẩm cột chiết pha rắn được nghiên cứu, sản xuất thành công từ nhiệm vụ KH-CN
Có thể khẳng định rằng, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ do PGS.TS Trần Hoàng Phương và các cộng sự tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thực hiện và vừa được Sở KH&CN TP.HCM nghiệm thu chính là sự kết hợp giữa tổng hợp hữu cơ, tổng hợp vật liệu và kiểm nghiệm, sản phẩm tạo ra mang giá trị cao về cả hàm lượng khoa học cũng như thực tiễn.
Kết quả của nhiệm vụ góp phần đưa các nghiên cứu cơ bản ra ứng dụng, từ đó tạo cơ sở cho việc đưa kết quả nghiên cứu đến gần với thực tiễn cuộc sống. Sản phẩm là nền tảng cho việc phát triển các sản phẩm tương tự xuất phát từ chất lỏng ion như điều chế cột GC, HPLC trong tương lai, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo mang tính khoa học và ứng dụng cao cho các đơn vị nghiên cứu, sản xuất quan tâm đến lĩnh vực này. Đặc biệt, những kết quả thu được từ nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên sẽ tạo tiền đề cho việc sản xuất cột SPE trong nước, hạn chế nhập khẩu, qua đó giúp tiết kiệm một lượng lớn ngoại tệ cho quốc gia.
Ngày nay, hóa học phân tích đã bước sang một tầm cao mới với những bước tiến về công nghệ, đã cho ra đời nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ cho các yêu cầu phân tích mẫu nhanh và chính xác. Do đó, các thao tác về xử lý mẫu cũng phải đảm bảo cải tiến để phục vụ tốt cho việc phân tích, đặc biệt khi xử lý mẫu có nồng độ thấp phải thật tốt để không ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Dù ngày nay các thiết bị phân tích được phát triển như GC, HPLC với các tính năng ngày càng hiện đại nhưng việc xử lý mẫu vẫn phải được tiến hành để cho không làm nhiễu tín hiệu sắc ký và cho kết quả chính xác nhất. Thao tác chuẩn bị mẫu được áp dụng chủ yếu để loại bỏ tạp chất, làm sạch mẫu và làm giàu mẫu trước khi tiêm vào máy sắc ký để có thể tăng cường độ tín hiệu của chất cần phân tích. Nhìn chung, giai đoạn chuẩn bị mẫu ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích. Kỹ thuật xử lý mẫu truyền thống bao gồm chiết lỏng - lỏng (LLE) và chiết Soxhlet đã được phát triển trong nhiều thập kỷ trước đây thường tiêu tốn nhiều thời gian, công sức cũng như thải loại ra bên ngoài nhiều dung môi và hóa chất độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Trong khi đó, chiết pha rắn (SPE) đã khắc phục nhược điểm và hạn chế chính của LLE, đặc biệt là hạn chế việc sử dụng một lượng lớn dung môi hữu cơ và tăng độ chọn lọc với chất cần phân tích. Cột SPE có thể được coi là một kỹ thuật đơn giản, nhanh, hiệu quả dùng trong quá trình xử lý mẫu ở thập niên 90 của thế kỷ trước và được sử dụng cho đến ngày nay. Để cải thiện hiệu quả của cột SPE trong xử lý mẫu, rất nhiều loại vật liệu mới đã được phát triển để làm pha tĩnh trong cột SPE nhằm tăng tính chọn lọc đối với chất cần phân tích. Việc lựa chọn chất hấp phụ thích hợp nhất đem lại hiệu quả phân tích cao là vô cùng quan trọng cho sự thành công của phương pháp phân tích. Ngày nay, một loạt vật liệu mới đang được phát triển bao gồm polymer đánh dấu phân tử (MIP); chất lỏng ion gắn trên chất mang rắn; vật liệu dựa trên nền carbon (graphen, carbon nanotube) và các hợp chất sol-gel,… Các vật liệu này góp phần nâng cao hiệu quả và độ chọn lọc chất cần phân tích. Các vật liệu này dùng trong cột SPE là những vật liệu thân thiện với môi trường khi thải loại. |
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, TP.HCM Điện thoại: 028 62884499 - 0903706762 E-mail: thphuong@hcmus.edu.vn Website: www.hcmus.edu.vn |
Website chuyển tự (dịch) tự động từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt có thể được ứng dụng ngay để phát triển phần mềm dịch thuật trên thiết bị di động nhằm phục vụ du khách khi tham quan, tìm hiểu các địa điểm có sử dụng chữ Nôm.
