SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Sáng ngày 06 tháng 7 năm 2024, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Chương trình điểm hẹn kiều bào số 01 năm 2024 với chủ đề “Vai trò cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài trong hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ, giới thiệu, quảng bá sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn Thành phố tham gia thực hiện truy xuất nguồn gốc theo Quyết định số 1039/QĐ-UBND”.

1.jpg

Bà Vũ Thị Huỳnh Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh

Phát biểu tại chương trình, bà Vũ Thị Huỳnh Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài trên địa bàn Thành phố và nhiệm vụ vận động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng hóa trên địa bàn Thành phố và đặc biệt chú trọng các sản phẩm đã thực hiện truy xuất nguồn gốc hàng hóa theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp triển khai thực hiện và thông tin, phổ biến về kế hoạch triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa trên địa bàn Thành phố gắn với hoạt động tại “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh - Điểm hẹn kiều bào”.

2.jpg

Bà Võ Đình Liên Ngọc - Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ) báo cáo tại Chương trình

Tại chương trình, bà Võ Đình Liên Ngọc - Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, đại diện Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố đã thông tin một số kết quả triển khai “Kế hoạch triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030”. Theo đó, Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố hàng năm đã thực hiện rà soát các văn bản quy định, pháp luật về quản lý, triển khai áp dụng và xử lý vi phạm về truy xuất nguồn gốc để tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố Danh mục văn bản quy định, pháp luật về truy xuất nguồn gốc còn hiệu lực, giúp công tác triển khai kế hoạch được thuận tiện, hiệu quả, thống nhất, đồng bộ.

Hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố danh mục 36 Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về truy xuất nguồn gốc.

Đồng thời, Sở Khoa học và Công nghệ cũng đã tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố (theo Quyết định số 1383/QĐ-UBND ngày 12 tháng 4 năm 2023 của Ủy ban nhân dân Thành phố). Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố gồm 7 nhóm sản phẩm, hàng hóa: Thịt heo, thịt gia cầm, trứng gia cầm, rau quả tươi, tôm, thủy sản sơ chế có bao gói (cá rô, cá lóc, cá sặc, khô cá dứa), tổ yến.

Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ đã có văn bản triển khai hướng dẫn kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia (hiện Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia đang chạy thử nghiệm) đến các sở, ban ngành Thành phố, UBND các quận, huyện và thành phố Thủ Đức theo hướng dẫn của Trung tâm mã số mã vạch quốc gia – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.

Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM hiện đang triển khai tổ chức đặt hàng “Xây dựng tài liệu hướng dẫn về mô hình thực hiện truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, hàng hóa rau quả tươi thuộc Danh mục sản phẩm hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố”. Mô hình thực hiện truy xuất nguồn gốc rau quả tươi sẽ giúp chuẩn hóa phương thức thực hiện truy xuất nguồn gốc, áp dụng một cách nhất quán, qua đó nhân rộng mô hình và đẩy mạnh hoạt động truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm, hàng hóa khác.

Tại chương trình, các đại biểu đã cùng thảo luận về kinh nghiệm của các nước đã thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa qua đó đưa ra những thuận lợi và khó khăn đối với việc đưa hàng hóa trên địa bàn Thành phố đã thực hiện truy xuất nguồn gốc tham gia các kênh phân phối của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Vai trò đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp người Việt ở nước ngoài trong việc thúc đẩy đưa hàng hóa đã thực hiện truy xuất nguồn gốc và những khó khăn, vướng mắc, kinh nghiệm về truy xuất nguồn gốc sản phẩm nói chung và nông sản nói riêng./.

Một số hình ảnh tại Chương trình

3.jpg

4.jpg

Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Từ các loại sinh khối sẵn có tại Việt Nam như thân cây ngô, bã mía, lục bình, xơ dừa, các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất công trình nghiên cứu khoa học công nghệ chế tạo vật liệu điện cực xốp sử dụng carbon aerogel ứng dụng cho lọc nước lợ bằng công nghệ khử ion điện dung (CDI).

Nguồn vật liệu thân thiện với môi trường

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng gia tăng, hiện tượng nóng lên toàn cầu đã làm cho mực nước biển dâng lên, gây ra hiện tượng xâm nhập mặn tại nhiều khu vực trũng thấp trên thế giới nói chung và các khu vực ven biển của Việt Nam nói riêng. Điều này đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày, sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của cộng đồng. Mức độ an toàn của nguồn nước ngọt và nguồn nước sạch trở thành thách thức lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 21.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2,2 tỷ người trên thế giới không có nguồn nước sạch để uống. Nhiều công nghệ khử mặn đã được phát triển để sản xuất nước ngọt từ nước biển hoặc nước lợ như thẩm thấu ngược (RO), thẩm phân điện (ED), chưng cất màng (MD) và khử ion điện dung (CDI). Các công nghệ khử muối thông thường bao gồm ED và MD đòi hỏi chi phí vốn cao và tiêu thụ năng lượng không thể cạnh tranh với RO là công nghệ chính để khử mặn nước biển. Tuy nhiên, tắc nghẽn và áp suất cao hạn chế ứng dụng của RO, đặc biệt là khi được sử dụng để xử lý nước có độ cứng cao, vì vậy việc thay thế màng RO thường xuyên và nhu cầu sử dụng máy bơm cao áp làm tăng vốn và chi phí vận hành. Do đó, việc tìm ra các phương pháp lọc nước hiệu quả và bền vững là cực kỳ cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.

Trong những năm gần đây, công nghệ khử ion điện dung khử mặn bằng điện hấp phụ ion lên điện cực xốp, nổi lên như một công nghệ lọc nước mới, tiềm năng thu hút được nhiều sự quan tâm của giới khoa học. Ưu điểm chính của CDI là sử dụng vật liệu carbon rẻ tiền, thân thiện môi trường, hiệu suất dòng điện cao, tiêu hao năng lượng thấp (thấp hơn 3-5 lần so với RO), hoạt động ở điều kiện thường (nhiệt độ, áp suất thường) và tính đa dụng (ứng dụng làm mềm nước, xử lý nước thải,...)

Vật liệu điện cực là thành phần quan trọng trong hệ thống lọc CDI, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất lọc. Hiện nay xu hướng phát triển vật liệu carbon xốp theo hướng sử dụng nguồn nguyên liệu sinh khối vừa tăng diện tích bề mặt điện cực, cấu trúc xốp đa dạng, giá thành rẻ đặc biệt đối với Việt Nam là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời nên có nguồn phụ phẩm nông nghiệp phong phú và đa dạng.

Từ nhu cầu thực tế về lọc nước lợ và tiềm năng ứng dụng của vật liệu carbon sinh khối của Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất công trình nghiên cứu khoa học công nghệ  chế tạo vật liệu điện cực xốp sử dụng carbon aerogel tổng hợp từ sinh khối Việt Nam ứng dụng cho lọc nước lợ bằng công nghệ khử ion điện dung.

Tiềm năng ứng dụng của vật liệu carbon sinh khối của Việt Nam

Nghiên cứu đã sử dụng các loại sinh khối sẵn có tại Việt Nam như thân cây ngô, bã mía, lục bình, xơ dừa để tổng hợp carbon aerogel. Công đoạn đầu tiên là xử lý sinh khối để chiết suất cellulose, sản phẩm cellulose thu được có màu trắng, tơi, xốp và chỉ số Kappa trong khoảng dưới 10 phù hợp làm tiền chất cho quá trình tạo thành vật liệu cellulose aerogel ở giai đoạn tiếp theo. Sau đó, nhóm thực hiện chế tạo cellulose aerogel từ cellulose sinh khối rồi chế tạo vật liệu carbon aerogel. Carbon aerogel dạng bột, có kích thước hạt khoảng 45 - 150 μm được sử dụng để chế tạo điện cực xốp cho thiết bị lọc nước lợ.

Bên cạnh việc sử dụng vật liệu carbon aerogel sinh khối để chế tạo điện cực xốp, thành phần phụ gia không thể thiếu cũng được thêm vào tạo composite. Lần lượt than ống nano (CNT), muội than (AB), MnO2, TiO2 được thêm vào thành phần composite với các tỷ lệ thích hợp đã tăng cường hoạt tính điện hóa của điện cực composite.

Hoạt tính điện hóa của điện cực được đánh giá bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn (CV), phương pháp phóng - nạp dòng không đổi (GCD). Phép đo được thực hiện trên máy Autolab 320N, sử dụng hệ 3 điện cực gồm điện cực so sánh Ag, AgCl/KCl bão hoà, điện cực đối platin và điện cực làm việc là điện cực carbon aerogel, dung dịch điện ly NaCl 0,5 M.

Khả năng xử lý nước muối NaCl của điện cực carbon aerogel được đo trên một hệ thống mô phỏng thiết bị CDI, bao gồm: một stack CDI kết nối với nguồn điện một chiều có thể điều chỉnh điện thế áp và có thể đảo dòng điện, một bơm nhu động, một máy đo độ dẫn, một máy tính ghi nhận tín hiệu độ dẫn. Hệ stack CDI bao gồm hai điện cực carbon, bên trên là màng trao đổi cation và anion nằm đối xứng nhau, giữa hai màng được ngăn cách bằng một tấm đệm. Kích thước điện cực là 2,5 x 3,0 cm.

Sau hơn 50 chu kỳ hoạt động liên tục, điện cực vẫn thể hiện được khả năng xử lý muối tốt với dung lượng hấp phụ ổn định trong khoảng 15 - 20 mg/g. Điều này cho thấy khả năng ứng dụng của hệ vật liệu điện cực vào mô-đun CDI.

