Chiều 16/8, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức Tọa đàm góp ý dự thảo Nghị quyết "Quy định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát các giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo trên địa bàn TP.HCM".
Theo ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM), Quốc hội đã phê duyệt Nghị quyết số 98/NQ-QH15 ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM. Trong đó, tại điểm d, khoản 1, điều 8 của Nghị quyết này quy định "Khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo trên địa bàn Thành phố được thử nghiệm có kiểm soát các giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo".
Căn cứ Quyết định số 2856/QĐ-UBND ngày 11/7/2023 của Ủy ban Nhân dân TP.HCM về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 98/2023/QH15, Sở KH&CN phối hợp cùng Ban quản lý Khu Công nghệ cao TP.HCM và Công viên phần mềm Quang Trung (QTSC) xây dựng dự thảo Nghị quyết "Quy định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát các giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo trên địa bàn TP.HCM".
Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) phát biểu tại buổi tọa đàm
Dự thảo quy định 2 nhóm lĩnh vực công nghệ tham gia thử nghiệm có kiểm soát. Nhóm 1 gồm ba sản phẩm/giải pháp là công nghệ không dây LoraWAN, Wifi Halow; xe điện không người lái; các giải pháp công nghệ số có sử dụng drone. Nhóm 2 có chín lĩnh vực công nghệ được đề xuất cho phép thử nghiệm gồm: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, IoT, thực tế ảo, robot tự hành, vi mạch, in 3D, công nghệ sinh học (trừ sản phẩm thử nghiệm trên người).
Trong khuôn khổ tọa đàm này, Sở mong muốn tham vấn ý kiến các chuyên gia, doanh nghiệp, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết cho phép một số đơn vị, doanh nghiệp của Thành phố thử nghiệm một số giải pháp công nghệ theo chính sách (cơ chế sandbox). Các nội dung góp ý trao đổi tại tọa đàm tập trung vào 2 vấn đề chính là thiết kế mô hình/khung cơ chế thử nghiệm có kiểm soát sao cho hiệu quả và quy định về các đơn vị/tổ chức tham gia cơ chế sandbox. Sở sẽ hoàn chỉnh lại dự thảo để trình UBND Thành phố ban hành nhằm cụ thể hóa nội dung cơ chế thử nghiệm có kiểm soát các giải pháp công nghệ mới theo Nghị quyết 98 của Quốc hội.
Tại buổi tọa đàm, bà Huỳnh Lưu Trùng Phùng (Phó trưởng phòng Quản lý khoa học, Sở KH&CN TP.HCM) cho biết, về điều kiện và tiêu chí tham gia sandbox, nội dung dự thảo có nêu các giải pháp công nghệ mới là các giải pháp mà nội dung kỹ thuật và nghiệp vụ hoàn toàn chưa được quy định tại bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào, hoặc đã được quy định nhưng có thể cắt giảm thủ tục cấp phép trong phạm vi thử nghiệm. Bên cạnh đó, giải pháp được thử nghiệm phải thiết kế, xây dựng khung quản lý rủi ro, hạn chế tác động tiêu cực cho xã hội; doanh nghiệp phải xây dựng phương án hợp lý về xử lý, khắc phục các vấn đề xảy ra trong quá trình thử nghiệm một cách phù hợp. Kế hoạch thử nghiệm công nghệ phải có tính khả thi, thông tin minh bạch, đầy đủ về giải pháp thử nghiệm, có thể cung ứng ra thị trường sau khi hoàn thành thử nghiệm. Đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho TP.HCM.
Tọa đàm với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học đến từ các trường, viện, sở ban ngành, doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM
Về chính sách hỗ trợ, TP.HCM sẽ hỗ trợ mặt bằng, cơ sở hạ tầng trong khu công nghệ cao, khu thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo của Thành phố có mục đích sử dụng phù hợp để phục vụ việc thử nghiệm giải pháp. Doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm được hỗ trợ tối đa 30% tổng kinh phí từ ngân sách. Các đơn vị tham gia cũng sẽ được hỗ trợ về mặt pháp lý: miễn xin phép trong trường hợp sản phẩm thử nghiệm sử dụng các công nghệ được quy định tại Nghị quyết cần có các loại giấy phép trong thẩm quyền của UBND Thành phố. Các giấy phép ngoài thẩm quyền, Thành phố sẽ xin ý kiến các bộ ngành có liên quan để quyết định cho phép thử nghiệm.
Góp ý dự thảo, PGS.TS Võ Trí Hảo (nguyên Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM) cho rằng, sandbox nhìn ở góc độ pháp lý khi có một mô hình công nghệ mới có thể xảy ra một số rủi ro về an ninh quốc phòng, kinh tế tài chính, quản trị quốc gia, đạo đức… Do đó, việc tạo ra sandbox cần mô tả các rủi ro và đưa ra biện pháp kiểm soát rủi ro nhằm đảm bảo khi nhà nước cho doanh nghiệp thí điểm thì các mối nguy hiểm hay rủi ro có thể được kiểm soát. Sandbox được hiểu là một chiếc "hộp" có thể khoanh vùng phạm vi ảnh hưởng, tác động của công nghệ, sản phẩm thử nghiệm chỉ diễn ra trong "hộp" đó, sau thời gian thí điểm tốt có thể điều chỉnh, mở rộng lan tỏa mô hình công nghệ mới. Với cơ chế sandbox, Thành phố nên đưa ra một khung chương trình, sau đó ủy quyền cho hội đồng khoa học (gồm các chuyên gia) đánh giá thẩm định theo từng lĩnh vực, đề án cụ thể. Doanh nghiệp tham gia cần mô tả tính hiệu quả công nghệ, kết quả đầu ra công nghệ, các rủi ro và cam kết không ảnh hưởng đến cộng đồng, xã hội, đồng thời xây dựng cơ chế kích hoạt để xử lý các yếu tố rủi ro này. Ngoài ra, cần mô tả rõ các hiệu ứng lan tỏa, kết quả, lợi ích xã hội nhận được từ công nghệ tham gia sandbox.
Các ý kiến tại tọa đàm cũng cho rằng, nên có một khung đánh giá, thẩm định các sản phẩm, giải pháp công nghệ tham gia sandbox. Để thúc đẩy doanh nghiệp tham gia sandbox, cần thiết kế thêm cơ chế mở rộng ứng dụng, kinh doanh cho các sản phẩm, giải pháp ở giai đoạn tiếp theo. Trước mắt có thể áp dụng cơ chế thử nghiệm cho 1 – 2 sản phẩm cụ thể (như máy bay không người lái) với các chương trình hỗ trợ khung pháp lý, bản quyền phần mềm, giấy phép,… để khuyến khích các nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp hay startup mạnh dạn đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển sản phẩm công nghệ.
Lam Vân (CESTI)
Nhằm tiếp thu ý kiến góp ý của các chuyên gia về nội dung chi tiết triển khai các chính sách về Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo trong Nghị quyết số 98, cụ thể đối với 02 nhóm chính sách miễn thuế và hỗ trợ kinh phí không hoàn lại. Đồng thời, lắng nghe hiến kế về phương thức tổ chức Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp năm 2023 để cải thiện trong các khâu tổ chức và phù hợp với nhu cầu của cộng đồng.
Tọa đàm đã thu hút được hơn 150 đại biểu là đại diện các thành phần trong Hệ sinh thái Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Thành phố cùng tham dự
Chiều ngày 15/8/2023, tại Hội trường Saigon Innovation Hub (273 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM) đã diễn ra Tọa đàm "Tham vấn ý kiến cộng đồng Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo về Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp TP.HCM (WHISE) và các chính sách hỗ trợ Đổi mới Sáng tạo năm 2023”, chương trình do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức. Tham dự chương trình về phía Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM có TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên - Giám đốc Sở; TS. Chu Vân Hải - Phó Giám đốc Sở cùng đại diện Lãnh đạo các phòng chuyên môn và đơn vị trực thuộc Sở. Về phía các Sở ban ngành Thành phố có ông Lê Quốc Cường - Phó Trưởng ban Ban Quản lý khu Công nghiệp cao TP.HCM; ông Trần Trúc Cương - đại diện Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM; ông Nguyễn Đức Bình - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI. Về phía các chuyên gia trong Hệ sinh thái Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Thành phố có ông Đặng Đức Thành - Chủ tịch Công ty Tập đoàn Green+; ông Nguyễn Việt Đức - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần đầu tư Khởi nghiệp Sáng tao Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thanh Thảo - Quản lý cấp cao, Phát triển Kinh doanh tại Qualcomm Việt Nam; ông Phạm Đình Anh Khôi - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ, trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM; ông Lưu Danh Anh Vũ - Giám đốc Kinh doanh và Đối tác HCL Software; bà Nguyễn Thị Diệu Hằng - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp BSSC; bà Vương Thị Hồng Loan - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM cùng hơn 150 đại biểu là đại diện các thành phần trong Hệ sinh thái Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Thành phố gồm các Sở ban ngành, Uỷ ban nhân dân quận huyện và TP. Thủ Đức, các trường viện, các trung tâm ươm tạo, trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo, các chuyên gia, quỹ đầu tư trên địa bàn Thành phố.
TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Tọa đàm
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cho rằng, năm 2023 là năm đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc định hướng chiến lược phát triển Hệ sinh thái Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo của TP.HCM khi được Quốc Hội phê duyệt Nghị quyết số 98/NQ-QH15 ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM.
Theo đó, tại Điều 8 của Nghị quyết này Quốc hội đã phê chuẩn hàng loạt các chính sách đặc thù trong lĩnh vực Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo, cho phép Thành phố thí điểm các chính sách ưu đãi cho các thành phần chủ chốt của Hệ sinh thái Khởi nghiệp Sáng tạo. Các chính sách này thể hiện sự quyết tâm của Quốc hội, của Lãnh đạo Thành phố nhằm tạo điều kiện tối đa cho TP.HCM phát triển hoạt động Khởi nghiệp và Đổi mới sáng tạo, nhất là khi các nội dung, ý tưởng này gần giống với các chính sách về Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo của các nước trong khu vực.