Có thể khẳng định rằng, chữ Nôm là thể loại chữ viết tay đầu tiên của người Việt Nam do các bậc tiền nhân xây dựng dựa trên chất liệu của chữ Hán, được sử dụng trong gần 1.000 năm từ thế kỷ X đến thế kỷ thứ XIX. Trong suốt 10 thế kỷ đó, rất nhiều công trình về lịch sử, văn học, y học, nông nghiệp, địa lý, … đã được biên soạn, viết bằng chữ Nôm và còn được lưu giữ cho đến ngày nay.
"Tuy nhiên, phần lớn tài liệu chữ Nôm vẫn chưa được dịch (chuyển tự) sang chữ Quốc ngữ sử dụng con chữ Latin, và thực tế là hiện khá ít người có khả năng đọc được chữ Nôm để tìm hiểu, khai thác kho tàng văn hóa, tri thức, tư liệu lịch sử do người xưa để lại", PGS.TS Đinh Điền (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG TP.HCM) cho biết.
Vì thế, nhóm chuyên gia đang công tác tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG TP.HCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Xây dựng hệ thống chuyển tự tự động văn bản chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ" với mục tiêu then chốt là xây dựng hệ thống có khả năng dịch tự động chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ.
Theo lời PGS.TS Đinh Điền, việc chuyển tự chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ rất phức tạp do hai hệ chữ khác loại hình chữ viết. Chữ Nôm thuộc loại hình chữ ghi ý (ideographic), còn chữ Quốc ngữ thuộc loại hình chữ ghi âm vị (phonemic). Cùng một chữ Nôm có thể được dịch sang nhiều chữ Quốc ngữ khác nhau tùy theo tri thức văn hóa, lịch sử, địa lý, tiếng Việt cổ, tiếng địa phương, từ chuyên ngành,…
Hay nói cách khác, việc chọn chữ Quốc ngữ nào cho bản dịch cần phải suy đoán, và việc suy đoán này phải sử dụng đến nhiều "tri thức" cả trong và ngoài ngôn ngữ (extra-linguistic).
Giao diện website chuyển tự tự động chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ
"Khó khăn lớn nhất trong việc chuyển tự chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ chính là việc chọn chữ Quốc ngữ đúng trong số các chữ Quốc ngữ khả dĩ của chữ Nôm", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ thông tin, "Việc chọn lựa này phụ thuộc vào ngữ cảnh, thể loại (văn xuôi/vần), lĩnh vực (văn học, y học, tôn giáo, …) và cả vào niên đại, vùng miền.".
Do đó, vì nguyên tắc của học máy là nếu hệ thống/con người huấn luyện cho máy tính ngữ liệu thuộc thể loại, lĩnh vực nào thì máy sẽ dịch tốt hơn với những văn bản thuộc thể loại/lĩnh vực đó.
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức, PGS.TS Đinh Điền khẳng định: gần đây với sự phát triển vượt bậc của lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) cũng như các công nghệ học máy (machine learning) tiên tiến trong ngành khoa học máy tính đã giúp bài toán chuyển tự tự động hay chuyển tự máy (machine transliteration) có thể thực hiện được, dù chưa thể chính xác hoàn toàn.
Với công nghệ học máy, máy có thể "tự học" được cách chọn (suy đoán) chữ Quốc ngữ phù hợp với từng chữ Nôm thông qua ngữ cảnh trong rất nhiều các bản dịch Nôm - Quốc ngữ trước đó của con người. Do đó, nếu hệ thống "dạy" cho máy tính bằng cách cung cấp (đưa vào kho ngữ liệu huấn luyện) cho máy càng nhiều bản dịch Nôm - Quốc ngữ chuẩn, thì máy sẽ càng "thông minh" hơn và cho kết quả dịch chính xác hơn. Ngoài ra, máy cũng có khả năng tự học để hoàn thiện hơn bằng cách rút kinh nghiệm từ các lỗi dịch sai của máy sau khi con người hiệu đính lại những chỗ dịch sai đó. Quá trình này nếu được lặp lại càng nhiều thì máy sẽ càng cho những bản dịch tốt hơn sau này.
