SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Kiểm nghiệm Salmonella spp. trong thực phẩm là cơ sở để triển khai những nhiệm vụ nghiên cứu mới nhằm tăng cường công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn TPHCM.

Vệ sinh an toàn thực phẩm hiện là lĩnh vực "nóng" của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu nói chung và cả Việt Nam nói riêng, vì ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng. Trong đó, Salmonella spp. được giới khoa học nhận định một trong những tác nhân gây ngộ độc thực phẩm phổ biến nhất trên thế giới, với hàng triệu ca nhiễm hằng năm, dẫn đến hàng trăm ngàn trường hợp tử vong. Mặt khác, sự gia tăng về mức độ kháng kháng sinh của Salmonella spp. có mặt trong thực phẩm là một vấn đề quan ngại trên toàn cầu trong những thập kỷ gần đây bởi sự lạm dụng kháng sinh trong điều trị trên cơ thể người và trong ngành chăn nuôi. 

Để kiểm nghiệm một mẫu thực phẩm thế nào là an toàn thì đòi hỏi các nhà khoa học phải nghiên cứu thật kỹ quy trình xử lý mẫu sau khi thu thập, chuẩn bị mẫu thử, huyền phù ban đầu và các dung dịch pha loãng thập phân để kiểm tra vi sinh vật, phân tích định tính/định lượng các chỉ tiêu vi sinh bằng kỹ thuật nuôi cấy truyền thống kết hợp với các kỹ thuật sinh học phân tử hiện đại. Đây là vấn đề chưa có nhiều thông tin tham khảo, vì thế một nhóm chuyên gia đang công tác tại Trung tâm Dịch vụ Phân tích Thí nghiệm TP.HCM đã chủ động triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ “Khảo sát mức độ nhiễm vi sinh vật và đánh giá khả năng kháng kháng sinh của Salmonella spp. trong thực phẩm tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh”, hỗ trợ công tác kiểm soát, ô nhiễm thực phẩm và sử dụng kháng sinh hợp lý trong điều trị và chăn nuôi.

Theo đó, nhóm nghiên cứu do ThS. Trương Huỳnh Anh Vũ phụ trách đã tiến hành thử nghiệm khả năng nhạy với kháng sinh của 150 chủng Salmonella spp. (được phân lập từ mẫu thực phẩm) với 11 loại kháng sinh, xác định hàm lượng ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh lên Salmonella spp., từ đó xác định được số lượng Salmonella spp. kháng và đa kháng kháng sinh. Tiếp đó, sau khi thu nhận và tuyển chọn các chủng c spp. có kiểu hình kháng và đa kháng, nhóm nghiên cứu đã phát hiện gene kháng khánh sinh và các integron nhóm 1, 2 và 3 đối với Salmonella spp. có kiểu hình đa kháng bằng kỹ thuật multiplex PCR.

ntnv

Các chủng Salmonella spp. phân lập được có khả năng kháng cao với TE, AMP, STR, C và SXT (34,67%-52,0%). Ngược lại, 96,0% số chủng nhạy với CAZ. Kiểu hình kháng phổ biến là AMP, C, TE, SXT chiếm 8,51%; kiểu hình phổ biến thứ hai là AMP, C, NA, GN, STR, TE, SXT chiếm 6,38% và sau cùng là kiểu hình STR, TE 5,32%. Từ 21 chủng Salmonella spp. có kiểu hình đa kháng định danh được 7 serovar, phổ biến nhất là S. Kentucky (8 chủng); S. Infantis (4 chủng); S. Agona và S. Potsdam (2 chủng); S. Saintpaul, S. Braenderup và S. Indiana (01 chủng). Khả năng kháng của Salmonella spp. chỉ với 1 loại kháng sinh là 11,33%, 3 đến 6 loại là 30,67% và 7 đến 11 loại là 14%. Tỷ lệ Salmonella spp. đa kháng là 44,67%.

Tỷ lệ phát hiện Salmonella spp. mang integron nhóm 1 và 3 là 100% (21/21); integron nhóm 2 là 52,38% (11/21); mang cùng lúc ba nhóm integron 1, 2 và 3 là 52,38% (11/21). Kết quả khảo sát vùng gene cassette dương tính với integron nhóm 1 là 85,71% với 08 kích thước khác nhau; dương tính với integron nhóm 2 là 72,73% với 5 kích thước khác nhau. 

Nhóm nghiên cứu đã xác định các đặc điểm phân tử liên quan đến cơ chế đa kháng kháng sinh của các serovar Salmonella phân lập từ thực phẩm như sự hiện diện của các nhóm integron, các gen kháng kháng sinh, hệ thống các kênh bơm ngược thải kháng sinh, đồng thời xác định được cấu trúc của integron nhóm 1 cùng với các vùng gene cassette mã hóa cho các enzyme và nhiều hệ thống kênh bơm ngược thải kháng sinh tham gia vào cơ chế đa kháng.