“Các cơ chế, chính sách đặc thù về Đổi mới Sáng tạo này chỉ có thời hạn trong 5 năm, nên chúng ta cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện để mang lại hiệu quả cao nhất cho các doanh nghiệp, vườn ươm, cho hoạt động Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo của Thành phố. Trong đó, cần lưu ý 2 nhóm chính sách về miễn thuế và hỗ trợ kinh phí không hoàn lại trong Nghị quyết số 98 về chính sách đặc thù của TP.HCM về Đổi mới Sáng tạo. Chúng tôi vẫn quan niệm, chính sách của nhà nước là để kiến tạo, là cung cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ sao cho tốt, để cộng đồng có thể thụ hưởng được. Còn chính sách về tài chính hỗ trợ của nhà nước thường là để khích lệ tinh thần là chính… Tuy nhiên, thông qua các chính sách hỗ trợ này, đối với các dự án tiềm năng, tôi tin chắc rằng sẽ có sự tham gia đầu tư vào của khu vực tư nhân”, TS. Nguyễn Việt Dũng nhấn mạnh.
ThS. Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM thông tin về các chính sách về Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo trong Nghị quyết số 98, cụ thể đối với 02 nhóm chính sách miễn thuế và hỗ trợ kinh phí không hoàn lại
Tại Tọa đàm, ThS. Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng đã có phần trình bày khái quát về Điều 8 của Nghị quyết 98, nhất là Khoản 1 quy định việc hỗ trợ hoạt động Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên của Thành phố.
Cụ thể, đối với nhóm chính sách miễn thuế được quy định tại Điểm a, b Khoản 1, Điều 8 sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 5 năm từ thời điểm phát sinh thuế thu nhập phải nộp đối với thu nhập từ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo và các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát sinh trên địa bàn Thành phố. Miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp của các cá nhân, tổ chức có khoản thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn Thành phố.
Đối với nhóm chính sách hỗ trợ kinh phí không hoàn lại (quy định tại Điểm đ, khoản 1, Điều 8) sẽ được hỗ trợ không hoàn lại từ nguồn chi thường xuyên của ngân sách Thành phố chi phí ươm tạo dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo bao gồm: chi phí tổ chức hoạt động tuyển chọn dự án; chi phí thuê chuyên gia; tiền công lao động trực tiếp; dịch vụ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; chi phí sử dụng cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung.
“Chúng tôi muốn nhận được góp ý của các chuyên gia, của cộng đồng về các lĩnh vực ưu tiên trong hoạt động Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo bao gồm: Lĩnh vực Thương mại điện tử; Công nghệ tài chính; Logistic; Công nghệ giáo dục; Y tế và chăm sóc sức khỏe; Nông nghiệp công nghệ cao; Phát triển bền vững; Chuyển đổi số; lĩnh vực An ninh mạng. Đối với nhóm chính sách miễn thuế gồm: Doanh nghiệp Khởi nghiệp sáng tạo; Tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo và các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Cụ thể, trong việc Cấp Giấy chứng nhận; Điều kiện Cấp Giấy chứng nhận; Điều kiện Cấp thay đổi nội dung, cấp lại Giấy chứng nhận; Điều kiện Thu hồi Giấy chứng nhận; Điều kiện hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận; Điều kiện được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; Điều kiện được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn Thành phố. Đối với nhóm Chính sách hỗ trợ không hoàn lại gồm: Cá nhân, nhóm cá nhân, doanh nghiệp có dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo thuộc các lĩnh vực ưu tiên của TP.HCM; Tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trường Đại học, Viện nghiên cứu có hoạt động hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo và các tổ chức khác có liên quan trên địa bàn TP.HCM. Cụ thể, với 3 giai đoạn tiền ươm tạo hỗ trợ khoảng 40 triệu đồng/dự án, ươm tạo khoảng 80 triệu đồng/dự án, tăng tốc khoảng 400 triệu đồng/ dự án”, ThS. Phan Thị Quý Trúc thông tin.
TS. Chu Vân Hải - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM thông tin về dự thảo Kế hoạch Tổ chức Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp TP.HCM năm 2023 - WHISE 2023
Cũng tại Tọa đàm, TS. Chu Vân Hải - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã thông tin về dự thảo Kế hoạch Tổ chức Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp TP.HCM năm 2023 - WHISE 2023.
Cụ thể, WHISE 2023 với chủ đề “Chuyển đổi số - động lực mới cho sự phát triển của Thành phố”, hiện đã có 19 sự kiện trong các lĩnh vực Khởi nghiệp, Đổi mới Sáng tạo dự kiến sẽ được tổ chức từ ngày 09/10 - 14/10/2023. Trong đó, 2 ngày từ ngày 13 - 14/10 sẽ diễn ra các sự kiện trọng tâm và Triễn lãm tập trung tại Trung tâm Sự kiện và Triển lãm White Palace Phạm Văn Đồng như Ra mắt nền tảng trực tuyến thúc đẩy Đổi mới Sáng tạo tại TP.HCM H.OIP; Tổng kết Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp - WHISE và Trao Giải thưởng Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp - I-Star 2023…
“WHISE là một trong những sự kiện thường niên về Khoa học Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo của cộng đồng Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Thành phố, được khởi động từ năm 2017 đến nay WHISE đã trải qua 6 mùa tổ chức liên tiếp với nhiều dấu ấn được cộng đồng ghi nhận. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận lại một số hạn chế và kỳ vọng của WHISE trong thời gian qua để đổi mới hơn trong cách thức tổ chức và hiệu quả mang lại”, TS. Chu Vân Hải chia sẻ.
Đại biểu đặt câu hỏi và đóng góp ý kiến cho Tọa đàm
Trong khuôn khổ của Tọa đàm, các đại biểu là đại diện các thành phần trong Hệ sinh thái, các chuyên gia đã đánh giá rất cao về các chính sách đặc thù của TP.HCM về Đổi mới Sáng tạo được Quốc hội phê duyệt trên cơ sở Nghị quyết số 98/NQ-QH15 cho đây là động lực lớn để các tổ chức, cá nhân, các đơn vị, doanh nghiệp đã và đang hoạt động khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo trên địa bàn Thành phố phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn. Ngoài ra, các đại biểu cũng cho rằng, về phương án tổ chức Tuần lễ Đổi mới Sáng tạo và Khởi nghiệp năm 2023 cần được thông qua sớm, để có sự hỗ trợ truyền thông tốt hơn. Đồng thời, Ban tổ chức của các sự kiện cũng nên có sự kết nối với nhau nhiều hơn để thu hút được sự tham dự của nhiều nhóm thành phần trong hệ sinh thái.
Nhật Linh (CESTI)
Đây là những nội dung chính, quan trọng của lớp tập huấn cho các cán bộ, công chức thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn Thành phố vừa được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức.
Lớp tập huấn đã thu hút được hơn 60 học viên tới từ các đơn vị trực thuộc Công an TP.HCM, Cục Quản lý thị trường TP.HCM và Cục Hải quan TP.HCM cùng tham dự
Ngày 10/8/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã tổ chức lớp tập huấn "Khai thác thông tin sở hữu công nghiệp trong đánh giá xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và những vấn đề thực tiễn cần lưu ý trong giám định, xử lý tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp" cho đối tượng là các cán bộ, công chức thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn TP.HCM. Lớp tập huấn đã thu hút được hơn 60 học viên tới từ các đơn vị trực thuộc Công an Thành phố, Cục Quản lý thị trường Thành phố và Cục Hải quan Thành phố.
Phát biểu khai mạc lớp tập huấn, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, trong thời gian vừa qua, Sở Khoa học và Công nghệ đã nhận được rất nhiều đề nghị cung cấp thông tin, góp ý kiến chuyên môn về sở hữu trí tuệ và hướng dẫn thủ tục giám định sở hữu công nghiệp của các cơ quan thực thi bảo vệ quyền như Công an, Hải quan, Quản lý thị trường... để phục vụ công tác ngành.
"Về phía Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, sau khi nhận được đề nghị, chúng tôi cũng đã rất tích cực phối hợp, trao đổi thông tin và hỗ trợ các đơn vị. Tuy nhiên, để hoạt động thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn Thành phố được tốt hơn thì ngày hôm nay chúng tôi cũng đã mời về đây các chuyên gia đến từ Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ để thông tin, hướng dẫn cũng như chia sẻ những kinh nghiệm... qua đó, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn, có thể nắm bắt được các cách thức, phương pháp và áp dụng được kiến thức của lớp học này vào hoạt động công vụ. Chúng tôi cũng mong muốn rằng, thông qua lớp học này, các đồng chí sẽ thẳng thắn trao đổi những khó khăn, vướng mắc của mình và đơn vị của mình có thể đang gặp phải trong quá trình thực thi nhiệm vụ để cùng góp ý tháo gỡ...", ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nhung nói.
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nhung - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc lớp tập huấn
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nhung, cho biết thêm, lớp tập huấn được tổ chức cũng nhằm triển khai Kế hoạch Chiến lược sở hữu trí tuệ và Phát triển tài sản trí tuệ trên địa bàn TP.HCM đến năm 2030 theo Quyết định số 266/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 của Uỷ ban nhân dân Thành phố. Cũng như, tranh bị kiến thức, kỹ năng tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp cho các cán bộ thực thi bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp phục vụ công tác phân tích, đánh giá hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, hướng dẫn về sử dụng dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp để xử lý tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên địa bàn Thành phố.