PGS.TS Đinh Điền thuyết minh và vận hành thị phạm tính năng chuyển tự tự động văn bản chữ Nôm sang văn bản chữ Quốc ngữ tại Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức
Kết hợp "học máy" với mô hình ngôn ngữ
Trên tinh thần đó, trong phạm vi của nhiệm vụ, nhóm các nhà khoa học với sự dẫn dắt của PGS.TS Đinh Điền đã đề xuất và hoàn thiện việc xây dựng hệ thống chuyển tự tự động từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ bằng công nghệ học máy có bổ sung thêm tri thức từ điển và mô hình ngôn ngữ theo lĩnh vực.
Cụ thể, PGS.TS Đinh Điền (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết, tận dụng công nghệ học sâu (deep learning), nhóm các nhà khoa học tại gia Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG TP.HCM đã tập trung dịch một chiều từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ. Cụ thể, nhóm xây dựng Tự điển chữ Nôm - Quốc ngữ (bản chất là một tập hợp có hệ thống các Nôm tự được giải nghĩa Quốc ngữ) nhằm tập trung giải nghĩa của từng tự, cung cấp các thông tin sâu về mặt ngôn ngữ học.
Số lượng Nôm tự rút trích được từ kho ngữ liệu chữ Nôm và các nguồn tham khảo đạt 22.264 mục tự. Sau đó, xây dựng tiếp Từ điển chữ Nôm - Quốc ngữ chứa 6.198 mục từ. Nhóm cũng xây dựng Tự điển chữ Hán - Việt chứa 26.330 mục tự và Từ điển chữ Hán - Việt chứa 66.450 mục từ.
"Tự" là đơn vị nhỏ nhất trong quá trình xử lý ngữ liệu để chuẩn bị cho quá trình chuyển tự. Cấp độ lớn hơn "tự" là từ và cụm từ. Một từ hay cụm từ có thể gồm hai, ba, đến bốn tự. Cao hơn từ và cụm từ là cấp độ câu. Câu có thể bao gồm câu thơ hoặc câu văn xuôi với độ dài thay đổi tùy văn bản thu thập được. |
Mô hình được nhóm triển khai nhiệm vụ đề xuất và hiện thực là dựa trên mô hình hiện hữu của giải pháp dịch máy thống kê SMT bằng Moses của giải pháp Nôm Converter (www.chunom.org) mà PGS.TS Đinh Điền và các cộng sự từng nghiên cứu trước đó với một số khác biệt và cải tiến dựa trên kinh nghiệm hệ dịch Hoa - Việt bằng thống kê và Anh - Việt bằng học sâu cũng của chính nhóm nghiên cứu, đó là thay vì dịch cả hai chiều (từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ và ngược lại) như hệ thống Nôm Converter, thì nhóm nghiên cứu chỉ tập trung dịch một chiều từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ vì thấy thấy chiều ngược lại không có ý nghĩa thực tiễn lớn.
Ngoài ra, việc dịch một chiều từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ sẽ giúp dễ tập trung cải tiến chất lượng đầu ra của chữ Quốc ngữ hơn bằng cách đầu tư nhiều cho mô hình ngôn ngữ (Language Model) của chữ Quốc ngữ.
Để khắc phục tình trạng thiếu chữ Nôm trong tập huấn luyện như trong hệ thống Nôm Converter, nhóm triển khai nhiệm vụ bổ sung tự điển Hán - Việt vào bảng dịch (phrase table) của hệ thống Moses. Ngoài ra, nhóm cũng bổ sung nhiều bản dịch (thủ công) song song Nôm - Quốc ngữ khác (mà hệ thống Nôm Converter chưa đưa vào huấn luyện) để nâng cao chất lượng dịch.
"Cải tiến chính của nhóm nghiên cứu là phân chia theo lĩnh vực cho ngữ liệu huấn luyện ở đầu vào và mô hình ngôn ngữ chữ Quốc ngữ ở đầu ra", PGS.TS Đinh Điền nhấn mạnh.
"Khó khăn lớn nhất trong việc chuyển tự chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ chính là việc chọn chữ Quốc ngữ đúng trong số các chữ Quốc ngữ khả dĩ của chữ Nôm đó. Việc chọn lựa này phụ thuộc vào ngữ cảnh, thể loại, lĩnh vực và cả vào niên đại. Hệ thống hiện hữu chỉ mới chọn chữ Quốc ngữ theo ngữ cảnh có trong tập ngữ liệu huấn luyện mà tập huấn luyện này lại được huấn luyện chung (lẫn lộn thể loại, lĩnh vực, niên đại)", PGS.TS Đinh Điền cho biết thêm, "Vì vậy, trong mô hình đề xuất, chúng tôi phân chia tập huấn luyện, cũng như mô hình ngôn ngữ theo thể loại và lĩnh vực.".