Đặc biệt, nhóm nghiên cứu ghi nhận tính đa kháng của các serovar có liên quan đến yếu tố di truyền chuyển vị là Tn21 mã hóa Urf2 mà hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào thông tin hay mô tả chi tiết chức năng hoạt động của chúng. Bên cạnh đó, nhóm còn xây dựng hoàn thiện quy trình phát hiện một số gene kháng kháng sinh nhóm beta-lactam phổ rộng (blaTEM, blaSHV, blaCTX) của Salmonella spp. với nhiệt độ gắn mồi là 54oC; bắt cặp đặc hiệu với DNA các chủng đích; độ nhạy phát hiện ở nồng độ DNA 0,2-0,4 µg/ml.

TS. Nguyễn Đỗ Phúc, thành viên Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ nói trên vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức hồi cuối tháng 9/2021, cho rằng Salmonella spp. là vi khuẩn không được phép có mặt trong thực phẩm, do đó cần tiếp tục làm rõ Salmonella spp. trong loại mẫu thịt nào là phổ biến, đặc biệt là những mẫu đã chế biến có thể sử dụng ngay bởi vì đây là những mối nguy hiểm cực lớn cho người dân.

"Số liệu báo cáo của nhiệm vụ là rất hữu ích, giúp cơ quan quản lý Nhà nước nhìn nhận lại các khâu trong sản xuất, lưu thông và thương mại trên thị trường để có biện pháp giám sát đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm", TS. Phúc nhận xét.

“Báo động đỏ” mức độ nhiễm Salmonella spp. trong thực phẩm

Từ tháng 9/2019 đến tháng 12/2020, nhóm nghiên thu thập ngẫu nhiên 2.940 mẫu thực phẩm (cả thực phẩm tươi sống và sản phẩm đã qua chế biến) ở 48 chợ truyền thống (2.680 mẫu) và 5 siêu thị (260 mẫu) trên địa bàn TP.HCM. 

Thực hiện quy trình phân tích định tính các chỉ tiêu vi sinh bằng kỹ thuật PCR, nhóm nghiên cứu phát hiện có đến 356/2.680 mẫu nhiễm Salmonella spp. tại chợ truyền thống (tỷ lệ 13,28%); 14/260 mẫu tại siêu thị có nhiễm Salmonella spp. (tỷ lệ 5,38%). Trong số này, nhóm mẫu thịt và sản phẩm từ thịt chiếm tỷ lệ nhiễm cao nhất, đến 34,93% (234/670) tại chợ và 15,38% (10/65) tại siêu thị. Tiếp theo là nhóm mẫu thủy hải sản và sản phẩm từ thủy hải sản, tỷ lệ là 18,06% (121/670) tại chợ và 6,15% (4/65) tại siêu thị. Nhóm mẫu rau củ quả chiếm tỷ lệ thấp nhất với 0,15% (1/670) nhưng chỉ phát hiện ở mẫu lấy tại chợ. Chưa ghi nhận trường hợp nào có nhiễm Salmonella spp. đối với nhóm trứng và sản phẩm từ trứng.

ntnv1

Nhận định về khả năng phát triển "kết quả" của đề tài, ThS. Trương Huỳnh Anh Vũ kiến nghị được hỗ trợ về cơ chế lẫn kinh phí để nhóm có thể tiếp tục nghiên cứu cấu trúc và cơ chế hoạt động của các bơm ngược thải kháng sinh của Salmonella, từ đó phát triển các chất ức chế bơm ngược thải kháng sinh, góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn và kiểm soát tình hình đa kháng kháng sinh của Salmonella trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, có thể thực hiện thêm một số nghiên cứu nhằm làm rõ vai trò của các gene độc lực có ảnh hưởng, tác động đến chức năng thu nhận gene kháng kháng sinh và điều hoạt hoạt động vùng gene cassette của các nhóm integron trong các chủng Salmonella được phân lập từ thực phẩm.

Nhóm nghiên cứu đã thực hiện nhiệm vụ rất tâm huyết, khảo sát được hiện trạng vô cùng nóng của vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là nghiên cứu cơ bản hết sức quan trọng. Sở KH&CN TP.HCM tiếp tục đặt hàng nhóm thực hiện những nhiệm vụ mới có liên quan đến kết quả này nhằm mở rộng hướng nghiên cứu, đề xuất những tiêu chuẩn hoặc giải pháp bảo quản để hỗ trợ cho cơ quan quản lý Nhà nước tăng cường công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe của người dân.”, bà Chu Vân Hải, Phó Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM nhận xét về kết quả của nhiệm vụ. 