"Trong Quyết định số 266, Sở Khoa học và Công nghệ có 2 nhiệm vụ rất là quan trọng đó là huấn luyện để nâng cao năng lực thực thi cho cán bộ, công chức, các cơ quan thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cũng như, tìm kiếm, cung cấp các giải pháp và công nghệ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm quyền... do đó, nếu trong quá trình thực thi nhiệm vụ các đơn vị gặp khó khăn hay cần các công cụ, giải pháp thì liên hệ Sở hoặc đặt hàng cho Sở để đi tìm kiếm, nghiên cứu và chuyển giao để mình ứng dụng vào công việc tốt hơn", ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nhung chia sẻ.
Tại lớp tập huấn, ThS. Bùi Tiến Quyết - Trưởng phòng Phòng Đào tạo thông tin, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã giới thiệu cho các học viên những nội dung quan trọng về thông tin sở hữu công nghiệp và các công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghiệp. Cũng như, hướng dẫn tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp nhằm đánh giá tình trạng bảo hộ, mức độ tương tự hoặc khả năng xung đột quyền đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hỗ trợ phục vụ công tác phân tích, đánh giá hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cho các cơ quan thực thi công vụ.
Cụ thể, đối với thông tin sở hữu công nghiệp là thông tin về các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý... chúng bao gồm, thông tin về đơn đăng ký của các đối tượng sở hữu công nghiệp là người nộp đơn, tác giả, số đơn và ngày nộp đơn, đối tượng sở hữu công nghiệp xin đăng ký bảo hộ quyền ưu tiên...; thông tin về xử lý đơn đăng ký là các thông báo, quyết định về thẩm định, công bố đơn, cấp, từ chối cấp văn bằng bảo hộ; thông tin về văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp là chủ văn bằng, số văn bằng, ngày cấp, đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, yêu cầu hoặc phạm vi bảo hộ chử đối tượng sở hữu công nghiệp, thông tin về việc chuyển nhượng, li xăng quyền sở hữu công nghiệp... Đặc điểm của thông tin sở hữu công nghiệp là công cụ giúp vận hành toàn bộ hệ thống bảo hộ sở hữu công nghiệp đạt mục tiêu của hệ thống này và là nguồn lực của chu trình sở hữu trí tuệ, từ khi tạo dựng, phát triển tài sản trí tuệ đến khi xác lập quyền, bảo vệ quyển và thương mại hóa tài sản trí tuệ. Đặc biệt là một trong ba trụ cột của khởi nghiệp sáng tạo cũng như là kết nối các chủ thể trong hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Còn đối với các chủ thể khai thác thông tin sở hữu công nghiệp là các cơ quan quản lý nhà nước; cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp; doanh nghiệp bao gồm các viện nghiên cứu, trường đại học; các tổ chức trung gian như đại diện sở hữu công nghiệp, tư vấn, giám định, định giá...; các hiệp hội, hội nghề nghiệp; các tổ chức, cá nhân khác.
ThS. Bùi Tiến Quyết - Trưởng phòng Phòng Đào tạo thông tin, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ các nội dung về thông tin sở hữu công nghiệp, các công cụ khai thác thông tin và hướng dẫn cách tra cứu thông tin
Dựa trên đó, sẽ có các công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghiệp như các cơ sở dữ liệu thông tin; các bảng phân loại quốc tế về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu; các đĩa quang; công báo sở hữu công nghiệp; sổ đăng bạ quốc gia; cơ sở dữ liệu thông tin về sở hữu công nghiệp của Cục Sở hữu trí tuệ như IPLib, DigiPat, WIPO PUBLISH; nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ như IP PLATFORM; cơ sở dữ liệu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO như PatentScope, Global Design Database, Global Brand Database; cơ sở dữ liệu của quốc gia, khu vực trên thế giới như cơ quan Sở hữu trí tuệ Châu Ân EUIPO, Đông Nam Á Asean, Nhật Bản JPO, Hàn Quốc, Hoa Kỳ USPTO, Trung Quốc...
Các học viên chia sẻ những khó khăn, những vấn đề gặp phải trong quá trình thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với các chuyên gia đến từ Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ
Cũng tại lớp tập huấn, TS. Nguyễn Hữu Cẩn - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã giới thiệu các điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi liên quan đến thực thi quyền sở hữu công nghiệp như: Quyền tự bảo vệ (Điều 198); Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý hình sự (Điều 212); Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ (Điều 213); Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả (Điều 214)... Đồng thời, chia sẻ, hướng dẫn về cách đánh giá yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu cũng như cách thức thực hiện yêu cầu giám định sở hữu công nghiệp và sử dụng kết luận giám định nhằm giúp các cơ quan thực thi có thêm những kiến thức, kỹ năng giải quyết những khó khăn trong quá trình thực thi và những vấn đề thực tiễn cần lưu ý trong giám định, xử lý tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp.
Cụ thể, với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý hình sự theo Điều 212, cá nhân, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hay ở Điều 213 về hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ có nêu, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu hoặc dấu hiệu hoặc tem, nhãn có chứa các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu; hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn dấu hiệu hoặc tem, nhãn có chứa các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó và việc gắn dấu hiệu này được thực hiện bởi tổ chức, cá nhân không có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.
Riêng, việc đánh giá yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hay cách thức thực hiện yêu cầu giám định sở hữu công nghiệp và sử dụng kết luận giám định. TS. Nguyễn Hữu Cẩn cũng lưu ý.
"Kết quả giám định sở hữu trí tuệ là một trong các nguồn chứng cứ để các cơ quan có thẩm quyền xử lý, giải quyết vụ việc tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Việc giám định liên quan đến sở hữu trí tuệ không phải chỉ có giám định sở hữu trí tuệ theo Luật Sở hữu trí tuệ mà còn có hình thức giám định tư pháp", TS. Nguyễn Hữu Cẩn chia sẻ.
TS. Nguyễn Hữu Cẩn - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ trình bày về Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi cũng như chia sẻ, hướng dẫn cách đánh giá yếu tố xâm phạm quyền, yêu cầu giám định và sử dụng kết luận giám định
Được biết, ngoài lớp tập huấn nêu trên, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng sẽ tiếp tục tổ chức lớp tập huấn với chủ đề "Tên thương mại, nhãn hiệu và những vấn đề thực tiễn cần lưu ý trong đăng ký kinh doanh" cho Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng như các đối tượng là cán bộ, công chức phụ trách cấp giấy phép đăng ký kinh doanh và giải quyết tranh chấp tên thương mại của quận huyện và TP. Thủ Đức, diễn ra vào ngày 11/8/2023.
Nhật Linh (CESTI)Trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc tế sẽ được áp dụng chính sách đặc thù của TP.HCM về tiền lương, thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cho các đối tượng thực hiện hoạt động nghiên cứu phát triển trong các lĩnh vực công nghệ ưu tiên.
Ngày 11/8/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức Tọa đàm góp ý Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế”.
Mục tiêu của Đề án nhằm hỗ trợ một số tổ chức khoa học và công nghệ công lập có tiềm lực trên địa bàn Thành phố phát triển trở thành các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế, đống góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Cụ thể, phấn đấu đến cuối năm 2025 có 2 đơn vị tiệm cận trình độ quốc tế, đến năm 2030 có 5 đơn vị tiệm cận, đạt chuẩn quốc tế. Trong đó, việc hình thành và phát triển được các nhóm nghiên cứu mạnh và Trung tâm nghiên cứu đạt trình độ quốc tế đóng vai trò then chốt trong hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, khẳng định vị thế về khoa học và công nghệ của TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung.
Trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc tế là một trong những "đặt hàng" của Bộ Chính trị và Chính phủ cho TP.HCM. Đồng thời, việc thành lập trung tâm cũng gắn với nghị quyết 98 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển ở TP.HCM. Một số ngành trọng điểm được TP.HCM nhắm đến bao gồm công nghệ trí tuệ nhân tạo, công nghệ dữ liệu lớn, robotics, công nghệ tự động hóa, công nghệ in 3D tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ tế bào gốc, công nghệ chế tạo vật liệu nano, vật liệu cho chế tạo linh kiện vi cơ điện tử và cảm biến thông minh, vật liệu bán dẫn…
Dự thảo Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế” tập trung vào ba nội dung chính. Thứ nhất, có chính sách thu hút, giữ chân người tài thông qua ưu đãi về tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; ưu đãi về thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ; hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động khoa học và công nghệ. Thứ hai, phát triển nguồn lực lâu dài thông qua việc giao thực hiện những Chương trình, dự án khoa học công nghệ trung hạn dài hạn. Thứ ba, Đề án nhằm tháo gỡ những rào cản liên quan thông qua có những cơ chế tuyển sinh Chương trình, dự án khoa học và công nghệ, cơ chế tài chính liên quan thông thoáng hơn. Đề án sẽ đóng góp quan trọng vào việc nâng cao vị thế của Thành phố trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo ra những đột phá trong phát triển và ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ đối với sự phát triển bền vững của Thành phố.
Tại Toạ đàm, các chuyên gia, nhà khoa học đã có những góp ý cụ thể xung quanh các tiêu chí phấn đấu trong quá trình xây dựng trung tâm nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế. Nhiều ý kiến cho rằng, muốn phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh lên thành trung tâm xuất sắc, tiêu chí để xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh là phải phát triển được các nhóm nghiên cứu tiềm năng, các nhóm nghiên cứu này phải liên ngành và có sự giao thoa với nhau. Một vấn đề khoa học lớn cần phải liên ngành, quy tụ các nhà khoa học liên ngành, bên cạnh đó nhất là cơ chế dành cho các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài.