PGS.TS Đinh Điền cho biết, mục đích quan trọng nhất là tra cứu nghĩa Quốc ngữ tương ứng của các Nôm tự. Để đạt được điều này, xét về cấu trúc vi mô, tự điển chữ Nôm phải được xây dựng một cách có hệ thống thành các trường thuộc tính cụ thể. Đó là, trường nghĩa Quốc ngữ, là trường căn bản luôn có, giải nghĩa Quốc ngữ cho mục Nôm tự; trường tần suất: cho biết mức độ phổ biến của Nôm tự; trường lĩnh vực: cho biết ngữ cảnh cụ thể của Nôm tự; và trường thể loại: cung cấp thêm thông tin về nguồn gốc Nôm tự. Việc xây dựng tự điển chữ Nôm - Quốc ngữ bao gồm giai đoạn thu thập, xây dựng kho ngữ liệu chữ Nôm, từ đó trích xuất danh sách các Nôm tự và hoàn thiện cấu trúc vĩ mô, vi mô của tự điển.
Để huấn luyện máy học và xây dựng mô hình ngôn ngữ, trong công trình nghiên cứu vừa được nghiệm thu này, PGS.TS Đinh Điền và cộng sự đã xây dựng ngữ liệu cho lĩnh vực văn học, đời sống và tôn giáo.
"Mỗi lĩnh vực có những vốn từ khác nhau, giúp chúng ta giới hạn lại miền/lĩnh vực lựa chọn chữ Quốc ngữ (trong trường hợp chữ Nôm đa trị) để nâng cao khả năng chọn đúng được chữ Quốc ngữ tương ứng", PGS.TS Đinh Điền phân tích, "Cuối cùng, thay vì chỉ lấy ngữ liệu chữ Quốc ngữ trong tập huấn luyện để huấn luyện cho mô hình ngôn ngữ (quá ít, chỉ vài ngàn câu), nhóm nghiên cứu chủ động sử dụng thêm ngữ liệu chữ Quốc ngữ ở bên ngoài (rất lớn, hàng triệu câu) và đã được phân chia theo thể loại và lĩnh vực nói trên để huấn luyện cho mô hình ngôn ngữ N-gram của chữ Quốc ngữ ở đầu ra nhằm nâng cao khả năng chọn đúng chữ Quốc ngữ theo tính tự nhiên nhất của ngôn ngữ. Được biết, kho ngữ liệu đơn ngữ chữ Quốc ngữ được nhóm nghiên cứu "nạp dạy" cho hệ thống hiện ở mức 823.533 câu và 13.024.774 từ.
Vì nguyên tắc của học máy là nếu chúng ta huấn luyện cho máy tính hiểu được/biết được ngữ liệu thuộc thể loại, lĩnh vực nào thì máy sẽ dịch tốt hơn với những văn bản thuộc thể loại hay lĩnh vực đó.
Trên tinh thần này, khi triển khai/áp dụng đi vào thực tế, người sử dụng muốn dịch văn bản thể loại hay lĩnh vực nào, chỉ cần chọn (trên trình đơn) thể loại hay lĩnh vực muốn dịch để máy tính lựa chọn kiến thức đã học phù hợp với thể loại hay lĩnh vực mà máy đã được huấn luyện. Trong trường hợp người sử dụng không xác định được thể loại hay lĩnh vực của văn bản chữ Nôm cần dịch, thì máy tính vẫn có thể tự xác định (chế độ tự động - auto) thể loại hay lĩnh vực của văn bản đó trước khi dịch (tựa như chức năng chọn ngôn ngữ tự động của công cụ Google Translator).
Là một phần của nhiệm vụ, PGS.TS Đinh Điền và nhóm cộng sự đã xây dựng thành công mô hình ngôn ngữ và mô hình dịch trên những ngữ liệu thu thập được, đồng thời hoàn thiện thử nghiệm website hỗ trợ chuyển tự (dịch) tự động từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ (tạm thời được đặt tại địa chỉ http://clcnom.kimtudien.com.vn/), và bộ công cụ "dịch máy" này cũng đã được nhóm triển khai nhiệm vụ trình diễn, báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức.