Theo đó, Sở KH&CN TPHCM sẽ đẩy mạnh hỗ trợ nghiên cứu triển khai các phương pháp phân tích nhanh tại chỗ có độ nhạy, chính xác cao để phát hiện kịp thời các chất cấm, độc tố, tồn dư kháng sinh và vi sinh vật chỉ thị nhằm rút ngắn thời gian cho kết quả kiểm nghiệm, làm cơ sở cho cơ quan chức năng quyết định xử lý kịp thời, hạn chế nguy cơ thực phẩm bẩn vẫn tiếp tục lưu thông hoặc bị phân phối đến người tiêu dùng trong thời gian chờ kết quả kiểm nghiệm.

Một tổ chức khoa học công nghệ tại TP.HCM vừa nghiên cứu, chế tạo thành công hệ thống máy in 3D khổ lớn tích hợp máy quét (scanner) vật thể gốc 

Thực tế cho thấy, công nghệ in 3D là một thành tựu quan trọng của ngành in ấn và cơ khí chính xác trong bối cảnh hàng loạt tiến bộ khoa học công nghệ đã và đang được ứng dụng trực tiếp vào mọi mặt của đời sống, qua đó cho phép người dùng cho dù ở quy mô gia đình hay tổ chức, doanh nghiệp vẫn có thể nhanh chóng, dễ dàng tạo ra các sản phẩm theo nguyên lý bồi đắp lớp vật liệu thay vì phải cắt gọt phôi trong quy trình tạo sản phẩm truyền thống. Hay nói cách khác, công nghệ in 3D giúp cải tiến kỹ thuật, rút ngắn thời gian tạo mẫu và quy trình sản xuất, từ đó kéo giảm giá thành và tăng tối đa lợi ích cho doanh nghiệp.

Thị trường máy in 3D hiện nay ghi nhận sự đa dạng về chủng loại thiết bị. Cùng với đó, một số dòng máy in 3D chế tạo và sản xuất trong nước đã được tích hợp khả năng phối màu, in sản phẩm với độ chính xác cao, thậm chí tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.

MH3D

Sản phẩm hoàn thiện máy in 3D hỗ trợ gia công sản phẩm có kích thước tối đa 1.200x600x1.200mm

Đáng chú ý, thời gian gần đây, một số mẫu máy in 3D khổ lớn cũng đang được nhiều doanh nghiệp sản xuất quan tâm, bởi khả năng hỗ trợ đắc lực cho thiết kế kiến trúc, xây dựng mẫu, ứng dụng cơ khí… giúp doanh nghiệp kiểm tra, thử nghiệm và điều chỉnh thực tế trước khi tiến hành sản xuất hàng loạt.

Nhận thấy tiềm năng trên, ThS. Phạm Quốc Phương và nhóm cộng sự công tác tại Viện Nghiên cứu Điện tử - Tin học - Tự động hóa (Phân viện TP.HCM) đã nghiên cứu, chế tạo thành công máy in 3D khổ lớn tích hợp bộ máy quét (scanner) 3D. Cụ thể, đó là máy in 3D có khả năng gia công sản phẩm với quy cách kích thước lên đến 1.200x610x1.200mm, kết hợp với máy quét 3D có khả năng quét vật thể gốc ở mức kích thước tối đa 600x600x600mm.

ThS. Phạm Quốc Phương, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, đa số máy in 3D nội địa hiện nay chỉ phù hợp cho nhu cầu tạo ra các sản phẩm kích thước nhỏ (quy cách tối đa 500x500mm hay 600x600mm) như đồ chơi, đồ dùng văn phòng, học tập, trang trí; trong khi đó, để phục vụ sản xuất công nghiệp, thực tế đòi hỏi các thiết bị in 3D phải tạo ra sản phẩm kích thước lớn (lên đến 1.000x1.000mm hoặc lớn hơn). Hơn nữa, việc thiết kế máy tạo sản phẩm kích thước lớn gặp khó khăn về sự đồng đều sản phẩm, mức chính xác cao có một thể tích lớn, và cả khâu cấp nguyên liệu (in) liên tục.

MH3D1

Một sản phẩm 3D được gia công in 3D từ nguyên mẫu làm bằng gỗ.

Chính vì thế, nhóm nghiên cứu đã tạo ra máy in 3D khổ lớn theo công nghệ FDM. Bên cạnh các giải thuật được lập trình cho bộ điều khiển máy in và máy quét, cũng như phần mềm quản lý quét vật thể/ảnh đa diện và vận hành máy in 3D, thì nhóm nghiên cứu cũng đã chủ động phát triển hàng loạt cải tiến mới để tạo ra giải pháp ổn định hơn so với các giải pháp máy in hiện có trên thị trường. Cụ thể, hệ thống khung sườn của máy có mức nội địa hóa cao, đảm bảo độ cứng tốt, vững chắc, hạn chế tối đa rung lắc khi vận hành quá trình in vật liệu.