Theo Dự thảo Đề án, trong giai đoạn 5 năm, tổ chức khoa học và công nghệ công lập phấn đấu công bố trung bình mỗi năm ít nhất 10 bài báo trên các tạp chí khoa học trong cơ sở dữ liệu Web of Science (Wos), Scopus, ISI; đăng ký hoặc được cấp ít nhất 5 bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích, hoặc 10 bằng bảo hộ giống cây trồng; hoặc 5 bằng độc quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn… Tuy nhiên, theo GS.TS. Nguyễn Thị Thanh Mai (Phó Hiệu trưởng Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG TP.HCM), trong tiêu chí phấn đấu trong quá trình xây dựng trung tâm nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế, ở tiêu chí công bố quốc tế 10 bài báo/năm là hơi nhiều – dù các nhóm nghiên cứu ở trường đại học có thể đạt được tiêu chí này, còn còn tiêu chí 5 bằng độc quyền sáng chế thì lại là câu chuyện rất khó. Còn theo chia sẻ của GS.TS. Nguyễn Kim Lợi (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Đại học Nông Lâm TP.HCM), trong vấn đề nguồn nhân lực, hầu hết các trung tâm nghiên cứu ở các trường đại học làm nhiệm vụ đơn ngành là chính, khó có tính liên ngành. Bên cạnh đó, Trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc tế cũng nên dành ưu tiên cho những nhiệm vụ khoa học công nghệ có kết nối với chuyên gia nước ngoài và có sự gắn kết với doanh nghiệp để tăng được khả năng thương mại hóa.
Ngoài các thủ tục hành chính được đơn giản hóa, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đề xuất Trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc tế sẽ được áp dụng chính sách đặc thù của TP.HCM về tiền lương, thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ cho các đối tượng thực hiện hoạt động nghiên cứu phát triển trong các lĩnh vực công nghệ ưu tiên. Thành phố cũng sẽ ưu tiên đầu tư công về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo cho các tổ chức khoa học công nghệ công lập do Thành phố thành lập tham gia đề án.
Phát biểu tổng kết Tọa đàm, ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết Sở sẽ tiếp tục tiếp nhận góp ý của các chuyên gia, tổ chức về Dự thảo Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế”.
Hoàng Kim (CESTI)
Viên nang giàu flavonoid từ bưởi non vừa giải quyết bài toán phế phẩm bưởi non để tăng thu nhập về kinh tế cho nhà vườn, vừa tạo ra một sản phẩm thực sự có giá trị, hỗ trợ giải quyết một số vấn đề sức khỏe mà xã hội đang quan tâm như thừa cân, béo phì, béo bụng và cả rối loạn mỡ máu, mỡ gan.
Thực tế cho thấy, bưởi là loại cây ăn quả được trồng phổ biến ở nhiều địa phương của nước ta. Để vườn bưởi đạt hiệu quả cao, trong quá trình chăm sóc, nhà vườn thường phải loại bỏ bớt khoảng 1/3 số trái bưởi non. Bưởi non bị thải loại thường bị vứt bỏ ngay trong vườn hoặc ném dưới kênh rạch, có thể khiến đất bị chua, và ngoài ra thì bưởi non khi bị phân hủy lại tăng mầm bệnh hại cây và gây ô nhiễm trực tiếp lên môi trường sống xung quanh khu vực trồng trọt, canh tác.
Trong khi đó, theo Đông y và các bài thuốc dân gian, vỏ bưởi cũng như cùi bưởi chứa rất nhiều thành phần như flavonoid, tinh dầu và pectin có lợi cho sức khỏe, hỗ trợ điều trị thừa cân béo phì, gan nhiễm mỡ, chống oxy hóa. Bưởi non lại có tỷ lệ cùi bưởi lớn nên hàm lượng hoạt chất cao, cần được tận dụng.
Trên tinh thần đó, nhóm nhà khoa học công tác Trung tâm Khoa học Công nghệ Dược Sài Gòn (SAPHARCEN) đã triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu sản xuất viên nang giàu flavonoid hỗ trợ điều trị rối loạn lipid máu và giảm béo phì từ nguồn bưởi non dư phẩm” nhằm góp phần tận dụng nguồn nguyên liệu bưởi non phế phẩm, mang lại lợi ích kinh tế cho nhà nông, góp phần phát triển một sản phẩm chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Viên nang Pompose giàu flavonoid từ bưởi non
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KHCN TP.HCM tổ chức, GS.TS Lê Minh Trí là chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết: các nhà khoa học SAPHARCEN thực hiện đã tiến hành phân lập và tinh chế naringin (là một flavonoid tan tốt trong nước nóng nhưng hầu như không tan trong nước lạnh, làm cho nước bưởi có vị đắng) từ bột bưởi non dựa trên độ tan, bằng cách hòa tan naringin thô trong nước nóng và kết tinh lại ở nhiệt độ lạnh, tạo thành cao bưởi non giàu flavonoid. Cao có thể chất lỏng sánh, màu nâu đồng nhất, có vị đắng và có mùi đặc trưng, không phát hiện kim loại nặng (Pb, Cd, Hg), không phát hiện dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật. Cao bưởi non giàu flavonoid sau đó được chia theo từng lọ với khối lượng 1,2 g/lọ, tương đương với 50mg naringin. Trong đó, 1mg cao bưởi non chứa 0,19mg naringin.
Cao bưởi non giàu flavonoid thành hình sau khi phân lập và tinh chế naringin
Trong quá trình tinh chế, nhóm thực hiện sử dụng thêm một ít cồn trước khi kết tinh nhằm thúc đẩy sự hình thành mạng lưới tinh thể. Ngoài ra, việc rửa với cồn lạnh sau khi lọc tủa kết tinh sẽ tránh thất thoát một lượng naringin đáng kể, đồng thời loại đi những tạp chất bám trên bề mặt tinh thể naringin. Lặp lại giai đoạn tinh chế càng nhiều lần, naringin thu được càng có độ tinh sạch cao, nhưng lượng naringin mất đi cũng càng nhiều, sẽ dẫn đến hiệu suất giảm tương ứng.
Còn trong quy trình chiết xuất flavonoid ở quy mô pilot (20 kg/lô) và quy mô công nghiệp (100 kg/lô), dung môi chiết xuất ethanol được lựa chọn để hòa tan naringin, đồng thời hạn chế bớt sự hòa tan của pectin và tạp màu nên thu được sản phẩm đồng nhất, có hiệu suất và hàm lượng naringin cao (hiệu suất phân lập naringin đạt 4,3% và độ tinh khiết đạt đến 99,6%).
Quy trình chiết xuất cao bưởi non giàu flavonoid
Nhóm thực hiện tiến hành thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao bưởi non được tiến hành trên mô hình gây tổn thương gan chuột bằng CCl4. Sau khi tiêm CCl4 liều 1 ml/kg, nồng độ ALT, AST tăng cao ở thời điểm sớm nhưng giảm dần trở về mức bình thường, điều này phù hợp do ALT, AST được dùng để đánh giá viêm gan ở giai đoạn sớm. Cao bưởi non bắt đầu thể hiện hoạt tính giảm hoại tử gan ở thời điểm 14 ngày, nên có thể kết luận cao bưởi non hỗ trợ quá trình phục hồi gan, giúp giảm tỷ lệ hoại tử của gan.
Trong thử nghiệm tác dụng chống rối loạn lipid máu được tiến hành trên mô hình gây rối loạn lipid bằng tyloxapol, ở liều 1,3 g/kg và 5,2 g/kg, cao bưởi non có tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần và triglycerid. Cao bưởi non ở liều 5,2 g/kg có tác dụng làm tăng HDL-C so với nhóm bệnh. Ở liều thấp hơn 1,3 g/kg, cao bưởi non không thể hiện tác dụng cải thiện HDL-C so với nhóm bệnh. Chỉ số LDL-C ở nhóm tiêm tyloxapol có điều trị với cao bưởi non và viên nang bưởi non liều 5,2 g/kg giảm so với nhóm chứng bệnh có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ cao bưởi non liều 5,2 g/kg có khả năng làm giảm LDL-C trong mô hình tiêm tyloxapol.
Mặt khác, tác dụng chống béo phì được thử nghiệm trên mô hình gây béo phì cho chuột bằng chế độ ăn giàu chất béo. Cao bưởi non giúp làm giảm trọng lượng của chuột hiệu quả sau gần 30 ngày điều trị. Cao bưởi non làm giảm cholesterol toàn phần và triglycerid. Tuy nhiên ở LDL-C, chỉ nhóm điều trị với cao bưởi non liều 5,2 g/kg khác biệt có ý nghĩa so với nhóm bệnh.
Để thuận tiện cho người sử dụng, nhóm thực hiện đã triển khai sản xuất viên nang bưởi non (được đặt tên là viên nang Pompose) từ cao chiết bưởi non (phối hợp cùng một số tá dược) trên dây chuyền công nghệ của Công ty Dược phẩm Boston với thiết kế nhà xưởng đạt yêu cầu theo GMP.
Quy trình chiết cao bưởi non làm nguyên liệu sản xuất viên nang Pompose đạt hiệu suất 35%, cao chiết giàu flavonoid với hàm lượng naringin 20% và flavonoid toàn phần 30%. Nhóm thực hiện cũng đã xây dựng quy trình bào chế viên nang bưởi non 250mg quy mô công nghiệp 100.000 viên/mẻ.
Lưu đồ sản xuất viên nang bưởi non quy mô 100.000 viên/l
Tính chất của viên nang Pompose không bị biến đổi sau 12 tháng ở điều kiệu bảo quản dài hạn (nhiệt độ 30 ± 2 độ C, độ ẩm tương đối 75 ± 5%) và sau 6 tháng ở điều kiện cấp tốc (nhiệt độ 40 ± 2 độ C, độ ẩm tương đối 75 ± 5%). Hàm lượng naringin không thay đổi đáng kể so với hàm lượng ban đầu của các lô. Đề nghị hạn dùng là 2 năm kể từ ngày sản xuất. Điều kiện bảo quản được xác định là nơi khô, tránh ánh sáng, nhiệt độ dưới 30 độ C.