Được biết, ngay trong đầu tháng 4/2023 này, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và nhóm nghiên cứu đã đưa hệ thống chuyển tự chữ Nôm nói trên lên website chính thức của trường (https://tools.clc.hcmus.edu.vn/) nhằm phục vụ nhu cầu tra cứu của đông đảo người dân, các nhà khoa học và các tổ chức, doanh nghiệp.
Giao diện trang chủ bộ công cụ chuyển tự chữ Nôm đã được trường Đại học Khoa học Tự nhiên công bố chính thức trên website nhà trường
Về cơ bản, phần mềm giao diện website chuyển tự tự động chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ đi kèm bộ gõ chữ Nôm tích hợp, cho phép người dùng chọn lĩnh vực (văn học, lịch sử, tôn giáo) và thể loại (văn xuôi, văn vần) của ngữ liệu đầu vào. Các kết quả thực nghiệm bản dịch văn bản chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ với bản dịch chữ Quốc ngữ (bản gốc) được đánh giá là chuẩn xác ở mức cao.
Cũng theo lời nhóm phát triển, giải pháp dịch văn bản chữ đã hoàn thành, hiện nay, nhóm đang tiếp tục phát triển thêm khối (module) nhận dạng văn bản ảnh (bằng cách chụp hình chữ Nôm thay vì phải gõ vào hay dán vào) hay còn gọi là OCR (Optical Character Recognization). Khối nhận dạng này sẽ được tích hợp vào hệ thống chuyển tự hiện nay để qua đó du khách có thể dịch nội dung của các tài liệu, hình ảnh (liễn, câu đối, bia) được viết bằng chữ Nôm thường thấy ở các khu di tích, đền đài,… chỉ bằng camera của điện thoại di động.
Xa hơn nữa, cũng theo lời nhóm nghiên cứu, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một website đảm nhận dịch vụ chức năng tìm kiếm, tra cứu văn bản chữ Nôm một khi có sự liên kết với các kho lưu trữ văn bản chữ Nôm trong và ngoài nước.
Giao diện trang chủ website chuyển tự chữ Nôm
Kết quả thử nghiệm (chuyển ngữ lĩnh vực văn học) được thực hiện vào ngày 26/12/2022
Kết quả thử nghiệm (chuyển ngữ lĩnh vực y học) được thực hiện vào ngày 26/12/2022
Tựu trung, kết quả của nhiệm vụ "Xây dựng hệ thống chuyển tự tự động văn bản chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ" do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) chủ trì đã mở ra hướng tiếp cận mới và nhiều tiềm năng cho nhu cầu chuyển ngữ các tài liệu bằng chữ Nôm phục vụ nhu cầu tra cứu, khai thác kho tàng chữ Nôm trong lĩnh vực văn hóa, văn học, y học dân tộc, lịch sử, địa lý, nông nghiệp, và đặc biệt hơn hết là góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, quận 5, TP.HCM Số điện thoại: 090 827 8207 - (028) 38 354 266 Email: ddien@hcmus.edu.vn - clc@hcmus.edu.vn |
Chất lượng thịt tôm tít thương phẩm thơm ngon, màu sắc tươi sáng, được thị trường ưa chuộng, đạt 100% các chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn TCVN 7905-1:2008.
Tôm tít có tên khoa học là Harpiosquilla harpax, còn được gọi là tôm tích, tôm thuyền, bề bề hay tôm búa. Trong tự nhiên, tôm tít sống ở các vùng nước nông và có nền đất cát. Do đặc tính của tôm tít, nên quy trình nuôi phụ thuộc nhiều vào diện tích ao đầm và điều kiện tự nhiên, vừa khiến chi phí nuôi tôm lớn mà lại khó triển khai ở quy mô công nghiệp. Vì thế, để nâng cao hiệu quả kinh tế thì bài toán đặt ra là phải có giải pháp nuôi quy mô lớn, nuôi với mật độ cao trong diện tích canh tác nhỏ hơn.