Mô-đun CDI được thiết kế với lưu lượng xử lý 2 - 6 l/phút, hiệu suất khử mặn đạt tối thiểu 90% với nguồn nước lợ có nồng độ muối tối đa 1.000 ppm. Điện cực CDI được thiết kế dạng tròn đường kính 180 mm, in hai mặt bằng vật liệu carbon aerogel trên đế dẫn graphite theo quy trình tối ưu đã thiết lập.

loc nuoc1.png

Hình 1. Hệ thống mô phỏng thiết bị khử muối theo công nghệ CDI

loc nuoc2.png

Hình 2. Điện cực carbon aerogel và mô-đun CDI

Tấm điện cực được cắt lỗ tròn đường kính 20 mm. Vỏ mô-đun có cấu trúc hình trụ gồm thân mô-đun có chiều cao 300 mm chế tạo từ ống nhựa PVC. Nắp mô-đun được chế tạo từ tấm nhựa PE gồm nắp trên và nắp dưới. Nắp được cố định vào thân vỏ mô-đun.

Kết quả thử nghiệm cho thấy, hệ thống lọc CDI sử dụng điện cực carbon aerogel có hiệu suất lọc cao lên đến 90,5% (từ nồng độ 1000 ppm xuống còn 100 ppm) ở điều kiện thử nghiệm với lưu lượng 3 - 5 l/phút, có thể loại bỏ hiệu quả các ion muối trong nước lợ.

Việc ứng dụng thành công vật liệu carbon sinh học trong công nghệ lọc nước mặn theo công nghệ CDI cho thấy rằng công nghệ này có nhiều tiềm năng ứng dụng tại Việt Nam. Thiết bị CDI có thể lắp đặt ở tất cả các khu vực có nước lợ, dễ dàng vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế. Việc đẩy mạnh triển khai nghiên cứu ứng dụng công nghệ CDI ở Việt Nam sẽ mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển sản phẩm nội địa “Made in Vietnam” cạnh tranh với các công nghệ ngoại nhập.

Kết quả của đề tài nghiên cứu này đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra nguồn vật liệu mới, thân thiên với môi trường và ứng dụng trong công nghệ khử mặn mới. Tạo tiền đề cho việc phát triển hướng nghiên cứu ứng dụng sinh khối của Việt Nam cho các công nghệ mới sử dụng vật liệu sinh khối như công nghệ lưu trữ điện và xử lý ô nhiễm.

Việt Nam là nước có nền Nông nghiệp phát triển, nguồn sinh khối phụ phế phẩm nông nghiệp rất dồi dào và đa dạng. Việc nghiên cứu chuyển hóa chúng thành vật liệu tiên tiến cho những ứng dụng có giá trị cao là hướng đi chiến lược hướng đến nâng cao giá trị nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính mà chính phủ và toàn xã hội quan tâm. Sự kết hợp giữa công nghệ mới và nguồn nguyên liệu địa phương đã tạo ra một giải pháp tiên tiến và bền vững cho giải pháp chống xâm nhập mặn nói riêng và chống biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường nói chung.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, P. 4, Q. 5, TP. HCM  

Điện thoại: (028) 3835 0098

Website: https:// www.hcmus.edu.vn

Với mong muốn tìm kiếm các giải pháp cải thiện tình trạng mất ngủ, con người dần dần tìm đến các phương pháp bằng những liều thuốc, bên cạnh các loại thuốc có nguồn gốc hóa dược trên thị trường là các thuốc có nguồn gốc thảo dược và các bài thuốc y học cổ truyền có nguồn gốc rõ ràng, giá cả phải chăng, cụ thể là các sản phẩm thuốc giải lo âu, an thần. Từ nhu cầu thực tế, nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu để tìm thêm giải pháp hiệu quả trong điều trị triệu chứng mất ngủ từ bài thuốc có thành phần gồm các dược liệu: Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam. Đây là nhiệm vụ do Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, TS. Hứa Hoàng Oanh làm chủ nhiệm nghiên cứu.           

Xu hướng sử dụng thuốc an thần để điều trị mất ngủ

Hiện nay, mất ngủ được coi là một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người không chỉ thể chất mà cả tinh thần. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy khoảng 19-74% triệu chứng mất ngủ liên quan đến yếu tố tâm thần. Có nhiều nguyên nhân gây mất ngủ, một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan đáng kể giữa các triệu chứng của trầm cảm, lo âu, căng thẳng và chứng mất ngủ. Để điều trị mất ngủ, ngoài liệu pháp tâm lý thì việc sử dụng thuốc an thần là rất quan trọng. Thị trường trong nước hiện có nhiều sản phẩm thuốc giải lo âu, an thần với nguồn gốc hóa dược. Những thuốc này cho hiệu quả tốt, tuy nhiên có nhiều hạn chế do các tác dụng không mong muốn, đặc biệt là gây tăng dung nạp, lệ thuộc thuốc. Hơn nữa, đa số sản phẩm thảo dược có thành phần từ dược liệu nhập khẩu nên chất lượng khó kiểm soát, giá thành khá cao. Vì vậy, các thầy thuốc đã nghiên cứu thang thuốc có thành phần từ dược liệu nguồn gốc thuốc nam, phối ngẫu theo kinh nghiệm và lý luận y học cổ truyền. Tuy nhiên, việc này có nhược điểm là cần chuẩn bị dụng cụ sắc, tốn thời gian sắc thuốc, bất tiện cho bệnh nhân ngoại trú. Thấu hiểu thực trạng ấy, nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện chuyển dạng bào chế viên nang cứng từ bài thuốc có thành phần gồm các dược liệu: Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam giúp tăng hiệu quả và tuân thủ điều trị cho người sử dụng thuốc.

an than 1.png

an than 2.png

 

Hình ảnh sản phẩm viên nang An Thần, sản phầm do nhóm nghiên cứu của Đạị học Y Dược TP Hồ Chí Minh thực hiện

Tính an toàn và tác dụng an thần, giải lo âu, chống trầm cảm của sản phẩmTác động đến Kinh tế, Xã hội và Môi trường

Nhóm nghiên cứu đã đánh giá tính an toàn của viên nang cứng an thần với liều tối đa 108 viên/kg thể trọng chuột, không thể hiện độc tính cấp đường uống. Về độc tính bán trường diễn, chuột uống viên nang cứng an thần với liều 1-2 viên/kg mỗi ngày một lần, liên tục trong 60 ngày, không cho thấy bất kỳ bất thường nào về hành vi, thể trạng tổng quát, chức năng gan-thận và công thức máu. Kết quả này khẳng định sản phẩm an toàn, không có độc tính. Khi đánh giá tác dụng an thần, giải lo âu, chống trầm cảm trên chuột bị stress cô lập, viên nang liều 1 viên/kg và 2 viên/kg giúp hồi phục giấc ngủ diazepam bị rút ngắn. Đặc biệt, liều 1 viên/kg thể hiện tác dụng giải lo âu rõ rệt hơn, cả hai liều đều có tác dụng chống trầm cảm. Dựa trên kết quả dược lý, liều dự kiến cho người là uống ngày 2 lần, mỗi lần 2-4 viên, vào buổi tối và 60 phút trước khi ngủ.

Sản phẩm chất lượng từ dược liệu có nguồn gốc xác định (C/O) và đạt tiêu chuẩn chất lượng (C/Q) phù hợp với định hướng phát triển ngành dược Việt Nam. Việc phát triển viên nang từ dược liệu như Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam không chỉ mở ra hướng điều trị mất ngủ mới, mà còn bảo tồn kiến thức y học truyền thống và sử dụng bền vững nguồn dược liệu bản địa. Kinh tế được cải thiện nhờ tạo ra sản phẩm mới, tăng giá trị cho nguyên liệu địa phương và mở rộng thị trường xuất khẩu. Xã hội hưởng lợi từ việc cải thiện sức khỏe cộng đồng, giảm gánh nặng bệnh tật và tăng cường kiến thức về chăm sóc sức khỏe tự nhiên. Môi trường được bảo vệ khi áp dụng các phương pháp sản xuất thân thiện, giảm thiểu hóa chất độc hại và khuyến khích trồng dược liệu hữu cơ. Tuy nhiên, cần quản lý nguồn dược liệu để tránh khai thác quá mức, đảm bảo cân bằng và phục hồi hệ sinh thái. Nghiên cứu cần thực hiện trách nhiệm, minh bạch và công bằng trong chia sẻ lợi ích từ các giải pháp, giúp tối ưu hóa lợi ích kinh tế và xây dựng xã hội bền vững, môi trường sống lành mạnh cho thế hệ tương lai.

lược kết quả mà nhóm nghiên cứu đã đạt được, kết luận và kiến nghị của nhóm nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một loạt các bước quan trọng trong quá trình nghiên cứu và phát triển thang thuốc điều trị mất ngủ từ các dược liệu Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam. Đầu tiên, các nguyên liệu này đã được lấy mẫu và kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn theo Dược điển Việt Nam V (DĐVN V) và theo tiêu chuẩn cơ sở đối với các dược liệu chưa có tiêu chuẩn trong DĐVN V. Quy trình định lượng chất đánh dấu như mimosin trong Xấu hổ và coixol trong Cam thảo nam đã được xây dựng và thẩm định kỹ lưỡng. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu đã chiết xuất cao từ dược liệu bằng cách tối ưu hóa điều kiện chiết xuất với dung môi là nước, tỷ lệ dược liệu với dung môi là 1:21, chiết 2 lần, mỗi lần 2 giờ tính từ lúc nước bắt đầu sôi. Quy trình chiết xuất cao và định lượng chất đánh dấu như mimosin và coixol, cùng với chất bảo quản kali sorbat trong cao chiết, được xây dựng và thẩm định bằng phương pháp HPLC-PDA. Nhóm nghiên cứu cũng đã thực hiện định tính sự hiện diện của các dược liệu Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam trong cao chiết bằng sắc ký lớp mỏng và định lượng chất đánh dấu trong cao chiết bằng phương pháp HPLC. Tiêu chuẩn cơ sở cao chiết bao gồm các chỉ tiêu cảm quan, độ ẩm, định tính, giới hạn kim loại nặng, giới hạn nhiễm khuẩn, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và định lượng đồng thời mimosin và coixol trong cao chiết. Sau đó, nhóm nghiên cứu đã sản xuất ba lô cao chiết từ dược liệu với quy mô 40 kg dược liệu mỗi lô và đánh giá khả năng tái lặp của quy trình sản xuất. Kết quả cho thấy quy trình sản xuất phù hợp và có khả năng tái lặp.