Đối với hệ thống điều khiển, nhóm nghiên cứu sử dụng động cơ dạng hybrid (tức động cơ lai giữa động cơ bước và động cơ servo), cung cấp độ chính xác cao và có độ sai số thấp hơn. Phần đầu đùn vật liệu được gia nhiệt bằng nhiệt trở, có gắn cảm biến đo nhiệt độ và đưa về bộ điều khiển để so sánh với giá trị đặt, cho phép điều khiển dòng đốt ổn định. Tùy thuộc sợi nhựa sử dụng, người điều khiển có thể lựa chọn nhiệt độ cho đầu đùn thích hợp.

MH3D2

Cấu hình máy in 3D khổ lớn 3 trục tịnh tiến.

Theo ThS. Phương, quá trình thiết kế sản phẩm truyền thống thường dựa theo mẫu có sẵn, sau đó vẽ vật thể bằng cách đo đạc và dựng hình rất tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian, công sức. Trong khi đó, "phương pháp thiết kế ngược" để tạo hình sản phẩm bằng cách dùng máy quét 3D quét toàn bộ sản phẩm để lấy các dữ liệu không gian ba chiều, sau đó sử dụng máy tính để dựng hình sản phẩm.

"Việc tạo hình sản phẩm bằng máy quét 3D kết nối trực tiếp với máy in 3D sẽ nâng cao mức tự động hóa chế tạo sản phẩm", ThS. Phạm Quốc Phương nhận định.

Máy quét 3D tích hợp trong giải pháp được nhóm nghiên cứu thiết kế dựa trên công nghệ laser tam giác lượng và công nghệ ánh sáng có cấu trúc, chiếu lên vật thể và thu ảnh bằng camera kép, giúp tăng độ chính xác, tăng kích thước vùng quét để thu thập dữ liệu không gian ba chiều của những vật mẫu kích thước lớn, nhằm cung cấp dữ liệu đầy đủ cho hệ thống in 3D.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của máy quét 3D laser tam giác lượng chính là thuộc tính của bề mặt cần quét ảnh hưởng đến quá trình quét, ví dụ như các bề mặt rất sáng bóng, trong suốt vì thế có thể khiến việc quét gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được.

MH3D3

 Nguyên mẫu máy quét 3D được chế tạo.

Chính vì thế, nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu và khắc phục các vấn đề này, đồng thời ứng dụng thêm các giải pháp phần mềm làm mịn bề mặt sản phẩm quét 3D, cho phép có thể sử dụng ngay các tập tin quét cho máy in 3D mà không cần điều chỉnh hay áp dụng các phương pháp chuyển đổi tập tin quét sang định dạng in 3D. Việc tạo sản phẩm máy quét 3D kết nối trực tiếp với máy in 3D khổ lớn tạo ra một hệ thống liên tục từ quét ảnh, xử lý tập tin dữ liệu ảnh cho máy in 3D, cho đến quá trình in ấn ra sản phẩm một cách tự động.

Đáng chú ý, thông qua ứng dụng quét ảnh và các thuật toán nội suy đi kèm với giải pháp được hoàn thiện, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết dù kích thước vật thể gốc ở mức 600x600mm thì vẫn có thể được phóng to lên theo tỷ lệ tương ứng để sau đó gia công in ở các mức kích thước lớn hơn.

Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, hệ thống máy in 3D khổ lớn tích hợp scanner 3D có thể chuyển giao và khai thác thực tế, qua đó đem lại hiệu quả kinh tế trên cơ sở thiết bị có mức nội địa hóa cao, góp phần tự động hóa sản xuất tại các doanh nghiệp sản xuất, nâng cao năng suất lao động, độ đồng nhất của sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.

Nhận định về hiệu quả kinh tế, ThS. Phạm Quốc Phương cho biết, nếu đưa vào sản xuất hàng loạt thì giá thành (sản xuất) của giải pháp máy in 3D cũng như máy quét 3D vốn là sản phẩm của đề tài nghiên cứu vừa được Sở KH&CN TPHCM nghiêm thu sẽ vào khoảng 300 triệu đồng/máy, và con số này hoàn toàn thấp hơn nhiều so với sản phẩm nhập ngoại với tính năng và tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đặc biệt, với giải pháp máy quét 3D với độ phân giải và độ chính xác cao, hiện tại Việt Nam có rất ít đơn vị nhập về sản phẩm có tính năng tương tự vì giá thành có thể lên đến hàng tỷ đồng, chủ yếu chỉ vài tập đoàn công nghệ và công nghiệp lớn chủ động nhập về để phục vụ khâu thiết kế mẫu sản phẩm.