Phối trộn tá dược, sản xuất viên nang bưởi non
TS.DS. Nguyễn Hữu Lạc Thủy (thành viên nhóm triển khai nhiệm vụ) cho biết trên thị trường hiện nay, các sản phẩm giảm cân từ bưởi nói chung chỉ tập trung khai thác dịch ép bưởi, vỏ bưởi sấy. Vì thế, sản phẩm viên nang Pompose giàu flavonoid từ bưởi non (hàm lượng flavonoid ở giai đoạn bưởi non đã được chứng minh dồi dào hơn so với bưởi chín) là một hướng đi rất khác so với số đông, vừa giải quyết bài toán phế phẩm bưởi non để tăng thu nhập về kinh tế cho nhà vườn, vừa tạo ra được một sản phẩm thực sự có giá trị, hỗ trợ giải quyết vấn đề nhức nhối hiện nay của xã hội là thực trạng thừa cân, béo phì, béo bụng và cả rối loạn mỡ máu, mỡ gan. Mặt khác, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu sản xuất viên nang giàu flavonoid hỗ trợ điều trị rối loạn lipid máu và giảm béo phì từ nguồn bưởi non dư phẩm” có nguồn gốc 100 % từ thiên nhiên, sử dụng công nghệ chiết xuất chọn lọc giúp tinh chất được các nhóm hoạt chất chính có tác dụng, loại bỏ các tạp chất có hại cho sức khỏe, sau đó phối hợp các thành phần lại với nhau ở tỷ lệ thích hợp, giúp nâng cao hiệu quả giảm cân, hạ lipid và cải thiện thời gian sử dụng.
Có thể khẳng định, kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được các nhà khoa học tại SAPHARCEN đã mở ra hướng tiếp cận mới cho việc tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn tại nhiều địa phương, trực tiếp thúc đẩy nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, đồng thời gián tiếp tạo ra nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định cho quy trình một loại thực phẩm chức năng hữu dụng, giúp hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ, hạ mỡ máu cũng như thúc đẩy giảm cân.
Chia sẻ thêm về kế hoạch tiếp theo để đưa kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ phục vụ trực tiếp cho người dân và xã hội, TS.DS. Nguyễn Hữu Lạc Thủy cho biết hiện nay sản phẩm Pomsome đã được Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) cấp giấy tiếp nhận công bố đăng ký sản phẩm số 4859/2023/ĐKSP. "Hiện nhóm nghiên cứu cũng đang tích cực phối hợp với đơn vị sản xuất là Công ty Dược phẩm Boston để hoàn thiện tính toán giá thành sản phẩm, chiến lược marketing để sớm đưa sản phẩm ra thị trường", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ thông tin. |
Thông tin liên hệ: E-mail: sapharcen@yahoo.com Website: http://www.uphcm.edu.vn |
Sở KHCN TP.HCM vừa tổ chức hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ “Phân tích Luật Sáng chế của 3 đối tác thương mại quan trọng với Việt Nam theo khuôn khổ thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Nhật Bản, Úc, Canada; và đưa ra các khuyến nghị về quản trị sáng chế đối với các chủ thể Việt Nam”. Đây là nhiệm vụ do Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức chủ trì thực hiện.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có 30 chương, trong đó chương 18 là chương cam kết về sở hữu trí tuệ (SHTT). Từ nhiều năm nay, nội dung SHTT trong các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương (các FTA) thường được hướng dẫn dưới dạng “các cam kết về SHTT mà Việt Nam phải thực thi”.
Tuy nhiên, các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị sáng chế và tài sản SHTT cho rằng góc nhìn đó thường vô tình bỏ qua và không đề cập đến khía cạnh rằng pháp luật và các giao kết về SHTT có bản chất là giúp “hưởng lợi từ kết quả sáng tạo và sự độc quyền khai thác kết quả sáng tạo”, qua đó kích thích hoạt động sáng tạo trong nước lẫn trong thương mại quốc tế.
Theo lời đại diện Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức, thì “thực thi các cam kết về SHTT” chỉ là công cụ thiết yếu có tính hệ quả, không phải là mục tiêu cơ bản của pháp luật SHTT nói chung và của các giao kết về SHTT trong các FTA nói riêng.
Thạc sỹ Nguyễn Thị Anh Xuân, chủ nhiệm nhiệm vụ “Phân tích Luật Sáng chế của 3 đối tác thương mại quan trọng với Việt Nam theo khuôn khổ thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Nhật Bản, Úc, Canada; và đưa ra các khuyến nghị về quản trị sáng chế đối với các chủ thể Việt Nam” cho biết, tại TP.HCM, từ năm 2008, Sở KHCN TP.HCM đã phối hợp cùng Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ (VIPRI) thuộc Bộ KHCN tổ chức Chương trình quản trị viên tài sản trí tuệ (IAM) và chương trình này vẫn tiếp tục triển khai.
(ảnh minh họa)
Mục tiêu của chương trình là bổ sung nguồn nhân lực thực hành về SHTT tại các đơn vị cơ sở (doanh nghiệp, trường, viện…) dưới dạng các nội dung tác nghiệp về quản trị kinh doanh các sản phẩm trí tuệ, trong đó các thao tác pháp lý về xác lập quyền và bảo vệ quyền SHTT là không thể thiếu nhưng rất nên vận dụng dịch vụ sẵn có của hệ thống tư vấn hoặc đại diện về SHTT. Khía cạnh được chương trình IAM tập trung hướng dẫn là các giao kết kinh doanh để khai thác giá trị của các tài sản trí tuệ (TSTT), trong đó có các sáng chế.
Toàn cảnh buổi nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Trong 11 quốc gia thành viên của CPTPP, thì Nhật Bản, Úc và Canada là 3 quốc gia có hệ thống pháp luật sáng chế lâu đời và phát triển nhất; đồng thời cũng thuộc nhóm đối tác thương mại quan trọng nhất trước mắt và trong tương lai với Việt Nam. Vì thế, việc cung cấp các thông tin chi tiết hơn về pháp luật sáng chế của 3 quốc gia này đến các chủ thể sáng tạo và kinh doanh của Việt Nam sẽ giúp cá nhân, tổ chức Việt Nam chủ động hơn trong việc:
- Đăng ký xác lập quyền đối với sáng chế của mình trên lãnh thổ các nước bạn, nhằm mở rộng thị trường kinh doanh độc quyền đối với các giải pháp kỹ thuật mới của mình (khía cạnh SHTT);
- Xúc tiến bảo vệ quyền trong trường hợp bị xâm phạm (khía cạnh SHTT);
- Tổ chức khai thác quyền trên lãnh thổ các nước bạn qua việc vận dụng các kỹ thuật quản trị kinh doanh TSTT như: lưu chứng và ghi nhận sản phẩm trí tuệ mới phát sinh, giao kết về quyền đăng ký sản phẩm trí tuệ mới, giao kết về bảo mật kết quả sáng tạo hoặc nghiên cứu, thẩm định giá TSTT để phục vụ triển khai kinh doanh, giao kết li-xăng và góp vốn bằng TSTT… (khía cạnh IAM).
Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ cho biết đã khảo sát Luật Sáng chế Nhật Bản, Úc và Canada, đồng thời Việt hóa các văn bản luật. Nhóm cũng đã triển khai xây dựng báo cáo chuyên đề tổng quan về các quy định liên quan đến sáng chế trong CPTPP và Luật Sáng chế của 3 đối tác thương mại nêu trên.
Tiếp theo, nhóm thực hiện tuần tự so sánh đối chiếu những nội dung cơ bản trong pháp luật sáng chế của Nhật Bản, Úc và Canada với pháp luật sáng chế Việt Nam trong việc đăng ký sáng chế tại ba nước của các chủ thể Việt Nam nhằm xác định các điểm khác biệt (định nghĩa sáng chế, đối tượng được bảo hộ sáng chế, điều kiện bảo hộ, thủ tục bảo hộ, phí và lệ phí bảo hộ) trong việc đăng ký sáng chế ở Việt Nam so với 3 đối tác thương mại.
Các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ trao đổi với đại diện nhóm chuyên gia do Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức
Nhóm thực hiện đã phân tích ảnh hưởng của sự khác biệt trong pháp luật sáng chế của ba nước Nhật Bản, Úc và Canada với pháp luật sáng chế Việt Nam trong hoạt động quản trị sáng chế của các cá nhân, tổ chức Việt Nam khi tham gia thương mại và nghiên cứu phát triển ở từng nước. Từ đó, đưa ra các khuyến nghị về quản trị sáng chế. Đồng thời, khảo sát, tổng hợp và phân tích các dữ liệu, thông tin và tài liệu về thực trạng và số lượng đơn đăng ký sáng chế của ba nước Nhật Bản, Úc và Canada vào Việt Nam và của Việt Nam vào ba nước trong 11 năm (từ năm 2011 đến năm 2021).
Thêm vào đó, nhóm thực hiện cũng đã biên soạn hoàn tất tài liệu Hướng dẫn vận dụng pháp luật sáng chế của ba nước (Nhật Bản, Úc, Canada), tổng hợp các khuyến nghị về quản trị sáng chế với các chủ thể Việt Nam trong quan hệ với các đối tác thương mại này khi tham gia CPTPP.
"Đây sẽ là nguồn thông tin tham khảo quan trọng cho các cá nhân, tổ chức Việt Nam trước quyết định vươn ra quốc tế", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khẳng định.