Nhóm nghiên cứu đã đánh giá độc tính cấp của cao chiết nước (cao khô quy về 0% độ ẩm) và kết quả cho thấy không có độc tính đường uống với liều tối đa 39 g/kg thể trọng chuột. Khảo sát liều cao có tác dụng an thần, giải lo âu cũng được thực hiện qua thực nghiệm hồi phục giấc ngủ diazepam và thực nghiệm sáng/tối. Trong giai đoạn tiếp theo, nhóm tiến hành nghiên cứu bào chế sản phẩm, khảo sát loại tá dược và tỷ lệ phù hợp để xây dựng công thức viên nang cứng. Sản phẩm viên nang cứng số 0, màu đỏ, chứa hàm lượng tương đương 360 mg cao (quy về 0% độ ẩm) đã được bào chế thành công với ba lô quy mô phòng thí nghiệm mỗi lô 1.000 viên. Tiêu chuẩn cơ sở sản phẩm được đề xuất và quy trình sản xuất viên nang cứng được thử nghiệm trên ba lô nghiên cứu với quy mô 14.000 viên mỗi lô. Cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát độ ổn định của viên nang cứng trong điều kiện bảo quản thực tế và điều kiện già hóa cấp tốc. Kết quả sau thời gian 0, 3, và 6 tháng cho thấy sản phẩm đạt chất lượng theo tiêu chuẩn cơ sở và không có sự biến đổi về chất lượng so với ban đầu. Những kết quả này đã mở ra triển vọng mới trong việc ứng dụng dược liệu trong điều trị mất ngủ và mang lại hy vọng cho những người gặp vấn đề về giấc ngủ.

Sản phẩm này không chỉ nâng cao sức khỏe cho người dân TP. Hồ Chí Minh và cả nước, giúp giảm tỷ lệ mất ngủ do stress mà còn giảm chi phí điều trị nhờ kiểm soát được chất lượng và hiệu quả điều trị. Thang thuốc được hiện đại hóa và ứng dụng hiệu quả hơn, sử dụng nguyên liệu trong nước, nâng cao giá trị dược liệu bản địa. Kết quả nghiên cứu góp phần phát triển vùng trồng dược liệu trong nước, cung cấp cho ngành công nghiệp dược và tiềm năng xuất khẩu, tạo cơ hội kinh tế cho người trồng dược liệu và việc làm cho lao động vùng nông nghiệp, cải thiện kinh tế cho người dân.

Thông tin liên hệ:

Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, phường 11, Quận 5, TP.HCM

Điện thoại: (+84-28) 3855 8411 - (+84-28) 3853 7949 - (+84-28) 3855 5780

Website: www.ump.edu.vn

Các nghiên cứu trước đây đều cho rằng giả thuyết nguyên nhân dẫn đến bệnh đen xơ mít là do vi khuẩn. Mít bị bệnh không có triệu chứng bên ngoài, chỉ khi được bổ ra mới thấy rõ được dấu hiệu của bệnh. Điều này cho thấy bệnh đen xơ mít còn khó phát hiện và việc tìm ra nguyên nhân gây bệnh không dễ dàng, gây khó khăn cho việc tìm biến pháp xử lý. Vì vậy, việc đưa ra giải pháp, khuyến cáo cho gặp không ít khó khăn. Người dân đã phòng ngừa bệnh đen xơ mít bằng các sử dụng ngẫu nhiên một số loại thuốc bảo vệ thực vật trên thị trường để ngăn ngừa bệnh lây lan nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Để có thể đưa ra các giải pháp và khuyến nghị phù hợp đối với bệnh đen xơ mít, đồng thời giúp người dân trong việc canh tác đạt năng suất và chất lượng cao, nhóm nghiên cứu trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tác nhân gây đen xơ mít tại một số tỉnh thành phía Nam và đề xuất giải pháp phòng trừ” với mục tiêu đánh giá thực trạng, tác nhân gây đen xơ mít Thái tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tiền Giang và đề xuất một số giải pháp phòng trừ.

Phát triển cây mít ở Việt Nam: Tình hình, Thách thức và Cơ hội xuất khẩu

Mít là một trong những cây ăn trái được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký ban hành Quyết định số 4085/QĐ-BNN-TT phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Ổn định diện tích khoảng 50 ngàn ha, sản lượng 600-700 ngàn tấn. Đến năm 2022, cả nước trồng gần 60.000 ha mít, sản lượng gần 550.000 tấn. Ở Việt Nam cây Mít đã được trồng trên khắp các tỉnh thành trên cả nước, diện tích nhiều tập trung ở vùng Đông Nam Bộ như: Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai. Theo truyền thống, mít chủ yếu được trồng trong vườn hộ gia đình, trồng thành rừng hoặc trang trại. Đến nay các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã phát triển trồng mít mạnh gồm Vĩnh Long, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Hậu Giang, Cần Thơ…

Mít xuất khẩu sang Trung Quốc được phân nhiều loại giá. Giá mít xuất khẩu Trung Quốc chênh lệch giữa các loại 5.000-10.000/kg. Cây mít là một trong những cây quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo hiện nay ở Việt Nam nói riêng và một số nước Đông Nam Á nói chung. Đẩy mạnh việc duy trì và phục hồi các giống mít đặc sản địa phương, chọn tạo, nhập nội, mở rộng các giống mới chất lượng, thuận lợi cho tiêu thụ và chế biến. Xây dựng hệ thống vườn đầu dòng, đảm bảo cung cấp giống có chất lượng phục vụ sản xuất.

Nhưng để trồng được các loại mít chất lượng, mang lại nguồn thu nhập cao, các nhà nông cần phải quản lý dịch bệnh và có kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác tốt. Đặc biệt vào mùa mưa, sâu và dịch bệnh thường lan nhanh. Bệnh nghiêm trọng nhất gây giảm chất lượng và giảm giá mít gặp phải hiện nay là bệnh xơ đen.

Hiện trạng và giải pháp ngăn ngừa bệnh đen xơ mít tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang

Kết quả điều tra tại ba tỉnh cho thấy hiện trạng tại TP Hồ Chí Minh, bệnh đen xơ mít chủ yếu xuất hiện vào mùa mưa, với 62,5% vườn mít bị bệnh từ 10-40% và 34,4% bị dưới 10%. Ở Đồng Nai, bệnh không xuất hiện vào mùa khô, nhưng 56,5% vườn mít bị bệnh từ 10-40% vào mùa mưa. Tại Tiền Giang, bệnh xuất hiện ở cả hai mùa, với 52-67% vườn mít bị bệnh từ 10-40%.

Theo thực tế điều tra diễn biến bệnh, trong mùa khô tại TP Hồ Chí Minh, bệnh xuất hiện sớm và tập trung từ giai đoạn đậu trái đến 50 ngày sau đậu trái (NSĐT), cao nhất ở giai đoạn 10-30 NSĐT, và không xuất hiện ở giai đoạn 60-90 NSĐT. Vào mùa mưa, bệnh xuất hiện ở tất cả các giai đoạn với tỷ lệ cao hơn, đặc biệt ở giai đoạn 20-50 NSĐT (33,33%-55,56%) và vẫn xuất hiện ở giai đoạn thu hoạch 100 NSĐT với tỷ lệ 22,22%.

Như vậy, đa phần bệnh đen xơ mít xuất hiện vào mùa mưa với tỷ lệ cao hơn gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển của mít, gây khó khăn trong quá trình canh tác và trồng trọt của người dân. Từ hiện trạng trên, nhóm nghiên cứu tiến hành tìm hiểu và đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng đen xơ mít giúp ích cho người dân trong quá trình canh tác và đạt hiệu quả cao.

Kết quả đạt được của nhóm nghiên cứu

Nghiên cứu đã bước đầu xây dựng được bản đồ về phân bố tỷ lệ đen xơ mít vào mùa mưa tại ba tỉnh TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang. Bệnh đen xơ gây hại đặc biệt trên giống mít Thái khá sớm, đặc biệt xuất hiện nhiều vào mùa mưa thời điểm 20-30 NSĐT, có thể nhận diện qua hình dạng trái, mầu gai và cuống. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii. Vi khuẩn có thể xâm nhiễm ở tất cả các giai đoạn hình thành và phát triển trái. Ngoài giống mít Thái siêu sớm vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii chủng HCM09 cũng thể hiện khả năng gây bệnh trên múi mít giống mít Tố Nữ, mít Lá Bàng và mít Nghệ trong điều kiện phòng thí nghiệm và một số loại cây trồng khác trong điều kiện nhà lưới.

xo mit 0.jpg

Trái mít bị bệnh đen xơ được phát hiện từ sớm

Xác định được các hoạt chất thuốc hóa học gồm Oxolinic acid (1,88 g/L và 3,75 g/L), Bronopol (0,69 g/L và 1,38 g/L), Oxytetracycline hydrochloride + Streptomycin sulfate (0,25 g/L và 0,50 g/L) có khả năng kiểm soát vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii chủng HCM01 trong điều kiện phòng thí nghiệm và phòng trừ bệnh đen xơ mít trên đồng ruộng.

Tiếp đến, nghiên cứu xây dựng thành công 03 mô hình thử nghiệm biện pháp quản lý bệnh đen xơ trên cây mít thái tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang với hiệu quả kiểm soát bệnh đạt trên 100% tại thời điểm thu hoạch mít.