Hệ thống nuôi tôm tít trong hệ thống RAS
Trước thực tế này, nhóm chuyên gia công tác tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ “Thử nghiệm nuôi thương phẩm tôm tít Harpiosquilla harpax (De Haan, 1844) bằng hệ thống tuần hoàn tại Tp. Hồ Chí Minh”. Theo đó, nhóm thực hiện thiết kế một hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS) cho phép nuôi tôm tít trong hộp nhựa ở trang trại theo quy mô công nghiệp, không phụ thuộc vào ao đầm. Hệ thống RAS bao gồm cụm nuôi tôm gồm các hộp nuôi được nối với cụm tuần hoàn nước và hệ thống xử lý nước. Trong đó, nước sau khi xử lý sẽ được cấp cho các hộp nuôi tạo nên hệ thống nuôi tôm tít tuần hoàn.
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức về quy mô nuôi thử nghiệm 1.000 con giống (trọng lượng từ 80-100g/con) trong 120 ngày, Th.S Lê Ngọc Hạnh (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết: diện tích trang trại chỉ chiếm 100m2 (10x10m), trong đó diện tích lắp đặt hộp nuôi 40m2 (4x10m). Cụm nuôi được bố trí theo từng dãy, mỗi dãy chứa 200 hộp nuôi (bằng nhựa PPE, diện tích 0,08m2). Từng cá thể tôm tít được nuôi riêng trong từng hộp. Hệ thống lọc sinh học có 2 ngăn, tổng thể tích vào khoảng 13,5m3.
Khi hệ thống RAS vận hành, nước được cấp bởi bơm cấp từ bể xử lý nước qua ống cấp để cấp vào các khay nuôi được đặt trên giá đỡ bên trong có thả tôm tít, phần cặn bao gồm phân, thức ăn thừa được thoát qua lỗ thoát và được gom bởi bơm hồi lưu, và được lọc bởi trống lọc thoát về khoang đầu tiên của bể xử lý nước, nước được chảy qua các khoang có bố trí thiết bị diệt khuẩn, thiết bị cung cấp oxy và thiết bị ổn nhiệt để khử mầm bệnh và điều chỉnh nhiệt tối ưu, từ đây nước lại được bơm bởi bơm cấp tạo thành vòng tuần hoàn khép kín, và lượng nước hao hụt được cấp bù bởi bể chứa nước.
Tổng thể tích nước sử dụng trong toàn hệ thống nuôi là 12,3m3, trong đó hệ thống lọc là 4,6m3 (chiếm 37,7%), hộp nuôi là 6m3 (chiếm 50%), phần còn lại là nước trong đường ống. Lưu lượng tuần hoàn trong mỗi hộp nuôi (6 lít nước) được điều chỉnh ở mức 0,03m3/giờ, tương đương tỷ lệ thay nước 5 lần/giờ/hộp. Tính chung trên toàn hệ thống, lưu lượng nước tuần hoàn đạt 720m3/ngày. Hệ thống RAS sử dụng một hệ thống máy thổi khí nén với lưu lượng 250L/phút tạo ra lưu lượng khí 360m3 khí/ngày.
Sơ đồ bố trí hệ thống
Hệ vi sinh vật nitrate hóa trong hệ thống đã được khởi động và phát triển tốt sau 14 ngày nuôi. Các thông số môi trường nước nuôi được duy trì trong phạm vi tối ưu và thích hợp cho sự phát triển của tôm tít.
Cụ thể, các chỉ tiêu chất lượng nước trong hệ thống nuôi được điều chỉnh và duy trì trong khoảng thích hợp cho sự phát triển bình thường của tôm tít: hàm lượng oxy hòa tan dao động 6,0-6,3 mg/L, nhiệt độ 26-29 độ C, pH 8,0-8,5, độ mặn 28-30‰, kiềm tổng 130,2-230 mg/L. Các chỉ số hàm lượng TAN (0,3±0,2 mg/L), nitrite-nitrogen (0,2±0,1 mg/L), nitrate-nitrogen (45±20,1 mg/L) cũng phù hợp và ổn định trong suốt thời gian 120 ngày nuôi.
Để loại bỏ tình trạng bùn thải cỡ siêu nhỏ (hình thành do sinh khối vi sinh, có thể làm tắc dần các lỗ cấp nước 2mm, khiến không thể bơm nước vào hộp nuôi), nhóm thực hiện đã cải tiến bằng cách trang bị thêm thiết bị bơm kèm hệ thống lọc cát, giúp quy trình vận hành trơn tru.
Ở quy mô nuôi thử nghiệm 1.000 con, tổng chi phí đầu tư ban đầu cho hệ thống nuôi tôm tít vào khoảng 278 triệu đồng. Sau 120 ngày nuôi, tôm đạt khối lượng trung bình 157g/con, tỷ lệ sống đạt trên 83,4%, thu hoạch được 130,9 kg tôm.