Thạc sỹ Anh Xuân cũng cho biết thêm, về mặt khoa học, nhiệm vụ đã đóng góp thêm một số lập luận về quản trị sáng chế vào lý luận quản trị TSTT hiện còn rất mới tại Việt Nam mà nói chung, hiện vẫn chưa được các trường đại học Việt Nam đưa vào chương trình giảng dạy chính khóa. Về mặt thực tiễn, kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên đã cung cấp thêm cho các nhà sáng chế và các chủ thể đầu tư vào việc tạo ra sáng chế một số công cụ quản trị kinh doanh trong các hoạt động thương mại, đầu tư và R&D, dựa trực tiếp trên các quy định của Luật Sáng chế Nhật Bản, Úc và Canada.
Là một phần của nhiệm vụ, thạc sỹ và nhóm chuyên gia tại Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức cũng đưa ra kiến nghị rằng, để góp phần tăng trưởng lượng đơn đăng ký sáng chế của các chủ thể Việt Nam tại chính Việt Nam và ra nước ngoài, trong đó có Nhật Bản, Úc và Canada, trong tương lai gần cũng như trong dài hạn; kiến thức về sáng chế và bảo hộ sáng chế nên sớm được đưa vào hệ thống giáo dục, cả dưới dạng các chương trình tập huấn lẫn các hoạt động phong trào qua các cấp học từ tiểu học đến đại học; theo kinh nghiệm tổ chức rất đa dạng tại các quốc gia phát triển. Các chương trình và phong trào như trên có vai trò rất quan trọng trong việc bình dị hóa và phổ cập hóa pháp luật SHTT nói chung, pháp luật sáng chế nói riêng đến giới học sinh, sinh viên và song song đó là đến giới chức quản lý giáo dục, góp phần thúc đẩy văn hóa sáng tạo trong học đường, chuẩn bị sẵn cho học sinh và sinh viên các nhận biết về vai trò của SHTT và sáng chế trong nghiên cứu phát triển và sản xuất kinh doanh, khơi gợi sự quan tâm của giới chức giáo dục đến hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ nhiều cho các giảng viên và sinh viên về kỹ năng kinh doanh và đầu tư vào sáng chế và các loại tài sản trí tuệ khác.
Bên cạnh đó, nhóm kiến nghị, các chủ thể sáng tạo và các chủ thể đầu tư cho phát triển công nghệ cần được hỗ trợ tiếp cận kiến thức cơ bản về bảo hộ sáng chế, không chỉ các thủ tục cần thực hiện, mà cả ý nghĩa kinh tế của các sáng chế và các cơ chế giao kết kinh doanh sáng chế. Bên cạnh việc tuyên truyền pháp luật SHTT doViệt Nam đã được thực hiện từ nhiều năm qua, đại diện Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức nhấn mạnh rằng đã đến thời điểm phổ cập pháp luật sáng chế nước ngoài, ưu tiên là của các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam theo các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương nhằm cung cấp thêm góc nhìn mở rộng về vai trò của pháp luật sáng chế trong cách tiếp cận quốc tế, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển; vừa là bước chuẩn bị cho bước bùng phát của hoạt động và thị trường sáng chế Việt Nam.
Thông tin liên hệ: Viện Quản trị Tài sản trí tuệ Minh Đức Điện thoại: 0919042442 - 0937463 761 Email: xuananh.ngth@gmail.com Website: minhduciami.vn |
Chuyên mục “Chuyển đổi số tiêu chuẩn đo lường chất lượng” được triển khai bằng hình thức trực tuyến, giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu và trao đổi các thông tin trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TCĐLCL).
Chuyên mục “Chuyển đổi số tiêu chuẩn đo lường chất lượng” do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) xây dựng và triển khai tại địa chỉ chuyendoiso.chicuctdc.gov.vn. Đây là một trong những hoạt động nhằm góp phần thực hiện các chương trình, kế hoạch của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM về chuyển đổi số, qua đó góp phần thúc đẩy xây dựng chính quyền số, phục vụ đô thị thông minh tại TP.HCM.
Theo Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, chuyên mục được triển khai nhằm hỗ trợ kết nối, chia sẻ thông tin giữa doanh nghiệp, trường viện và cơ quan quản lý nhà nước; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng; hỗ trợ nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TCĐLCL; giúp các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin, đề xuất cải tiến, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về TCĐLCL.
Chuyên mục gồm các khối thông tin được chia theo chủ đề và được kết nối trực tiếp đến các trang thông tin, cổng thông tin có liên quan trong lĩnh vực TCĐLCL, giúp người dùng tra cứu, tìm kiếm, tiếp cận thông tin nhanh chóng, dễ dàng. Cụ thể gồm các khối thông tin như danh bạ thông tin, TCVN/QCVN, trao đổi thảo luận, tin tức – sự kiện, phổ biến kiến thức, mô hình thành công, video hỗ trợ doanh nghiệp, thủ tục hành chính.
Các khối thông tin tại Chuyên mục “Chuyển đổi số tiêu chuẩn đo lường chất lượng”
Trong đó, khối thông tin “danh bạ thông tin” cho phép tìm kiếm các đơn vị, tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn công nghệ và chuyển giao công nghệ; khối thông tin TCVN/QCVN giúp tra cứu, tìm kiếm các thông tin về tiêu chuẩn quốc gia TCVN, cơ sở dữ liệu các ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam, các thông tin về dự án xây dựng TCVN, về các dự thảo tiêu chuẩn quốc tế do Việt Nam tham gia xây dựng, các thông tin khác về hoạt động xây dựng và áp dụng TCĐLCL,…
Đặc biệt, khối thông tin “trao đổi thảo luận” được kết nối trực tiếp đến chuyên trang thảo luận công nghệ nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp, chuyên gia và nhà cung ứng có thể trao đổi, chia sẻ, tư vấn về các vấn đề công nghệ trong nghiên cứu, sản xuất kinh doanh. Tại đây, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng TP.HCM trực tiếp trao đổi, giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp về các vấn đề liên quan trong lĩnh vực TCĐLCL.
Nhiều chủ đề thảo luận, hỏi đáp đã diễn ra ngay trên trang như quy định kinh doanh sản phẩm đất nặn nhập khẩu theo mã HS code 3407; hướng dẫn quy trình và các chứng từ cần thiết để nhập khẩu mặt hàng thiết bị camera, cảm biến,… (các thiết bị có kết nối wifi và có phát tần số); hướng dẫn công bố phù hợp tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cồn trong lĩnh vực gia dụng; hướng dẫn cách ghi khối lượng trên nhãn thực phẩm, cách thể hiện nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa là nguyên liệu thực phẩm, ghi xuất sứ sản phẩm; công bố chất lượng đối với sản phẩm thuốc thử phát hiện các tác nhân gây bệnh trên tôm; giải đáp các thắc mắc về dấu định lượng V, đăng ký kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu trên Cổng thông tin một cửa Quốc gia; hướng dẫn cách nhận dạng chính xác phương tiện đo nhóm 2 phù hợp với Quyết định phê duyệt mẫu; hướng dẫn về ghi nhãn hàng hóa (sản phẩm tinh dầu và nến thơm) phù hợp quy định của Nghị định số 111/2021/NĐ-CP; doanh nghiệp thực hiện công bố dấu định lượng; cung cấp thông tin về danh mục phương tiện đo nhóm 2 trong lĩnh vực y tế;…
Chuyên trang thảo luận công nghệ với nhiều nội dung, chủ đề doanh nghiệp quan tâm được Chi cục Tiêu chuẩn Đo Lường Chất lượng giải đáp
Được biết, để triển khai Quyết định số 2393/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân TP.HCM về phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020-2025”, Sở Khoa học và Công nghệ đã ban hành Kế hoạch số 2425/KH-SKHCN ngày 25 tháng 9 năm 2020 thực hiện Chương trình Chuyển đổi số của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020-2025 và Kế hoạch số 1084/KH-SKHCN ngày 27 tháng 4 năm 2022 về thực hiện Chương trình Chuyển đổi số của Thành phố Hồ Chí Minh và Đề án Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh, đồng thời phát động phong trào thi đua thực hiện chuyển đổi số cơ bản, toàn diện tại Sở nhằm thúc đẩy xây dựng chính quyền số, phục vụ đô thị thông minh và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV.
Trong đó, các nội dung thi đua tập trung vào 7 nhiệm vụ chính gồm (1) Xây dựng và phát triển nền tảng trực tuyến hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ (KH&CN) tại TP.HCM; (2) Phát triển hệ thống quản lý nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; (3)Phát triển hệ thống thu thập và cung cấp thông tin KH&CN phục vụ nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo (trên cơ sở Hệ thống liên kết nguồn lực thông tin KH&CN); (4) Xây dựng nền tảng trực tuyến kết nối, chia sẻ thông tin về lĩnh vực quản lý chất lượng, quản lý đo lường, quản lý tiêu chuẩn và hàng rào kỹ thuật trong thương mại, quản lý năng suất chất lượng; (5) Phát triển các ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) phục vụ quản lý nhà nước và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội; (6) Hỗ trợ chuyển đổi số cho các quận, huyện trong chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực công; (7) Hoàn thiện hệ thống các công cụ phục vụ công tác cải cách hành chính, truyền thông. Các phòng chức năng, đơn vị trực thuộc Sở là đối tượng tham gia thực hiện các nội dung thi đua này, thời gian thực hiện từ năm 2022 – 2025.
Chuyên mục Chuyển đổi số TCĐLCL là một trong những hoạt động triển khai nội dung thi đua (4) nhằm tạo lập môi trường liên kết các thành phần trong hệ sinh thái đo lường, chất lượng; xây dựng nền tảng kết nối trực tuyến giúp chia sẻ các thông tin và dịch vụ trong lĩnh vực quản lý đo lường chất lượng; hỗ trợ doanh nghiệp, các đơn vị cung cấp dịch vụ và cơ quan quản lý nhà nước về các tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật trong thương mại và quản lý, cải tiến năng suất chất lượng.