Ba mô hình thử nghiệm đen xơ mít tại 3 tỉnh đa số đều cho thấy, giống mít ít có trái bị bệnh đen xơ ở giai đoạn tỉa trái và không ghi nhận mít bị đen xơ ở giai đoạn thu hoạch nhờ sử dụng mô hình quản lý tổng hợp bệnh đen xơ mít, mô hình này cho thấy tỉ lệ ra trái ít bị đen xơ hiệu quả hơn so với mô hình quản lý bệnh xơ đen theo tập quán nông dân. Ngoài ra, mô hình quản lý bệnh đen xơ mít tổng hợp cho hiệu quả cao là do sử dụng phối hợp các loại thuốc có tính kháng cho cây mít, thuốc trừ khuẩn, kết hợp với bổ sung Canxi-bo giúp trái mít phát triển tốt, hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh.

xo mit 1.jpg

Trái mít không bị đen xơ sau thu hoạch

Sau khi tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số các giải pháp phòng trừ bước đầu bao gồm các bước:

(1) Sử dụng phân bón Canxi-Bo vào giai đoạn làm bông, trước đậu trái và sau đậu trái.

(2) Sử dụng các hoạt chất tăng kích kháng cho cây giai đoạn làm bông và nuôi trái.

(3) Tỉa và tuyển trái, loại bỏ các trái có các biểu hiện bên ngoài nghi ngờ nghiêm bệnh (cuống, gai, mầu và hình dạng trái).

(4) Phun xịt các thuốc BVTV chứa các hoạt chất Oxolinic acid (1,88 g/L và 3,75 g/L), Bronopol (0,69 g/L và 1,38 g/L), Oxytetracycline hydrochloride + Streptomycin sulfate (0,25 g/L và 0,50 g/L), Kasugamycin 20g/L vào giai đoạn 10-30 ngày sau đậu trái và 1-2 lần trong giai đoạn nuôi trái.

Các giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra sẽ giúp người dân hạn chế và ngăn chặn được mít bị đen xơ ngay từ khi mít còn nhỏ, tăng khả năng sinh trưởng, cho ra được giống mít chất lượng.

xo mit 2.jpg.png

Tổ chức hội thảo về bệnh đen sơ mít, nguyên nhân và giải pháp phòng trừ cho địa phương

Nhóm nghiên cứu cũng đã tổ chức nhiều buổi hội thảo khoa học tại nhiều địa phương để thông tin cho bà con nông dân về bệnh đen sơ mít, nhóm nghiên cứu đã thu được những kết quả tích cực. Bà con nông dân đã hiểu rõ hơn về bệnh đen sơ mít, nhận thức được các nguyên nhân gây bệnh và nắm vững các phương án phòng trừ hiệu quả. Nhiều nông dân đã áp dụng ngay các biện pháp phòng ngừa và điều trị mà nhóm nghiên cứu đề xuất, giúp giảm thiểu đáng kể tác động của bệnh lên cây trồng. Sự tương tác và trao đổi kinh nghiệm giữa các nông dân và chuyên gia trong buổi hội thảo đã tạo nên một không khí hợp tác và học hỏi lẫn nhau, góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng canh tác của bà con. Nhờ vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cách tiếp cận dễ hiểu, buổi hội thảo đã thành công trong việc nâng cao nhận thức và đem lại những giải pháp thực tiễn, giúp bà con nông dân bảo vệ vườn cây của mình và cải thiện năng suất.

xo mit 3.jpg

Tỉa và tuyển trái, loại bỏ các trái nghi ngờ nhiễm bệnh

Tóm lại, nghiên cứu này đã giúp người dân hiểu rõ hơn về nguyên nhân dẫn đến bệnh đen xơ mít và từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa, giúp việc canh tác và trồng mít mang lại hiệu quả cao hơn, không chỉ về chất lượng trái mít mang lại mà còn duy trì các giống mít có chất lượng tốt nhằm phát triển hơn các giống mít chất lượng trong tương lai. Từ đó mang lại nguồn thu nhập ổn định về kinh tế, đem lại giá trị lợi nhuận kinh tế cao trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra, kết quả của đề tài nghiên cứu này đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra giải pháp mới cho ngành nông nghiệp trong tương lai.

Thông tin liên hệ:

Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ: Khu phố 6, P. Linh Trung, Tp. Thủ Đức, TP.HCM

Điện thoại: (028) 38966780

Website: https://www.hcmuaf.edu.vn

Kết quả nhiệm vụ là cơ sở để TP.HCM xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2021 - 2030; xây dựng và quy hoạch phát triển, thực thi các chính sách quản lý Nhà nước đối với ngành chế biến lương thực thực phẩm ở TP.HCM.

Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ "Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050". Đây là nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Sở Công thương TP.HCM chủ trì thực hiện, PGS.TS. Mai Thanh Phong và ThS. Trần Anh Hào làm chủ nhiệm.

Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, nhiệm vụ được thực hiện với mục tiêu tổng quát là nghiên cứu các luận cứ khoa học giúp hình thành chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Kết quả của nhiệm vụ đã cung cấp các báo cáo quan trọng như Báo cáo phân tích thực trạng ngành chế biến lương thực thực phẩm TP HCM; Báo cáo phân tích dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm của TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Báo cáo phân tích Chiến lược phát triển các công nghệ lõi của ngành chế biến lương thực thực phẩm TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Báo cáo tổng hợp đề án xây dựng Chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Dự thảo Chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050…

T7NGHIEMTHUCHEBIENTHUCPHAMh1.jpg

Chế biến lương thực thực phẩm là 1 trong 4 ngành công nghiệp trọng điểm ưu tiên phát triển của TP.HCM. Ngành chế biến lương thực thực phẩm được phân thành 2 ngành nhỏ là chế biến thực phẩm và chế biến đồ uống. Trong đó, ngành chế biến thực phẩm là thế mạnh của Thành phố, với quy mô tương đối lớn xét trong toàn ngành công nghiệp, góp phần giải quyết việc làm với quy mô số lượng lao động và quỹ lương gia tăng. Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp ngành này liên tục dao động trong giai đoạn 2017 – 2022, là ngành có giá trị gia tăng (VA) chiếm 8,08% toàn ngành công nghiệp, lớn nhất trong nhóm các ngành chế biến lương thực thực phẩm. Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có doanh thu chiếm 6,20%; lao động chiếm 8,78%; tài sản cố định chiếm 6,94%; doanh thu chiếm 11,24%; lợi nhuận chiếm 23,60% toàn ngành công nghiệp năm 2021. Mức đóng góp của các nhân tố phản ánh ngành chế biến thực phẩm vẫn tăng trưởng chủ yếu dựa vào sự gia tăng vốn cố định. Bên cạnh đó, chỉ số sản xuất công nghiệp ngành chế biến đồ uống có VA chiếm 5,51%; số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có doanh thu chiếm 1,34%; lao động chiếm 1,30%; tài sản cố định chiếm 3,83%; doanh thu chiếm 5,73%; lợi nhuận chiếm 16,82% toàn ngành công nghiệp. Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh 2017 – 2019, ngành chế biến đồ uống có dấu hiệu đi xuống về tất cả các chỉ tiêu, đặc biệt là giá trị sản xuất (GO), VA và lợi nhuận.

Các kết quả đánh giá sơ bộ cho thấy, xuất khẩu của TP.HCM trong ngành lương thực thực phẩm có sự tăng trưởng về sản phẩm đồ uống và một số loại thực phẩm. Tuy nhiên, nhìn chung toàn ngành lại có sụt giảm khoảng 2-4% so với các năm trước do sức mua trên toàn cầu yếu. Nhìn chung, cộng đồng doanh nghiệp vẫn chủ yếu ở quy mô nhỏ, chưa phát triển chuỗi, hạn chế về công nghệ số... Đồng thời, cộng đồng doanh nghiệp gặp nhiều thách thức về phát triển thị trường và tiếp cận người tiêu dùng, cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ lạm phát, xung đột quân sự kéo dài ở một số khu vực trên thế giới. Xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm tại một số thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, EU… đã khiến đơn hàng xuất khẩu giảm, ảnh hưởng lớn đến sản xuất của các doanh nghiệp. Ở thị trường nội địa, mặc dù doanh nghiệp đã triển khai nhiều chương trình khuyến mãi, kết nối xúc tiến thương mại nhưng sức mua vẫn còn yếu, chỉ số tiêu thụ lương thực thực phẩm giảm.

Qua quá trình nghiên cứu, phân tích số liệu phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm trong 5 năm gần đây, tổng hợp các báo cáo phân tích hiện trạng, tìm hiểu xu thế công nghệ của ngành, khảo sát điều tra, phỏng vấn chuyên sâu doanh nghiệp đang hoạt động, nhóm thực hiện nhiệm vụ đã phân tích rõ điểm nghẽn của ngành chế biến lương thực thực phẩm xoay quanh các vấn đề về thiếu tự chủ về nguồn nguyên liệu và liên kết vùng nguyên liệu; thiếu hụt về số lượng và chất lượng người lao động; hạn chế về phát triển công nghệ và thiết bị; hệ thống logistics chưa hoàn thiện và hiệu quả; các vấn đề về môi trường chưa được quan tâm; rào cản về vốn; xu hướng dịch chuyển sang các tỉnh lân cận do diện tích đất thu hẹp và giá thuê đất. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân, cách khắc phục, bài học kinh nghiệm thoát nghẽn cho TP.HCM; nêu dự báo ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm thông qua phân tích các yếu tố trong và ngoài nước như thu nhập người dân và mức chi tiêu gia tăng, nhận thức về sức khỏe và tiêu dùng, yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ, chất lượng, nguồn nguyên liệu, năng lượng, biến đổi khí hậu...

T7NGHIEMTHUCHEBIENTHUCPHAMToancanh.jpg

Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ tại Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sáng 4/7/2024.