ThS. Phạm Quốc Phương khẳng định, trình độ của kỹ sư Việt Nam hiện nay hoàn toàn có thể phát triển các giải pháp máy in và máy quét 3D khổ lớn, và toàn bộ tài liệu kỹ thuật, quy trình chế tạo, sản xuất hai giải pháp mà Viện Nghiên cứu Điện tử - Tin học - Tự động hóa (Phân viện TP.HCM) vừa hoàn thành được chuẩn hóa, tổng hợp một cách khoa học để sẵn sàng chuyển giao cho các đơn vị có nhu cầu, cũng như mở rộng hợp tác để thương mại hóa hai sáng chế khoa học bằng cách đưa vào sản xuất hàng loạt.

TP.HCM đóng vai trò là cái nôi của cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp trên cả nước. Các hoạt động của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng sôi động.

Hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đang từng bước trở thành động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với phát triển kinh tế tri thức; tập trung nghiên cứu gắn kết với thực tiễn phục vụ phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển vượt bậc, và Việt Nam nằm trong nhóm 3 Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất ASEAN. Việt Nam cũng đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc thực hiện ĐMST quốc gia.

Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) của Việt Nam tăng từ 400 vào năm 2012 lên gần 1.800 vào năm 2015, 3.000 trong năm 2017, và năm 2019 ước đạt 3.800, trong đó, có gần 50% là số lượng startup tại TP.HCM. Vốn đầu tư mạo hiểm đổ vào các startup Việt đã tăng 6 lần trong giai đoạn 2015-2018, từ 140 triệu USD lên gần 900 triệu USD. Nhờ đó, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng hàng đầu, còn về quy mô hiện đã vươn lên vị trí thứ 3 (2020) từ vị trí thứ 6 (2015) trong khu vực. Trong kết quả này có phần đóng góp tích cực của TP.HCM với quy mô về nguồn lực, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm.

Rõ ràng, đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng trong việc tạo ra những ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật công nghệ, quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.

Đến nay, TP.HCM đã ban hành nhiều chính sách, từng bước hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trở thành cái nôi của cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp trên cả nước. Các hoạt động của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng sôi động, quy mô của các thành phần được mở rộng, đã kết nối trên 40 tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (cơ sở ươm tạo, tăng tốc, không gian làm việc chung, Quỹ đầu tư); thiết lập nền tảng kết nối chia sẻ dữ liệu 134 phòng thí nghiệm, 626 chuyên gia, 275 tổ chức KH&CN,... (số liệu thống kê tính đến hết năm 2020).

Những chính sách của Thành phố đã giúp các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nói chung và doanh nghiệp nói riêng có những chuyển biến rõ rệt về nhận thức, vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, Thành phố cũng thiết lập được mối quan hệ hợp tác với các tổ chức có uy tín trong và ngoài nước tham gia vào các hoạt động kết nối, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ cho hoạt động hỗ trợ ươm tạo và đổi mới sáng tạo, góp phần trong việc phát triển bền vững hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Thành phố.

istar20212

Không chỉ thế, TP.HCM còn đã quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu cải tiến công nghệ, hiện đại hóa thiết bị sản xuất, hỗ trợ đào tạo, tư vấn nâng cao năng suất, chất lượng và quản trị tài sản trí tuệ, tiếp cận nguồn vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khẳng định giá trị thương hiệu và phát triển bền vững. Điều này thể hiện qua việc số lượng doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo chiếm tỷ lệ 36,4%.

Theo Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020 (GII 2020) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố, năm 2020, Việt Nam duy trì được thứ hạng cao, ghi nhận năm thứ hai liên tiếp xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế trong bảng xếp hạng về chỉ số ĐMST toàn cầu, tăng 17 bậc so năm 2016 (vị trí thứ 59). Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số 1 trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á.

Tính chung trong các năm qua, Việt Nam nằm trong Top 50 nền kinh tế đạt được tiến bộ đáng kể nhất trong bảng xếp hạng theo thời gian, trong đó có sự đóng góp rất lớn từ những nỗ lực của TP.HCM. Sự phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Thành phố đã tạo được sức lan tỏa mạnh từ cộng đồng doanh nghiệp đến xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Hoàng Kim (CESTI)

Ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là con đường hiệu quả nhất có thể mang đến thành công, ổn định cuộc sống và nâng cao hiệu quả.