Lam Vân (CESTI)
Tiêu chuẩn TCVN 13274:2020 hướng dẫn định dạng các mã dùng cho truy vết và TCVN 13275:2020 hướng dẫn định dạng vật mang dữ liệu, ứng dụng trong truy xuất nguốn gốc (TXNG) sản phẩm, hàng hóa.
Trong hai ngày 27&28/7/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp với Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia và Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tổ chức lớp tập huấn, phổ biến, hướng dẫn về các quy định, tiêu chuẩn quốc gia liên quan đến TXNG sản phẩm, hàng hóa.
Theo bà Võ Đình Liên Ngọc (Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – Sở KH&CN TP.HCM), lớp tập huấn này nằm trong kế hoạch năm 2023 của Sở KH&CN nhằm thực hiện theo Quyết định số 1659/QĐ-UBND ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Ủy ban Nhân dân TP.HCM về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc trên địa bàn TP.HCM năm 2023. Trong khuôn khổ lớp tập huấn, các báo cáo viên của Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia sẽ giới thiệu, phổ biến các tiêu chuẩn quốc gia về định dạng các mã dùng cho truy vết (TCVN 13274:2020) và tiêu chuẩn quốc gia về định dạng vật mang dữ liệu (TCVN 13275:2020). Đây là 2 nội dung quan trọng giúp các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nắm bắt các thông tin, quy định liên quan để có định hướng phù hợp và triển khai áp dụng hệ thống TXNG được tốt hơn.
Bà Võ Đình Liên Ngọc (Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – Sở KH&CN TP.HCM) phát biểu khai mạc lớp tập huấn
Bà Ngọc cho biết, thực hiện Quyết định 100/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triến khai, áp dụng và quản lý hệ thống TXNG, UBND TP.HCM đã ban hành Kế hoạch triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống TXNG trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2021 – 2030 tại Quyết định số 1039/QĐ-UBND. Thành phố giao Sở KH&CN là cơ quan thường trực chủ trì phối hợp với các sở ban ngành triển khai thực hiện kế hoạch. UBND Thành phố cũng đã ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai TXNG trên địa bàn TP.HCM theo Quyết định 1383/QĐ-UBND. Thực hiện quyết định này, TP.HCM đã và đang triển khai áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia về TXNG đối với 3 nhóm sản phẩm thịt heo, thịt gia cầm, trứng gia cầm. Trong năm 2022, Sở KH&CN TP.HCM cũng đã tổ chức các lớp tập huấn phổ biến, hướng dẫn cụ thể về các tiêu chuẩn TCVN 12850:2019 (yêu cầu chung đối với hệ thống TXNG), TCVN 12827:2019 (yêu cầu đối với chuỗi cung ứng rau quả tươi), TCVN 13166-1:2020 (yêu cầu đối với chuỗi cung ứng thịt gia súc và gia cầm),... Thời gian tới sẽ tiếp tục mở rộng ra các nhóm sản phẩm khác như rau củ quả tươi (bao gồm sản phẩm xoài cát), động vật giáp xác, tôm, thủy sản, tổ yến,...
Tại lớp tập huấn, các báo cáo viên của Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia đã trình bày các nội dung tổng quan TXNG ứng dụng mô hình TXNG theo tiêu chuẩn TCVN; tổng quan về tiêu chuẩn quốc gia TCVN mã số mã vạch và TXNG; giới thiệu cổng thông tin TXNG sản phẩm hàng hóa quốc gia; giới thiệu và hướng dẫn áp dụng TCVN 13274:2020, TCVN 13275:2020.
Ông Hoàng Quốc Việt (Báo cáo viên của Trung tâm Mã số Mã vạch Quốc gia) trình bày tại lớp tập huấn
Theo đó, TCVN 13274 hướng dẫn định dạng các mã dùng trong truy vết hệ thống TXNG và TCVN 13275 định dạng vật mang dữ liệu để mã hóa các mã truy vết do Ban Kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/GS1 Mà số mã vạch và TXNG biên soạn. Tiêu chuẩn TCVN 13274 đưa ra các yêu cầu đối với mã truy vết vật phẩm (dãy số hoặc số và chữ được dùng để định danh vật phẩm ở các công đoạn sản xuất, kinh doanh trong quá trình TXNG); mã truy vết vận chuyển (dãy số hoặc số và chữ được dùng để định danh các đơn vị logistic ở các công đoạn sản xuất, kinh doanh trong quá trình TXNG); mã truy vết địa điểm (dùng để định danh địa điểm diễn ra sự kiện ở các công đoạn sản xuất, kinh doanh trong quá trình TXNG); mã truy vết tài sản (dùng để định danh tài sản ở các công đoạn sản xuất, kinh doanh trong quá trình TXNG).
Lớp tập huấn dành cho đối tượng học viên đến từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, sở, ban, ngành, UBND quận/huyện trên đia bàn TP.HCM
Tiêu chuẩn TCVN 13275 quy định về định dạng vật mang dữ liệu để mã hóa các mã truy vết được sử dụng trên các dạng bao gói và hộp/vật đựng đặc thù của sản phẩm, hàng hóa trong chuỗi TXNG. Tiêu chuẩn này đưa ra định nghĩa “định dạng” là cách thức bố trí, kiểu dáng của các thành phần; “vật mang dữ liệu” là thiết bị hoặc phương tiện được dùng để lưu trữ dữ liệu theo dạng cơ chế chuyển tiếp trong hệ thống AIDC (kỹ thuật thu thập và định danh tự động). Đồng thời đưa ra các yêu cầu chung về mã vạch một chiều (mã vạch EAN/UPC, mã vạch ITF, mã vạch GS1 128/Code 128,…) và mã vạch hai chiều (mã QR Code, mã Datamatrix).
Hiện nay Bộ KH&CN đã công bố 23 tiêu chuẩn quốc gia về TXNG, trong năm 2023 sẽ công bố thêm 10 tiêu chuẩn, nâng tổng số lên 33 tiêu chuẩn quốc gia về TXNG. Đồng thời, Bộ cũng đang vận hành thử nghiệm cổng thông tin TXNG sản phẩm hàng hóa quốc gia, dự kiến cuối năm 2023 sẽ đưa vào vận hành chính thức. Đây là những điều kiện thuận lợi, khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp triển khai hệ thống TXNG áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia để đảm bảo công khai, minh bạch các thông tin TXNG của sản phẩm, hàng hóa trên thị trường; đảm bảo chất lượng, tính an toàn của sản phẩm, hàng hóa, tăng cường tính giám sát, góp phần xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Lam Vân (CESTI)
Ngày 20/7, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM tổ chức Hội nghị sơ kết công tác 06 tháng đầu năm 2023 và giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Sở Khoa học và Công nghệ lần thứ XIII nhiệm kỳ 2020 – 2025.
Báo cáo tại Hội nghị, bà Chu Vân Hải (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) cho biết trong 6 tháng đầu năm 2023, Sở đã hỗ trợ cho 1.069 doanh nghiệp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo (đạt 118,78% chỉ tiêu kế hoạch năm, lũy kế đạt 204% chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025), 82 dự án ươm tạo - phát triển khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (đạt 27,33% chỉ tiêu kế hoạch năm, lũy kế đạt 77,5% chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025); 35 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiếp cận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm (đạt 116,67% chỉ tiêu kế hoạch năm, lũy kế đạt 271% chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025).
Thực hiện 6 Chương trình phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, trong 6 tháng đầu năm 2023, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM tổ chức đánh giá kết quả cho 3 nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước, trong đó có 2 nhiệm vụ được đánh giá đạt; tổ chức triển khai 33 nhiệm vụ mới với tổng kinh phí thực hiện là 74,9 tỷ đồng (trong đó kinh phí từ ngân sách là 62,6 tỷ đồng, nguồn khác là 12,3 tỷ đồng); tổ chức giám định 22 nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các nhiệm vụ đều được đánh giá đạt và tiếp tục thực hiện giai đoạn 2; tổ chức nghiệm thu 26 nhiệm vụ khoa học và công nghệ, 100% nhiệm vụ có kết quả được ứng dụng.
Về hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tại khu vực công, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM thực hiện chuyển giao bộ công cụ quản lý chợ nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước với UBND Quận 3, Quận 4, Quận 7, Quận 10, Nhà Bè, thành phố Thủ Đức. Một số kết quả ứng dụng khoa học công nghệ nổi bật trong 6 tháng đầu năm gồm: UBND Quận 6 ra mắt “Ứng dụng kết nối giao thương trực tuyến 4.0” tại địa chỉ kinhtequan6.com, UBND Quận 1 ra mắt giải pháp “Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (WEBGIS) quản lý hộ kinh doanh theo thời gian thực” và giải pháp “Cấp giấy phép điện tử đối với thủ tục cấp giấy phép sử dụng tạm vỉa hè và cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh trên địa bàn Quận 1”, UBND Quận 12 tổ chức Lễ Công bố phần mềm ứng dụng công nghệ GIS và viễn thám trong công tác quản lý lĩnh vực tài nguyên - môi trường và đô thị. Các quận huyện, thành phố Thủ Đức cũng đã chủ động tổ chức các hoạt động nhằm tạo sân chơi khoa học công nghệ cho sinh viên, học sinh, thanh thiếu nhi nhân dịp chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5.
Giai đoạn 2021- 2023, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM đã tham mưu UBND Thành phố ban hành nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới, góp phần thúc đẩy đầu tư của xã hội cho hoạt động khoa học và công nghệ. Hiện nay, hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo TPHCM ngày càng lớn mạnh và đang tiến gần đến Top 100 Thành phố có hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo năng động nhất toàn cầu.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi ghi nhận những kết quả Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM đã đạt được thời gian qua. Ông Phan Văn Mãi lưu ý, TPHCM là trung tâm, nơi hội tụ các nguồn lực, vì vậy hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo phải phát triển cao hơn. Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM cần phát huy các cơ chế từ Nghị quyết 98 của Quốc hội, kết nối hợp tác quốc tế, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất về cơ chế, chính sách, đầu tư phát triển hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực về khoa học công nghệ, đồng thời mở rộng việc thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo khu vực công, đề ra các giải pháp thực hiện để mang lại hiệu quả cao nhất, từ đó phát huy đúng vị trí, vai trò của ngành khoa học công nghệ.