Bài học kinh nghiệm cho TP.HCM: hoàn thiện thể chế hóa khung pháp lý doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc kinh doanh, sản xuất trong điều kiện mới và những thay đổi trong thời đại công nghệ hóa, hiện đại hóa ngày nay; xây dựng khu vực, trung tâm tập trung phát triển khoa học công nghệ làm đầu tàu, tăng cường đầu tư hợp tác nghiên cứu phát triển giữa doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu, làm đầu mối chuyển giao công nghệ nhằm phát triển nguồn lực để phát triển sản phẩm và công nghệ trong sản xuất; ứng dụng phát triển công nghệ trong sản xuất, quản lý, phân phối, kinh doanh; phát triển các vùng nguyên liệu tập trung, ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung theo hướng phát triển xanh và bền vững; cải thiện các quy định, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm theo kịp với các tiêu chuẩn thế giới; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cả về số lượng lẫn chất lượng; đẩy mạnh liên kết phát triển theo chuỗi, logistics, từ nguyên liệu đến sản phẩm đến tay người tiêu dùng; thiết kế hệ thống quản lý và kiểm soát chất lượng hiệu quả; tăng cường thúc đẩy thu hút đầu tư, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế, nguồn vốn.

Cũng theo nhóm nghiên cứu, trọng tâm của nhiệm vụ này là xác định các sản phẩm và công nghệ chủ lực, tập trung phát triển của ngành chế biến lương thực thực phẩm đến năm 2030; xác định các quan điểm, mục tiêu, phương án, giải pháp nhằm phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm đến năm 2030 và xa hơn.

Theo đó, các nhóm công nghệ chính được đề xuất gồm: nhóm công nghệ chế biến (công nghệ in 3D, ép đùn, công nghệ nano, công nghệ áp suất cao…); nhóm công nghệ sau thu hoạch (thị giác máy tính, xung tia UV, giám sát thời gian thực…); nhóm công nghệ trong điều khiển và quản lý sản xuất (số hóa, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo trong phân tích thực phẩm, công nghệ nano, sắc ký hiện đại, kỹ thuật và phương pháp phân tử dựa trên DNA, cảm biến sinh học, quang phổ); nhóm công nghệ bao gói (công nghệ chân không, in 3D, bao gói thông minh…); nhóm công nghệ trong vận hành hệ thống kho và vận chuyển (robot, xe dẫn đường tự động, bản đồ số logistic…); nhóm công nghệ trong quản lý chất lượng (phân tích không phá hủy, Internet vạn vật - IoT, dữ liệu lớn, máy học, trí tuệ nhân tạo, truy xuất và xác thực nguồn gốc, công nghệ nano, thẻ RFID nhận dạng tần số vô tuyến…).  

Về giải pháp phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm đến năm 2030 và xa hơn, nhóm nghiên cứu đề xuất một số nội dung như: hướng đến chế biến theo chiều sâu, đa dạng hóa sản phẩm; tăng năng lực khai thác những điều kiện thuận lợi như vị trí địa lý trung tâm kinh tế, đầu mối giao thương; triển khai các giải pháp bảo vệ thị trường ngành chế biến lương thực thực phẩm; đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất, mặt bằng sản xuất, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Đặc biệt, cần chú trọng đầu tư công nghệ tự động hóa, hệ thống quản lý chất lượng và nguồn nhân lực, nhằm tối ưu hóa sản xuất, chi phí sản xuất, số hóa sản xuất. Cùng với đó, xu hướng ngành yêu cầu doanh nghiệp phải không ngừng thích ứng với chuỗi cung ứng, sản phẩm cá nhân hóa, đảm bảo môi trường bền vững. Ngoài ra, phát triển khu vực hệ thống kho lạnh, kho dự trữ bảo quản cho ngành chế biến lương thực thực phẩm. Mặt khác, các đơn vị liên quan cần khẩn trương thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung, giúp xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng thời, tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất, đầu tư cho thương mại điện tử, nghiên cứu mở rộng thị trường tiêu thụ.    

Minh Nhã (CESTI)

Nhằm tham vấn các chuyên gia và cộng đồng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Thành phố về việc xây dựng sàn giao dịch vốn sơ cấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trong đó tập trung vào thuận lợi, khó khăn, thách thức, sự cần thiết xây dựng sàn huy động vốn sơ cấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, từ đó có cơ sở xây dựng khung pháp lý liên quan đến thị trường sơ cấp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Sáng ngày 03/7/2024, tại Hội trường Saigon Innovation Hub (273 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM) đã diễn ra Hội thảo “Tham vấn chuyên gia và cộng đồng về sàn giao dịch vốn sơ cấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo”, chương trình do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức. Tham dự Hội thảo có TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cùng đại diện các phòng và trung tâm trực thuộc Sở. Đặc biệt là sự góp mặt của cộng đồng hệ sinh thái khởi nghiệp Thành phố gồm đại diện các quỹ đầu tư, trung tâm ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp, các startup trên địa bàn Thành phố.

3720246.jpg

Hội thảo đã nhận được sự quan tâm tham dự của các chuyên gia và đông đảo đại diện đến từ các quỹ đầu tư, trung tâm ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp, các startup trong cộng đồng hệ sinh thái khởi nghiệp Thành phố

Phát biểu khai mạc Hội thảo TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ, giai đoạn huy động vốn sơ cấp hay giai đoạn đầu khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tồn tại và phát triển.

“Sàn giao dịch vốn cho startup cần tham vấn ý kiến của các bên trong hệ sinh thái với nhiều góc độ khác nhau. Đây là cơ sở để đơn vị cân nhắc trong xây dựng Đề án. Tuy nhiên, mô hình sàn để hoạt động cần tuân thủ các hành lang pháp lý hiện hành”, TS. Nguyễn Việt Dũng khẳng định.

3720241.jpg

TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Hội thảo

Mở đầu cho phần báo cáo chính của Hội thảo, Bà Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và Đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, đã trình bày về định hướng xây dựng sàn giao dịch vốn sơ cấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại TP.HCM.

Cụ thể, mô hình sàn giao dịch vốn sơ cấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhằm huy động vốn từ các nhà đầu tư cho startup ở giai đoạn đầu, tức giai đoạn hạt giống. Mô hình này được tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu nước ngoài, định hướng xây dựng với 6 đặc điểm chính.

Thứ nhất, mô hình hoạt động của sàn cần có khung pháp lý minh bạch với hệ thống quy định hoạt động, quy trình gọi vốn, quyền lợi trách nhiệm các bên khi tham gia sàn, giải quyết tranh chấp... Tính minh bạch là điều kiện để các startup và nhà đầu tư tham gia sàn.

Thứ hai, sàn cần nền tảng công nghệ tiên tiến, an toàn nhằm đảm bảo tính bảo mật, khả năng mở rộng nhằm xử lý lượng lớn giao dịch chính xác và hiệu quả. Tính năng bảo mật nhằm bảo vệ thông tin của các chuyên gia, nhà đầu tư, doanh nghiệp.

Thứ ba, sàn cần có quy trình thẩm định và quản lý rủi ro hiệu quả. Nhân sự làm việc tại sàn có đủ trình độ để đánh giá năng lực, các giai đoạn phát triển của startup. Điều này giúp nhà đầu tư có thể xem xét trước khi quyết định rót tiền vào dự án. Ngoài ra, đội ngũ nhân sự của sàn cần có khả năng đánh giá được tính rủi ro nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nhà đầu tư cũng như loại bỏ hành vi liên quan gian lận.

Thứ tư, sàn giao dịch cần hệ thống cập nhật thông tin liên tục, đầy đủ về các doanh nghiệp khởi nghiệp và dự án gọi vốn. Điều này giúp nhà đầu tư có thông tin về các dự án, sản phẩm khởi nghiệp tiềm năng, khả năng mở rộng quy mô của doanh nghiệp, đánh giá khả năng rủi ro đầu tư...

Thứ năm, sàn cần có hệ thống cung cấp dịch vụ và hỗ trợ đa dạng như tư vấn pháp lý, tài chính, marketing... nhằm kết nối các dự án khởi nghiệp và nhà đầu tư. Sàn tạo môi trường liên kết doanh nghiệp, nhà đầu tư, chuyên gia và các bên liên quan khác trong quá trình họ hoạt động để phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau tốt nhất.

Thứ sáu, sàn có chính sách hỗ trợ kinh phí dự án khởi nghiệp, hợp tác công tư đối ứng vốn hỗ trợ dự án... nhằm thu hút startup tham gia sàn. Nhà đầu tư cũng được hỗ trợ khi tham gia cùng nhà nước tạo sự yên tâm về tính minh bạch thông tin.

3720242.jpg

Bà Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ và đổi mới sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ tại Hội thảo

Cũng theo Bà Phan Thị Quý Trúc, đề án xây dựng mô hình hoạt động sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ do nhà nước quản lý. Để sàn hoạt động hiệu quả và thành công.

“Phía nhà nước cần có đội ngũ đủ năng lực hiểu biết, đánh giá chính xác những rủi ro, tiềm năng dự án, am hiểu thị trường khởi nghiệp. Như vậy, sàn mới có nhiều người dùng và thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo khởi nghiệp tại TP.HCM và Quốc gia phát triển”, ThS. Phan Thị Quý Trúc nhận định.

Chia sẻ kinh nghiệm thực tế, bà Nguyễn Hương Quỳnh - CEO của BambuUp cho rằng, khi xây dựng hoạt động cho sàn, nhà nước sẽ căn cứ theo quy định luật pháp để đưa ra nguyên tắc, điều kiện để các bên tham gia. Tuy nhiên, nếu xây dựng quá nhiều quy định có thể mất đi tính mở của sàn, nên cần cân nhắc. Rào cản quy định có thể là một trong những nguyên nhân khiến ít người tham gia, dẫn đến sàn thiếu kinh phí hoạt động.

“Nhà nước nên đứng vai trò bảo chứng cho một số nguyên tắc hoạt động của sàn, còn việc vận hành giao cho tư nhân theo mô hình thị trường với sự tham gia tự nguyện các bên”, bà Nguyễn Hương Quỳnh nói.