Dịch Covid-19 đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi phương thức hoạt động của nhiều doanh nghiệp, tổ chức từ làm việc trực tiếp sang trực tuyến, từ xa. Rõ ràng, đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là một xu hướng tất yếu, đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng. Đặc biệt, việc phát huy các thành tựu của khoa học công nghệ cùng với việc phối hợp hiệu quả giữa cơ quan quản lý Nhà nước, Trường - Viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã tạo ra các sản phẩm, giải pháp có chất lượng trong kiểm soát, phòng chống dịch bệnh Covid-19. Điển hình là Chương trình “Tìm kiếm và kết nối giải pháp đổi mới sáng tạo ứng phó dịch COVID-19 tại TP.HCM năm 2021 - HCMC Innovative Solution - COVID 2021 (HIS-COVID 2021) do Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM khởi xướng và tổ chức đã tiếp nhận được 99 giải pháp công nghệ đăng ký tham gia, từ đó lựa chọn Top 20 giải pháp khả thi để giới thiệu, chuyển giao cho Chính quyền Thành phố, Sở ban ngành và các hiệp hội doanh nghiệp của TP.HCM, góp phần giúp thành phố ứng phó với dịch Covid-19. Đồng thời, hỗ trợ hình thành và phát triển nền tảng dữ liệu về các công nghệ và giải pháp đổi mới sáng tạo hỗ trợ ứng phó đại dịch Covid-19 của cộng đồng doanh nghiệp đóng góp cho TP.HCM.

HISCOVID.jpg

Áp lực từ dịch bệnh đã buộc doanh nghiệp đã và đang tìm kiếm công nghệ tự động hóa dây chuyền sản xuất, tinh gọn bộ máy, giảm chi phí, cơ cấu và thiết lập lại hệ thống quản trị doanh nghiệp phù hợp với bối cảnh mới, chuyển kênh bán hàng truyền thống sang bán hàng trên mạng Internet… nhằm cắt giảm chi phí. Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua, các đơn vị thuộc Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM cũng đã tăng cường hoạt động tư vấn về công cụ quản trị năng suất, chất lượng và đổi mới sáng cho trên 60 doanh nghiệp. Ngoài ra, các chương trình đào tạo, các khóa học qua mạng nhằm phổ biến kiến thức cơ bản về năng suất chất lượng, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo đến cộng đồng, cụ thể là hệ thống  https://phobienkienthuc.doimoisangtao.vn tiếp tục duy trì 19 khoá học với 05 chủ đề, tất cả đều nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp sớm làm quen và thích ứng nhanh với điều kiện mới.

Mới đây nhất, Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM vừa nghiệm thu hoạt động “Vật liệu nanocomposite trên cơ sở graphene”. Kết quả của nhiệm vụ này là làm chủ quy trình công nghệ, thông số nguồn, chủ động trong việc nghiên cứu chế tạo và chuyển giao ứng dụng công nghệ chế tạo pin mặt trời, không phải phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, định hướng ứng dụng trong chế tạo pin đơn, từ đó lắp ráp tạo các tấm pin mặt trời có khả năng sản xuất điện ứng dụng tích hợp trong các thiết bị di động, thiết bị điện tử như điện thoại thông minh, đồng hồ, sạc dự phòng… Nhờ đó, doanh nghiệp tiếp nhận sẽ giảm đáng kể chi phí đầu tư vào công nghệ, hoặc có điều kiện tận dụng kết quả nghiên cứu để tiến hành đổi mới công nghệ, xây dựng chiến lược phát triển bền vững bằng nguồn tri thức trong nước.

Bà Phan Thị Quý Trúc (Phó Trưởng phòng Quản lý công nghệ và thị trường công nghệ - Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết, doanh nghiệp có thể sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để mua bán, nhận chuyển giao các giải pháp công nghệ mới. Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng đang có một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Các thông tin chi tiết về các chương trình đều được Sở giới thiệu tại website Sở.

Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM còn đặt hàng Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển triển khai nhiệm vụ “Nghiên cứu, đánh giá và khuyến nghị các tiêu chí về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Nhiệm vụ hướng đến một số mục tiêu chính như: đánh giá hiện trạng các chỉ tiêu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và các chỉ tiêu khác trong đầu tư của các doanh nghiệp giai đoạn 2016 – 2020, xây dựng các chỉ tiêu về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư giai đoạn 2021 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030 và kiến nghị các cơ chế chính sách về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Thành phố trong giai đoạn mới và cho các doanh nghiệp hiện hữu.

Ở lĩnh vực nông nghiệp, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tiếp tục hỗ trợ triển khai 5 dự án ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm: (1) Mô hình nhân giống một số loài lan rừng Giả hạc bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật (Vườn Lan Hạnh Phúc, huyện Củ Chi); (2) Xây dựng mô hình sản xuất và sơ chế bảo quản ớt cay theo tiêu chuẩn VietGAP (Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ – Dịch vụ - Thương mại Trường Thịnh, quận Bình Tân); (3) Ứng dụng quy trình cải tiến nuôi sinh khối Artemia trong bể xi măng lót bạt làm thức ăn cho cá cảnh tại Thành phố (Hộ nông dân Lê Như Phú, quận 12); (4) Xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) thâm canh hai giai đoạn ứng dụng hệ thống giám sát môi trường (IoT) tại huyện Cần Giờ (Hộ nông dân Đinh Quang Soạn, ấp Lý Hòa Hiệp, xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ); (5) Xây dựng mô hình nuôi thương phẩm lươn đồng (Monopterus albus) theo tiêu chuẩn VietGAP ở huyện Củ Chi (Liên hiệp HTX Công nghệ cao NPT, huyện Củ Chi).