Trong thời gian 6 tháng cuối năm 2023 và những năm tiếp theo, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM đặt mục tiêu phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố đề ra là đầu tư của xã hội cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt 1% GRDP, nâng tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP đạt trên 45%. Cùng với đó là tổ chức triển khai có hiệu quả Kế hoạch Thúc đẩy đổi mới sáng tạo khu vực công của Thành phố, trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các sở ngành, quận huyện và thành phố Thủ Đức xây dựng các chương trình, dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm hỗ trợ các đơn vị thực hiện có hiệu quả chuyển đổi số, nâng cao năng suất lao động và chất lượng phục vụ. Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM cũng tiếp tục đẩy mạnh hoạt động Sàn giao dịch công nghệ và đổi mới sáng tạo của Thành phố, tăng cường kết nối vùng, đồng thời sớm tham mưu trình Chính phủ Đề án kết nối sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại TPHCM.
Hoàng Kim (CESTI)
Từ nguồn nguyên liệu là quả dứa dại Bắc bộ sẵn có và dễ canh tác, các nhà khoa học đã nghiên cứu và hoàn thiện quy trình chiết xuất cao toàn phần có tác dụng kháng viêm và bảo vệ gan hiệu quả.
Thực tế cho thấy, trái dứa dại tại Việt Nam có nhiều loài khác nhau như Pandanus tectorius, Pandanus odoratissimus, Pandanus kaida Kurz, Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone)...; và Pandanus tectorius, Pandanus odoratissimus, Pandanus kaida Kurz đã được nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý.
Một số dòng dứa dại thông dụng tại Việt Nam
Trong khi đó, Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) là loài đặc hữu Việt Nam, thường được gọi dứa dại Bắc bộ, mọc tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, cũng như mọc rải rác tới tỉnh Khánh Hòa. Quả, lá, đọt non và rễ được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa viêm đường tiết niệu, viêm gan,...
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào tại Việt Nam hay trên thế giới công bố về thành phần hóa học cũng như các tác dụng dược lý của loại quả dứa dại bắc bộ.
Với những giá trị phân tích kể trên đã cho thấy loài Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) có tiềm năng rất lớn trong khoa học y dược. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu thành phần hóa học của loài dứa dại bắc bộ một cách đầy đủ, bài bản có hệ thống, cũng như việc nghiên cứu tiềm năng sinh học, đặc biệt là tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan của loại quả này là rất cần thiết, đáng được quan tâm thực hiện ngay trong giai đoạn hiện nay.
Trên tinh thần đó, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG Hà Nội) từ sự hỗ trợ của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu quy trình chiết xuất cao toàn phần có tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan từ quả dứa dại (Pandanus tonkinensis)".
Chủ nhiệm nhiệm vụ là GS. TS Phạm Hùng Việt cho biết, mục tiêu tổng quát của nhiệm vụ là: Xây dựng được cơ sở khoa học (gồm: thông tin về thành phần hóa học, chất đối chiếu cho dược liệu, quy trình chiết xuất cao toàn phần, tiêu chuẩn cơ sở cho cao, hoạt tính kháng viêm, bảo vệ gan của cao toàn phần) để sử dụng dược liệu - quả dứa dại làm nguyên liệu bào chế thực phẩm chức năng bảo vệ gan.
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ vừa được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức hồi trung tuần tháng 6/2023, GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, những mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ đã đạt được là:
- Xác định được thành phần hóa học của quả dứa dại Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) bằng các phương pháp phân tích hiện đại.
- Xây dựng được quy trình chiết xuất, tinh chế một số hợp chất chính làm chất đối chiếu cho kiểm nghiệm dược liệu và chế phẩm. Xây dựng được bộ dữ liệu nhận biết chất đối chiếu. Độ tinh khiết của chất đối chiếu đã chiết xuất, tinh chế được xác nhận.
- Xây dựng được quy trình chiết xuất cao toàn phần từ quả Pandanus tonkinensis Mart. ex B. Stone theo định hướng hiệu suất chiết và thành phần chất đối chiếu.
- Xây dựng được tiêu chuẩn cơ sở cho cao toàn phần và kiểm nghiệm các lô cao đã sản xuất.
- Đánh giá được tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan, độc tính cấp, độc tính bán trường diễn, độ ổn định của cao toàn phần đã sản xuất.
Cao chiết là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Nhiệm vụ đã thành công trong việc chiết xuất và tinh chế 2 chất đối chiếu cho dược liệu với độ tinh khiết 98%, cung cấp bộ dữ liệu phổ cho chất đối chiếu, và đây là cơ sở quan trọng cho việc kiểm nghiệm chất lượng dược liệu, chế phẩm và nghiên cứu tiếp theo về hóa dược.
Sau đó nhiệm vụ đã xây dựng quy trình và bào chế được chế phẩm cao toàn phần ở quy mô phòng thí nghiệm. Cao toàn phần có phạm vi an toàn khá rộng, không thể hiện độc tính cấp và độc tính bán trường diễn, thể hiện hoạt tính kháng viêm trên mô hình in vitro, có thấy hoạt tính bảo vệ gan trên mô hình gây độc gan cấp tính ở mức nồng độ nghiên cứu, thể hiện tác dụng bảo vệ sự sống và cải thiện chức năng gan trên mô hình chuột bị gây xơ gan bằng CCl4.
Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ báo cáo kết quả thực hiện nghiên cứu
"Cao toàn phần đã được kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn cơ sở, và tiêu chuẩn cơ sở này cũng đã được được đánh giá bởi Viện kiểm nghiệm thuốc TP.HCM", GS. TS Phạm Hùng Việt nhấn mạnh.
Ngoài ra, mẫu cao sản xuất có tính ổn định, đạt tiêu chuẩn cơ sở sau 6 tháng bảo quản trong cả hai điều kiện lão hóa cấp tốc và dài hạn.
GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, kết quả của nhiệm vụ là tiền đề để có thể định hướng sản phẩm mới có nguồn gốc là dược liệu dứa dại phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân; góp phần khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giúp phát triển sinh kế cho người dân tại những vùng nguyên liệu trong tương lai.
Đánh giá về hiệu quả khoa học - công nghệ của công trình nghiên cứu nói trên, GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, nhiệm vụ đã xác định được thành phần hóa học của loài dứa dại Pandanus tonkinensis - một loài đặc hữu tại Việt Nam. Ngoài ra, kết quả sàng lọc hoạt tính sinh học của các thành phần này cho thấy khả năng chống ôxy hóa và khả năng kháng viêm, có thể đóng góp vào tác dụng của dược liệu. Đây chính là những cơ sở khoa học làm sáng tỏ kho tri thức bản địa về dược liệu dứa dại của Việt Nam.
Nhận định về nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình chiết xuất cao, PGS. TS Nguyễn Việt Hùng cho biết, qua thu thập thông tin trực tiếp từ các vùng phân bố tự nhiên và quá trình phỏng vấn những một số người chuyên kinh doanh quả dứa dại Pandanus tonkinensis ở các tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy loài này được khai thác thường xuyên ở các vùng rừng núi từ khoảng cuối mùa hè đến mùa đông, khi quả đã già.
PGS.TS Nguyễn Việt Hùng phát biểu tiếp thu các ý kiến, đóng góp từ các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Từ các thông tin thu thập được của những người khai thác và kinh doanh dược liệu, có thể ước tính được số lượng quả Pandanus tonkinensis được khai thác hằng năm vào khoảng 50 - 100 tấn quả tươi, tương đương 20 - 50 tấn dược liệu quả khô. Ngoài ra, lá và rễ cũng được sử dụng làm thuốc nhưng với số lượng ít hơn, do thường lấy quả để dễ bảo quản, bán cho khách du lịch và nếu lấy rễ thì cây sẽ không ra quả. Tuy nhiên, nếu có nhu cầu lấy nguyên liệu từ rễ và lá, hằng năm các hộ khai thác vẫn có thể cung cấp hàng trăm tấn dược liệu này cho sản xuất hoặc cho các cơ sở thuốc y học cổ truyền.
Cũng theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, để tiến tới sản phẩm thương mại hóa, cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu bào chế các chế phẩm thích hợp cho việc sử dụng trên cơ sở nguyên liệu cao hoặc dược liệu đã được tiêu chuẩn hóa, định hướng cho việc phát triển vùng nguyên liệu, từ đó góp phần nâng cao sinh kế của người dân và chuyển giao quy trình cho đơn vị sản xuất có nhu cầu.
Với vùng phân bố tự nhiên tương đối rộng, có ở vùng núi ở hầu hết các tỉnh phía Bắc đến Khánh Hòa, nguồn dược liệu dứa dại Pandanus tonkinensis hiện tại chủ yếu được khai thác từ nguồn tự nhiên. Tuy nhiên, loài này cũng như một số loại dứa dại khác thi thoảng vẫn được trồng ở một số địa phương một cách dễ dàng. Việc trồng cây dứa dại (Pandanus) có nhiều mục đích sử dụng khác nhau, điều này phụ thuộc một phần vào từng loài và địa phương. Một số loài Pandanus được trồng để là nguồn thực phẩm, trong khi những loài khác được trồng để lấy nguyên liệu thô cho quần áo, đan giỏ và làm nơi trú ẩn. |
Thông tin liên hệ: E-mail: vietph@vnu.edu.vn Website: hus.vnu.edu.vn |