3720243.jpg

Bà Nguyễn Hương Quỳnh - CEO của BambuUp trình bày báo cáo về hiện trạng gọi vốn cộng đồng - thuận lợi, khó khăn và nhu cầu tại Hội thảo

Tại Hội thảo, các chuyên gia và đông đảo đại diện đến từ các quỹ đầu tư, trung tâm ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp, các startup trong cộng đồng hệ sinh thái khởi nghiệp Thành phố đã cùng chia sẻ kinh nghiệm thực tế, đóng góp các ý kiến cho Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM để sớm hình thành được sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Thành phố.

3720245.jpg

3720247.jpg

3720249.jpg

3720248.jpg

Các chuyên gia và đại diện các vườn ươm, quỹ đầu tư đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm cũng như đóng góp thêm ý kiến cho Hội thảo

Được biếtngày 18/02/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trong đó, Thủ tướng Chính phủ cũng giao cho Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Mới đây, cũng tại Công văn số 2399/VPCP-DMDN ngày 11/4/2024 của Văn phòng Chính phủ về việc xây dựng Đề án thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố tại Công văn số 4623/VP-KT ngày 29/4/2024 của Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố về xây dựng Đề án thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

3720244.jpg

Các đại biểu cùng chụp hình lưu niệm tại Hội thảo

Hoạt động nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc huy động vốn trong giai đoạn đầu khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường huy động vốn sơ cấp như nền tảng huy động vốn cộng đồng.

 Nhật Linh (CESTI)

Ngày 28/6/2024, Đoàn Khối Dân - Chính - Đảng TP.HCM cùng Đoàn Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội nghị tuyên truyền Nghị quyết số 98/2023/QH15 trong lĩnh vực quản lý khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo cho đoàn viên, thanh niên của các sở ban ngành, quận huyện, thành phố Thủ Đức.

Tại Hội nghị, đoàn viên, thanh niên của các sở ban ngành, quận huyện, thành phố Thủ Đức đã cùng chia sẻ và trao đổi về những chính sách của TP.HCM như: Đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế; NQ 19/2023/NQ-HĐND: Ưu đãi về tiền lương, tiền công và các phúc lợi khác; thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; NQ 20/2023/NQ-HĐND: Hỗ trợ không hoàn lại từ nguồn chi thường xuyên của ngân sách Thành phố cho chi phí ươm tạo dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo; NQ 13/2023/NQ-HĐND ngày 19/9/2023 của HĐND về mức chi triển khai Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” tại TP.HCM.

taphuannq98.jpg

Bên cạnh đó, đoàn viên, thanh niên cũng được cập nhật những thông tin quan trọng về Nghị quyết số 19/2023/NQ-HĐND ngày 11/11/2023 của HĐND TP.HCM quy định tiêu chí, đối tượng, điều kiện, mức chi về tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và các chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập và thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cùng Đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế (Quyết định số 5721/QĐ-UBND ngày 11/12/2023).

Theo đó, đoàn viên, thanh niên sẽ cần tìm hiểu, nâng cao năng lực và thực hiện tốt các bước kiểm soát quá trình triển khai chương trình, dự án khoa học và công nghệ như: quản lý tài chính, giám sát tiến độ thực hiện, ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lý, đánh giá kết quả triển khai theo các tiêu chí đã đề ra…

Hoàng Kim (CESTI)

Ngày 28/6, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao tổ chức hội nghị "Tìm kiếm các giải pháp phát triển sản xuất thông minh - kinh nghiệm từ cộng đồng doanh nghiệp".

Theo bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM), ngày 06/4/2024, Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Thông báo số 353/TB-VP về kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Phan Văn Mãi tại cuộc họp nghe báo cáo chương trình chế tạo chip và sản phẩm bán dẫn vi mạch và dự án sản xuất nông nghiệp. Trong đó, Chủ tịch Phan Văn Mãi chỉ đạo Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ban Quản lý Khu Công nghệ cao tổ chức hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao. Do vậy, hội nghị được thực hiện nhằm tạo cơ hội gặp gỡ, trao đổi thảo luận và tìm kiếm ý tưởng đề xuất đặt hàng các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực phát triển nhà máy thông minh, chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất và thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo tại TP.HCM.

Tại hội nghị, các chuyên gia, đại diện doanh nghiệp đã trình bày các báo cáo tham luận như Sản xuất bồi đắp trong xu thế công nghệ liên ngành (ông Nguyễn Xuân Hùng, Viện Công nghệ liên ngành CIRTECH - Đại học Công nghệ TP.HCM); Sáng kiến số hóa sản xuất (ông Phạm Phan Anh, Công ty TNHH Mitsubishi Electric Việt Nam); Các giải pháp phục vụ trong phát triển sản xuất thông minh (ông Tống Phước Thiện, Công ty TNHH Kỹ thuật Công nghệ Điện Tự động Biển Đông - ESTEC); Các cơ chế, chính sách về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố (ông Phan Quốc Tuấn, Sở KH&CN TP.HCM).

Theo ông Nguyễn Xuân Hùng, sản xuất bồi đắp (tên gọi quen thuộc là in 3D) đang mang đến một cuộc cách mạng trong nhiều ngành nghề từ giáo dục, y tế đến các lĩnh vực công nghiệp. Nó có khả năng tạo ra các sản phẩm phức tạp và tùy chỉnh với độ chính xác cao, giảm thiểu lãng phí vật liệu và tiết kiệm thời gian sản xuất. Trong 10 năm qua, CIRTECH đã đạt được những kết quả trong chương trình nghiên cứu về công nghệ in 3D, có thể phát triển theo xu hướng ứng dụng của sản xuất bồi đắp hiện nay. Cụ thể như, trong lĩnh vực y tế, in 3D được sử dụng để tạo ra các mô cấy y tế tùy chỉnh, dụng cụ phẫu thuật và mô hình giải phẫu; trong ngành xây dựng, sản xuất bồi đắp được sử dụng để xây dựng các tòa nhà và cấu trúc phức tạp, giảm thiểu lãng phí vật liệu và tiết kiệm thời gian thi công. Đối với ngành cơ khí chế tạo, in 3D được sử dụng để tạo ra các nguyên mẫu, dụng cụ và phụ tùng thay thế, hoặc sửa chữa chi tiết, góp phần giảm chi phí và tiết kiệm tài nguyên cũng như tối thiểu thời gian sản xuất, cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng; ngành thời trang, sản xuất bồi đắp được sử dụng để tạo ra các sản phẩm thời trang tùy chỉnh, giảm thiểu lãng phí vải và thúc đẩy tính bền vững;…

11HDKHLVhnsanxuatthongminhh5.jpg

Các báo cáo viên trình bày tham luận tại hội nghị

Ông Tống Phước Thiện cho rằng, để phát triển sản xuất thông minh, cần quan tâm đến hệ thống sản xuất sử dụng các công nghệ kỹ thuật số nhằm đạt được những cải tiến năng suất, tính linh hoạt và cải thiện chất lượng sản phẩm. Cụ thể, hệ thống này phải có khả năng tự động hóa và kiểm soát vận hành sản xuất (kết nối các thiết bị, máy móc và hệ thống PLC, Robot, CNC trong nhà máy, giám sát và vận hành); khả năng hỗ trợ sản xuất (lập kế hoạch sản xuất tiên tiến, thực thi sản xuất, quản lý chất lượng, quản lý năng lượng, quản lý bảo trì sửa chữa,…); khả năng tích hợp các hệ thống công nghệ thông tin và công nghệ vận hành (IT và OT) để tạo ra một hệ thống sản xuất thống nhất, nơi mà dữ liệu được chia sẻ và sử dụng một cách hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống sản xuất thông minh còn có khả năng thu thập, tổng hợp dữ liệu của nhiều nguồn khác nhau, phân tích dữ liệu các mối liên kết có giá trị, từ đó tối ưu hóa quy trình và giảm thiểu lãng phí; sử dụng các thuật toán AI (trí tuệ nhân tạo) và ML (học máy) để trợ lý vận hành, tự động hóa các quy trình, dự đoán sự cố,…

11HDKHLVhnsanxuatthongminhh6.jpg

Với vai trò là nhà cung cấp giải pháp trong lĩnh vực tự động hóa và số hóa cho các ngành công nghiệp tại Việt Nam, ESTEC cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong quá trình triển khai sản xuất thông minh và chuyển đổi số. Theo ông Thiện, áp dụng hệ thống sản xuất thông minh có thể mang lại nhiều lợi ích như giúp quản lý tập trung các mô hình sản xuất đa dạng PLC, CNC, Robot, IoT; thông tin sản xuất từ máy móc thiết bị đến người vận hành được quản lý chính xác và tường minh, hiển thị trực tuyến; tạo kênh thông tin thông suốt giữa các đơn vị sản xuất, phòng ban, cấp quản lý sản xuất trong nhà máy; hỗ trợ cho các hoạt động bảo hành, bảo trì máy móc thiết bị; kết nối thông tin của hệ thống tự động hóa đến các hệ thống lập kế hoạch sản xuất hoặc thực thi sản xuất MES;…

Tuy nhiên, quá trình triển khai sản xuất thông minh và chuyển đổi số cũng đi kèm những khó khăn thách thức đối với doanh nghiệp, bởi sản xuất thông minh không chỉ đơn thuần là áp dụng công nghệ vào sản xuất mà còn là cách tiếp cận toàn diện trong quản lý để tối ưu hóa hiệu quả, giảm chi phí và tăng năng suất.

11HDKHLVhnsanxuatthongminhh3.jpg

Phần trao đổi, thảo luận tại hội nghị

Đồng tình với góc nhìn này, các ý kiến thảo luận tại hội nghị cũng cho rằng, hiện nay, phát triển sản xuất thông minh gắn với chuyển đổi số, sản xuất sạch, sản xuất xanh, phát triển bền vững là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường phải đối mặt với hạn chế về nguồn lực, kinh phí và khả năng thích ứng với công nghệ. Song, để tiếp cận sản xuất thông minh và chuyển đổi số, trước hết phải bắt đầu từ "ý chí", nhận thức chuyển đổi số là chuyển đổi về tư duy vận hành, từ đó đặt ra mục tiêu và quyết tâm thực hiện; tiếp đến là quá trình triển khai áp dụng công nghệ mới, cùng với việc tiếp cận các cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước.