Từ nay đến cuối năm, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng các tổ chức, đơn vị triển khai các hoạt động thuộc Chuỗi sự kiện Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia TECHFEST VIỆT NAM 2021 kết hợp cùng Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp TP.HCM (WHISE 2021). TECHFEST – WHISE 2021 hướng tới thúc đẩy giải pháp công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, nền tảng đổi mới sáng tạo “mở” trong giải quyết vấn đề của xã hội trong bối cảnh Covid-19 và phục hồi nền kinh tế hậu Covid-19.

Hoàng Kim (CESTI)

Đây là kiến nghị nhằm tăng tính mới, hiệu quả đổi mới sáng tạo cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu chính sách, phát huy trí tuệ của cộng đồng để phục vụ cộng đồng.

Ngày 2/11/2021, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức Hội thảo “Cơ chế huy động chuyên gia, nhà khoa học trong tư vấn xây dựng và phản biện chính sách, tìm ra những động lực mới cho tăng trưởng của Thành phố”. Ông Nguyễn Việt Dũng - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM chủ trì hội thảo.

211102hk11.jpg

Trong những năm qua, TP.HCM đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm thu hút chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng và phản biện chính sách. Do đó, hình thức huy động chuyên gia, nhà khoa học trong hoạt động tham vấn – phản biện hiện nay tương đối đa dạng với nhiều cấp độ tư vấn, đã dần thu hút được sự quan tâm của các chuyên gia trong và ngoài nước đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cần có giải pháp khắc phục để hoạt động tham vấn – phản biện thêm hiệu quả, ví dụ như cách tổ chức thực hiện tham vấn, việc cung cấp thông tin cho hoạt động tham vấn, thời gian đảm bảo cho hoạt động tham vấn, hình thức phản biện – tranh luận để đi đến kết luận giải quyết vấn đề…

Làm thế nào để đổi mới cách thực hiện nhằm nâng cao tính hiệu quả hoạt động tham vấn – phản biện? Giải pháp nào có thể khuyến khích cộng đồng cùng tham gia hoạt động tham vấn – phản biện, từ đó phát huy trí tuệ của cộng đồng?”, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM Nguyễn Việt Dũng đặt vấn đề với các đại biểu tham dự hội thảo.

TS Trần Du Lịch đề nghị, để các chuyên gia, nhà khoa học tận tâm “hiến kế” giải pháp thì Thành phố cần xem việc nghe chuyên gia phản biện là công việc tất yếu, dành thời gian và thể hiện tính cầu thị, mong muốn tìm giải pháp. Để hoạt động tham vấn – phản biện không đi theo tính hình thức, Thành phố nên tin và giao việc cho chuyên gia, nhà khoa học ngay từ giai đoạn khởi thảo ý tưởng. Cùng với đó, Thành phố cần có chế độ cung cấp thông tin cho chuyên gia, nhà khoa học vì việc phân tích, xử lý thông tin không thể dựa vào những nguồn tin phi chính thống hoặc chưa xác thực.

211102hk2.jpg

Với số lượng tổ chức, hội đồng khoa học và công nghệ đông đảo, các đại biểu tham dự hội thảo cho rằng TP.HCM không cần lập thêm tổ chức mới, mà chỉ cần củng cố các tổ chức, hội đồng đang hoạt động. Thành phố có thể tạo dựng 2 “phòng tuyến” cho hoạt động tham vấn – phản biện: một là các chuyên gia nòng cốt và tham gia thường xuyên, hai là các chuyên gia cộng tác (theo từng ngành, lĩnh vực) ở Viện – trường.

Về vấn đề tuyển chọn nhân sự cho Hội đồng phản biện khoa học, để tăng tính minh bạch, sức trẻ và hiệu quả đổi mới sáng tạo, các đại biểu đề nghị Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cân nhắc hình thức “chuyên gia giới thiệu chuyên gia”. Trong đó, các chuyên gia đầu ngành giàu kinh nghiệm sẽ đề xuất các chuyên gia trẻ có năng lực chuyên môn tốt tham gia vào Hội đồng. Một hình thức khác, là chọn chuyên gia trẻ theo dữ liệu (được thống kê và cập nhật thường xuyên, là từ kết quả nghiên cứu, các bài báo khoa học đã công bố, các dự án đã thực hiện…) phù hợp với chủ đề, đề tài nghiên cứu khoa học, chính sách.