Tốc độ tăng trưởng đặc trưng (DWG) đạt 0,76 g/ngày, tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) đạt 1,0%/ngày. Tỷ lệ sống của tôm tít nuôi trong hệ thống RAS đạt 83,4% (do tôm được nuôi riêng nên hạn chế được ăn thịt lẫn nhau), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) đạt 23,29. Chất lượng thịt tôm tít thương phẩm thơm ngon, màu sắc tươi sáng, được thị trường ưa chuộng, đạt 100% các chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn TCVN 7905-1:2008.
Dễ dàng theo dõi và chăm sóc tôm tít nuôi trong hệ thống RAS
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu khoa học - công nghệ do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức, Th.S Lê Ngọc Hạnh thông tin rằng, ước tính lượng nước sử dụng trong vụ nuôi là 152,8L/kg tôm tít, tương đương với hình thức nuôi tôm thẻ trong hệ thống RAS (150-250L/kg). Điều này khẳng định rằng hoàn toàn có thể áp dụng hệ thống nuôi tuần hoàn để nuôi tôm tít thương phẩm, mở ra hướng mới cho nghề nuôi tôm tít.
Công nghệ nuôi tôm tít trong hệ thống RAS sử dụng ít nước, hạn chế thay nước từ nguồn ngoài (tiết kiệm nước), giảm thiểu rủi ro về thiên tai dịch bệnh, lại không sử dụng các loại hóa chất độc hại và các loại kháng sinh nên không ảnh hưởng đến sức khỏe người nuôi cũng như đảm bảo an toàn thực phẩm. Quy trình nuôi sẵn sàng chuyển giao cho các đơn vị, doanh nghiệp và người dân có nhu cầu.
“Quy trình nuôi tôm tít trong hộp nhựa bằng hệ thống tuần hoàn RAS đã hoàn thiện về mặt công nghệ. Quy trình vận hành dựa trên nguyên lý lọc sinh học tự động nên dễ áp dụng, người nuôi không cần thiết phải được đào tạo kiến thức chuyên sâu. Thiết bị và vật liệu đều được sản xuất trong nước nên giá thành hợp lý, dễ thay thế và bảo trì.”, Th.S Lê Ngọc Hạnh khẳng định.
Đại diện Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II trình bày trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ về thiết kế của hộp nhựa cải tiến
Được thiết kế theo hình thức mô-đun (kết nối với nhau theo từng dãy nuôi) nên người nuôi có thể triển khai ở nhiều quy mô lớn - nhỏ khác nhau. Đặc biệt, khi nuôi tôm tít bằng hệ thống RAS thì nước thải không đáng kể và không xả thải trực tiếp ra môi trường, nên hoàn toàn có thể ứng dụng để nuôi ngay trong lòng đô thị, khu dân cư như nhà hàng, tiệm ăn..., tạo nguồn thực phẩm sạch, tươi, chất lượng tốt phục vụ ngay tại chỗ.
"Điều này càng có ý nghĩa hơn vì tôm tít cho thịt chất lượng nhất chỉ khi còn tươi sống", Th.S Lê Ngọc Hạnh chia sẻ, "Vì thế, việc triển khai mô hình nuôi tôm tít trong hộp nhựa cải tiến chắc chắn sẽ mang đến nhiều cơ hội nuôi loại hải sản này trong phạm vi gia đình, hộ kinh doanh và trang trại nhỏ".
Cũng theo lời Th.S Lê Ngọc Hạnh, vì nguồn con giống hiện phụ thuộc vào khai thác tự nhiên (theo mùa vụ), do đó nếu muốn thúc đẩy nghề nuôi tôm tít thương phẩm theo hình thức nuôi tuần hoàn phát triển thì cần có thêm những chương trình, chính sách hỗ trợ nghiên cứu - sản xuất giống.
Tựu trung, với kết quả đạt được từ nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên, có thể khẳng định rằng, mô hình nuôi tôm tít trong hộp bằng hệ thống tuần hoàn thực sự mang lại sự hiệu quả về kinh tế, đảm bảo môi trường, đồng thời tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho các hộ cá nhân, tổ chức doanh nghiệp có nhu cầu triển khai mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị hiện đại, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ đầu vào cho đến đầu ra.
Thông tin liên hệ: Website: www.vienthuysan2.org.vn |