11HDKHLVhnsanxuatthongminhh4.jpg

Ông Phan Quốc Tuấn (đại diện Sở KH&CN) trình bày về các cơ chế, chính sách hỗ trợ trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, sản xuất thông minh

Về các chính sách hỗ trợ thúc đẩy sản xuất thông minh, ông Phan Quốc Tuấn cho biết, trong những năm qua, Sở KH&CN TP.HCM đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp như Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng, sản phẩm hàng hóa; Hỗ trợ huấn luyện nâng cao năng lực quản trị tài sản trí tuệ; Hỗ trợ dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo; Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Các nội dung hỗ trợ gồm huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức cho các doanh nghiệp về các giải pháp nâng cao năng suất chất lượng, các mô hình, công cụ cải tiến năng suất trong lĩnh vực chuyên ngành; hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, công cụ cho sản xuất thông minh; tiền công lao động trực tiếp cho cá nhân, nhóm cá nhân thực hiện dự án khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; chi phí tổ chức hoạt động tuyển chọn dự án, thuê chuyên gia, sử dụng các dịch vụ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; tiền thù lao tham gia nhiệm vụ khoa học và công nghệ;…

Năm 2024, Sở tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ với mục tiêu tổ chức triển khai các chương trình, đề án của Chính phủ (hệ thống truy xuất nguồn gốc, đo lường nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế); triển khai Chiến lược sở hữu trí tuệ và phát triển tài sản trí tuệ; trình độ và năng lực công nghệ sản xuất của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chủ lực 4 ngành công nghiệp trọng yếu trên địa bàn Thành phố; hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thông minh, chuyển đổi số, kinh tế xanh - chuyển đổi xanh.

Trong đó, TP.HCM đang triển khai một số hoạt động, chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực sản xuất thông minh như: Quỹ Phát triển KH&CN TP.HCM hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sản xuất thông minh. Quỹ cũng tài trợ cho các dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và các hoạt động khởi nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, Chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp (SpeedUp) do Sở KH&CN quản lý đang triển khai các chính sách hỗ trợ cho các startup và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SEMs) trong việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao; cung cấp các gói tài trợ, tư vấn, đào tạo và kết nối mạng lưới cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thông minh.

11HDKHLVhnsanxuatthongminhh2.jpg

Bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM) phát biểu tại hội nghị 

Bà Nguyễn Thị Kim Huệ cho biết thêm, bên cạnh Chương trình Nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021 – 2025 (với 6 chương trình gồm: Nghiên cứu ứng dụng công nghệ phục vụ đô thị thông minh và chuyển đổi số, Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao, Nghiên cứu phát triển công nghệ công nghiệp, Nghiên cứu quản lý và phát triển đô thị, Nghiên cứu chăm sóc sức khỏe, Vườn ươm khoa học và công nghệ Trẻ), Sở KH&CN đang triển khai các chương trình chính sách hỗ trợ cụ thể khác liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, sản xuất thông minh mà các doanh nghiệp, trường, viện nghiên cứu trên địa bàn Thành phố có thể tham gia. Hiện nay, lợi thế của TP.HCM là các cơ chế chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo khá đầy đủ. Do vậy, Sở KH&CN mong muốn thông qua những hoạt động hội thảo, hội nghị sẽ kết nối các bên cùng tiếp cận thông tin, chia sẻ giải pháp để tiến tới xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất thông minh, nhà máy thông minh trong các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế của TP.HCM.   

Lam Vân (CESTI)

Hội nghị được tổ chức nhằm báo cáo cách thức, tổ chức thực hiện Nghị quyết số 19/2023/QĐ-HDND ngày 11/11/2023 của Hội đồng nhân dân Thành phố về ban hành Quy định tiêu chí, đối tượng, điều kiện được hưởng ưu đãi tiền lương, tiền công, chế độ phúc lợi và chính sách ưu đãi khác đối với các chức danh lãnh đạo trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập và thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Cũng như, báo cáo thông tin các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đăng ký tham gia Đề án. Đồng thời, hướng dẫn các bước, quy trình thực hiện, các biểu mẫu, cách thức đánh giá, chấm điểm. Qua đó, trao đổi, thảo luận, đề xuất, tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học để giúp Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM có thêm căn cứ phát triển và triển khai thành công Đề án.

Chiều ngày 26/6/2023, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã tổ chức Hội nghị triển khai phổ biến quy chế, quy định liên quan đến đánh giá, xét chọn các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đăng ký tham gia thực hiện Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế”. Tham dự Hội nghị về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Chánh văn phòng Bộ, Giám đốc Văn phòng đại diện phía Nam. Về phía Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM có TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở; TS. Lê Thanh Minh - Phó Giám đốc Sở, cùng dự còn có đại diện lãnh đạo các phòng chức năng, trung tâm trực thuộc Sở. Về phía chuyên gia đầu ngành có GS.TS. Nguyễn Văn Phước - Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật TP.HCM, kiêm Chủ tịch Hội đồng khoa học Thành phố cùng hơn 20 chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các trường viện, trung tâm nghiên cứu, các hội khoa học trên địa bàn Thành phố.

2762024.jpg

Hội nghị nhận được nhiều sự quan tâm của các chuyên gia khoa học đến từ các trường, viện, các hội khoa học trên địa bàn Thành phố tham dự

Theo đại diện Ban tổ chức, ngày 11/11/2023, Ủy ban nhân dân TP.HCM đã ban hành Quyết định số 5721/QĐ-UBND phê duyệt Đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế và Kế hoạch số 729/KH-UBND ngày 13/02/2024 nhằm triển khai Đề án nêu trên.

Theo Kế hoạch, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã ban hành Thông báo số 493/TB-SKHCN ngày 07/02/2024 mời đăng ký thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế và đến nay Sở đã nhận được 10 hồ sơ đăng ký tham gia.

Nhằm cho việc tổ chức triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đăng ký tham gia thực hiện Đề án nêu trên được đảm bảo về hiệu quả, công khai, minh bạch, thống nhất và đồng bộ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã ban hành Kế hoạch số 2007/KH-SKHCN ngày 05/6/2024, trong đó bao gồm việc tổ chức phổ biến quy chế, quy định liên quan đến việc đánh giá, xét chọn các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đăng ký tham gia cho các thành viên dự kiến sẽ tham gia Hội đồng tư vấn và các tổ chức, cá nhân tham gia công tác quản lý nhiệm vụ.

27620241.jpg

TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu tại Hội nghị

Phát biểu tại Hội nghị, TS. Nguyễn Việt Dũng - Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM nhận định, Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế” là một cách để Thành phố tập trung đầu tư nguồn lực vào các nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm xuất sắc, giúp tinh gọn trong phân bổ ngân sách cho khoa học và công nghệ, tránh đầu tư dàn trải.

“Chúng tôi khuyến khích các đơn vị nghiên cứu mạnh, hợp tác trong và ngoài nước để giải quyết các vấn đề thực tiễn bằng sản phẩm cụ thể, từ đó giúp hình thành trung tâm đạt chuẩn quốc tế. Toàn bộ quy trình tuyển chọn đơn vị tham gia Đề án được thực hiện theo nguyên tắc công khai, minh bạch với tiêu chí rõ ràng, được thẩm định bởi Hội đồng chuyên môn độc lập”, ông Nguyễn Việt Dũng nhấn mạnh.

Cũng tại Hội nghị, ThS. Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã trình bày báo cáo “Cách thức, tổ chức thực hiện Nghị quyết số 19/2023/QĐ-HĐND, phổ biến các thông tin về các nhiệm vụ khoa học công nghệ đăng ký tham gia Đề án “Xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế” cũng như Hướng dẫn quy trình thực hiện đánh giá hồ sơ nhiệm vụ”.

Cụ thể, mục tiêu của Đề án nhằm hỗ trợ một số tổ chức khoa học công nghệ công lập có tiềm lực trên địa bàn TP.HCM phát triển thành trung tâm nghiên cứu ứng dụng, đổi mới sáng tạo đạt chuẩn quốc tế. Đề án phấn đấu đến cuối năm 2025, có ít nhất 2 đơn vị tiệm cận trình độ quốc tế; đến năm 2030 có ít nhất 5 đơn vị tiệm cận, đạt chuẩn quốc tế; đến 2045 có ít nhất 5 đơn vị đạt chuẩn quốc tế.

“Trưởng nhóm mạnh, nhiều nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm xuất sắc, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế”, ThS. Nguyễn Thị Thu Sương đặt kỳ vọng.

27620243.jpg

ThS. Nguyễn Thị Thu Sương - Quyền Trưởng phòng Phòng Quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chia sẻ nhiều nội dung tại Hội nghị

Theo Đề án, tiêu chí của trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế gồm: Công bố trung bình mỗi năm ít nhất 10 bài báo trên các tạp chí khoa học trong cơ sở dữ liệu Web of Science, Scopus; được cấp ít nhất 5 bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích, hoặc 10 văn bằng bảo hộ giống cây trồng, hoặc 5 văn bằng bảo hộ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.

Ngoài ra, các tổ chức phải có ít nhất 10 hoạt động chuyển giao công nghệ, hoặc 10 hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hoặc có 1 sản phẩm khoa học và công nghệ được công nhận; có ít nhất 3 hợp đồng hợp tác nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo với các tổ chức nghiên cứu phát triển, doanh nghiệp, đặc biệt ưu tiên đối với các đối tác quốc tế. Đồng thời, tổ chức khoa học và công nghệ công lập cũng cần có năng lực phát triển bền vững, năng lực lãnh đạo, quản trị tổ chức và hiệu quả ứng dụng phục vụ phát triển Thành phố.

Trong giai đoạn 5 năm đầu, tổ chức nghiên cứu phải đạt các chỉ tiêu như số bài báo quốc tế, số bằng độc quyền sáng chế, số lượt chuyển giao công nghệ, số nghiên cứu được thương mại hóa, số lượng hợp đồng hợp tác nghiên cứu, số chính sách được ứng dụng, tăng từ 2 - 5 lần tùy lĩnh vực so với trước khi tham gia triển khai Đề án. Đây là các chỉ số đo lường kết quả tác động của Đề án, qua đó làm cơ sở đánh giá về mức độ thành công của Đề án khi tổng kết và có cơ sở đề xuất điều chỉnh, bổ sung giai đoạn tiếp theo (nếu có). Ngoài ra, định kỳ 3 tháng/lần, tổ chức tham gia phải thực hiện chế độ báo cáo. Nếu không đạt yêu cầu, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM có thể xem xét chấm dứt ở bất cứ giai đoạn nào và kết thúc năm tài chính, tổ chức chủ trì tiến hành thuê đơn vị tư vấn kiểm toán độc lập.

Khi tham gia, các trung tâm này được hưởng một số chính sách ưu đãi đặc thù, thu nhập cho lãnh đạo tối đa 120 triệu đồng, chính sách thù lao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ mức 60 triệu đồng cho chủ nhiệm đề tài, cùng các chính sách ưu tiên đầu tư công về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và trang thiết bị cũng như hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo như: hoạt động nâng cao năng suất chất lượng, sở hữu trí tuệ, thương mại hóa; hoạt động khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; hội thảo, diễn đàn, triển lãm khoa học và công nghệ; hoạt động hợp tác quốc tế theo các chính sách hỗ trợ hiện hành.

Để được tham gia Đề án, tổ chức khoa học và công nghệ công lập cần chuẩn bị hồ sơ năng lực giới thiệu các nội dung gồm: Chương trình, dự án khoa học và công nghệ trong giai đoạn từ 3-5 năm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đáp ứng định hướng phát triển của Thành phố; Kế hoạch hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế; Hồ sơ minh chứng năng lực, nguồn lực để đảm bảo tổ chức thực hiện chương trình, dự án khoa học và công nghệ.

27620245.jpg

Hội nghị đã nhận được nhiều thông tin chia sẻ, góp ý và đánh giá cao của các chuyên gia, nhà khoa học về việc triển khai các chương trình chính sách của Thành phố

27620246.jpg

Ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Chánh văn phòng Bộ, Giám đốc Văn phòng đại diện phía Nam Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ tại Hội nghị nhiều kinh nghiệm thực tiễn để giúp Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát triển thành công Đề án 

Thành phố lựa chọn ưu tiên 4 nhóm lĩnh vực tham gia đề án gồm: Lĩnh vực công nghệ như: (1) Công nghệ trí tuệ nhân tạo; Công nghệ Internet kết nối vạn vật; Công nghệ dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu lớn; Công nghệ chuỗi khối; Công nghệ thiết kế, chế tạo linh kiện, vi mạch điện tử tích hợp, điện tử linh hoạt; Robotics, công nghệ tự động hóa; Công nghệ in 3D tiên tiến. (2) Công nghệ sinh học; Công nghệ lai tạo, sản xuất giống trong nông nghiệp; Công nghệ thế hệ mới trong xử lý, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; Công nghệ tế bào gốc; Công nghệ vi sinh thế hệ mới; Công nghệ dược; Công nghệ sản xuất thiết bị, vật liệu kháng khuẩn, kháng virus sử dụng trong y tế; công nghệ dược phẩm, vật liệu y sinh, bộ phận giả, thiết bị y tế kỹ thuật cao. (3) Công nghệ vật liệu nano; vật liệu cho chế tạo linh kiện vi cơ điện tử và cảm biến thông minh; vật liệu bán dẫn, quang điện tử và quang tử; vật liệu in 3D tiên tiến; vật liệu y sinh học. (4) Lĩnh vực nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách phục vụ phát triển Thành phố.

Nhật Linh (CESTI)

Sự thành công của quá trình nghiên cứu tạo bộ kháng thể đơn dòng tái tổ hợp đặc hiệu tế bào T (CD3, CD4, CD8) sẽ mở ra một trang mới cho lĩnh vực Y dược trong việc ứng dụng trong chẩn đoán bệnh, giúp các sản phẩm sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập, đặc biệt là giảm chi phí cho người bệnh.

256202411.jpg

Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Tạo bộ kháng thể đơn dòng tái tổ hợp đặc hiệu tế bào T (CD3, CD4, CD8) ứng dụng trong chẩn đoán bệnh”. Đây là nhiệm vụ do Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM chủ trì thực hiện, TS Nguyễn Thị Thanh Thảo làm chủ nhiệm.

Theo nhóm nghiên cứu, kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8 không thể thiếu trong chẩn đoán nhiều dạng bệnh lý khác nhau dựa trên định danh và định lượng quần thể tế bào T bằng kỹ thuật đếm tế bào dòng chảy (flow cytometry). Bên cạnh đó, các kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8 không phải là sản phẩm mới trên thế giới nhưng đến nay chưa có nghiên cứu nào ở trong nước được thực hiện để phát triển các kháng thể đơn dòng này và tạo ra sản phẩm sử dụng trong chẩn đoán cũng như nghiên cứu. Toàn bộ kháng thể đơn dòng kháng CD3, 4, 8 được sử dụng hiện nay đều là sinh phẩm nhập khẩu có giá trị cao. Vì vậy rất cần phải thực hiện nghiên cứu phát triển sản phẩm kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8 để giảm giá thành xét nghiệm cho bệnh nhân, giảm sự lệ thuộc vào sản phẩm nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu sẽ góp phần mở ra một hướng đi mới là ứng dụng công nghệ protein tái tổ hợp tạo các sản phẩm kháng thể đơn dòng ứng dụng trong chẩn đoán bệnh. Đây là lĩnh vực công nghệ thuộc danh mục ưu tiên phát triển ở Việt Nam nhưng vẫn chưa tạo được sản phẩm nào ứng dụng trong thực tiễn.

256202421.jpg

Đại diện nhóm thực hiện báo cáo trước Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Đại diện nhóm thực hiện cho biết, mục tiêu của nhiệm vụ này là tạo được 3 kháng thể đơn dòng đặc hiệu CD3, CD4, CD8 của người có thể ứng dụng định lượng tế bào T bằng phương pháp flow cytometry. Đồng thời, xây dựng được quy trình định tính và định lượng quần thể tế bào T CD3+ CD4+ và CD3+ CD8+ sử dụng 3 kháng thể đơn dòng tạo ra trên mẫu máu ngoại vi của người bằng flow cytometry. Bên cạnh đó, bước đầu đánh giá được khả năng sử dụng thực tế của kháng thể đơn dòng đặc hiệu CD3, CD4, CD8 và quy trình định tính, định lượng quần thể tế bào T tại cơ sở y tế.

Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tập trung tạo dòng plasmid tái tổ hợp mang gene mã hóa kháng thể đơn dòng CD3, CD4 và CD8, tiếp đến thực hiện khảo sát biểu hiện tạm thời kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4 và CD8 trên tế bào CHO-DG44. Bên cạnh đó, thực hiện tạo quần thể tế bào CHO-DG44 biểu hiện ổn định kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4 và CD8 với hàm lượng cao nhất và tối ưu hóa khả năng tổng hợp kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8 của quần thể tế bào CHO-DG44. Ngoài ra còn, khảo sát biểu hiện, tính sạch và đánh dấu huỳnh quang kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8 cũng như xây dựng quy trình định tính và định lượng quần thể tế bào T CD3+CD4+ và CD3+CD8+ trên mẫu máu ngoại vi của người bằng flow cytometry, đồng thời đánh giá hoạt động thực tế của kháng thể đơn dòng kháng CD3, CD4, CD8.

256202431.jpg

Thành viên Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ nhận xét và góp ý cho đề tài

Kết quả, nhóm nghiên cứu đã tạo ra được 03 quần thể tế bào CHO-dhfr (-) có khả năng biểu hiện ổn định kháng thể đơn dòng kháng CD3ε, CD4 hoặc CD8α. Kháng thể đơn dòng có thể có cấu trúc dimer và có khả năng tương tác chuyên biệt với kháng nguyên hiện diện trên bề mặt tế bào T nuôi cấy in vitro và tế bào T trong máu ngoại vi người. Đồng thời, hình thành quy trình định lượng tế bào T từ PBMC thu thập từ máu ngoại vi người với bộ kháng thể đơn dòng đặc hiệu tế bào T được tối ưu hóa, đạt độ ổn định khoảng 80%-90% trên cả mẫu bình thường và mẫu bệnh với ngưỡng giới hạn cho phép là ±10% giá trị định lượng của kháng thể thương mại đang được sử dụng trong lâm sàng.

Không những thế, đề tài thực hiện thành công sẽ tạo được sản phẩm cụ thể là bộ kháng thể đơn dòng đặc hiệu CD3, CD4, CD8 ứng dụng trong nghiên cứu và chẩn đoán bệnh. Bộ kháng thể này có thể được sản xuất, đơn vị thương mại, cho nhà nước qua thuế và các khoản thu khác, giúp tiết kiệm chi phí cho đơn vị sử dụng và cho bệnh nhân. Bộ kháng thể đơn dòng đặc hiệu tế bào T là tiền đề để phát triển các bộ kit cũng như dịch vụ chẩn đoán các bệnh liên quan đến tế bào T do Việt Nam sản xuất. Các bộ kit cũng như các dịch vụ chẩn đoán sẽ có chất lượng tương đương với các bộ kit chẩn đoán tương tự của nước ngoài nhưng giá thành sẽ cạnh tranh hơn. Ngoài ra, các bộ kit và dịch vụ do Việt Nam phát triển sẽ giúp làm giảm sự phụ thuộc và các bộ kit của nước ngoài và góp phần thúc đẩy sản xuất sản phẩm kháng thể trong nước.

Nhật Linh (CESTI)


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537378