Các đại biểu cũng kiến nghị, Hội đồng phản biện khoa học có thể tổ chức theo hình thức tập trung vào Chủ tịch hội đồng. Theo đó, Chủ tịch hội đồng sẽ chịu trách nhiệm điều hành hội đồng theo quy định, đồng thời tự điều phối đội ngũ chuyên gia hoặc kêu gọi chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia. Điều này đòi hỏi Chủ tịch hội đồng phải có uy tín với cộng đồng, mới có thể kêu gọi, tập trung nhân lực tham gia Hội đồng.

Theo hướng triển khai này, ngoài phần ngân sách hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học, Chủ tịch hội đồng hoàn toàn có thể kêu gọi được tài trợ kinh phí từ doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu chính sách. Việc kết hợp ngân sách và tài trợ sẽ tạo nguồn kinh phí đủ lớn để các chuyên gia, nhà khoa học tăng cường điều kiện nghiên cứu, mở rộng triển khai hoặc đề xuất các giải pháp, tiến hành các dự án nghiên cứu quy mô lớn, hoặc tiến hành nghiên cứu cùng một vấn đề theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau để tìm giải pháp tối ưu.

Một ý kiến khác mà các đại biểu gợi ý là Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM nên phát triển nền tảng công nghệ kết nối mạng lưới chuyên gia trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Thành phố. Bằng nền tảng này, Thành phố có thể kêu gọi các thành phần tri thức trong cộng đồng cùng tham gia, đóng góp ý kiến cho nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu chính sách của Thành phố, từ đó phát huy trí tuệ của cộng đồng để phục vụ cộng đồng.

Hoàng Kim (CESTI)

Những giải pháp phòng chống dịch như thiết bị phun khử khuẩn, bộ lọc vi tĩnh điện, tủ sát khuẩn… được các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm vì nhiều có sức ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế - xã hội.

Ngày 29/10/2021, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức buổi hội thảo trực tuyến chủ đề “Giới thiệu, kết nối các giải pháp công nghệ nhằm hỗ trợ công tác ứng phó dịch Covid-19”.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, bà Chu Vân Hải (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết hội thảo lần này giới thiệu 14/20 giải pháp đến hơn 50 đơn vị thuộc các Sở ban ngành, quận - huyện trên địa bàn Thành phố và Thành phố Thủ Đức; hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề, doanh nghiệp… Đây là những giải pháp đổi mới sáng tạo đã lọt vào Top 20 giải pháp công nghệ của Chương trình “Tìm kiếm và kết nối các giải pháp đổi mới sáng tạo ứng phó dịch Covid-19 tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021 (HIS – COVID 2021)", đã có sản phẩm hoàn thiện và sẵn sàng chuyển giao, góp phần giúp Thành phố ứng phó với dịch Covid-19.

hiscovid29102021.jpg

Bà Chu Vân Hải, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phát biểu khai mạc Hội thảo

Tại buổi hội thảo, các tác giả đã lần lượt trình bày, giới thiệu các giải pháp hỗ trợ phòng chống dịch Covid-19. Theo các tác giả, sự kết nối của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM là động lực thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo sản phẩm, công nghệ. Các tác giả mong muốn được kết nối với cơ sở dữ liệu hoặc app chính thức của ngành y tế để những giải pháp đặc thù như CovidPass - Chứng nhận số xét nghiệm COVID-19 trên nền tảng công nghệ Blockchain có thể được triển khai đại trà, rộng khắp, phục vụ người dân.

Sống chung an toàn với Covid-19 đang là hướng đi được TP.HCM triển khai để mạnh dạn mở cửa, xây dựng và thực hiện kế hoạch phục hồi kinh tế nhằm tranh thủ thời cơ, giữ vững vị trí đầu tàu kinh tế của cả nước. Do đó, những giải pháp phòng chống dịch rất được các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm vì có sức ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế - xã hội.

Trong khuôn khổ Hội thảo, bà Chu Vân Hải (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) đã thông tin và kết nối tác giả giải pháp “Thiết bị khử trùng khử khuẩn không gian kín” với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vũng Tàu. Các bên sẽ tiến hành trao đổi thông tin sâu hơn sau hội thảo. Đại diện VinaCapital cũng rất quan tâm đến thiết bị này và đặt một số hướng gợi mở hợp tác.

211029hk1.jpg

Thiết bị khử trùng khử khuẩn không gian kín

Theo tác giả TS. Nguyễn Phan Kiên (Đại học Bách Khoa Hà Nội), thiết bị khử trùng khử khuẩn không gian kín có tính năng khử khuẩn khử trùng triệt để từ phòng có diện tích 60m2 (hoặc tương đương thể tích 200m3). Tùy model, có thể thiết kế thiết bị khử khuẩn cho nhà xưởng công nghiệp quy mô lớn hơn, rất tiện lợi khi thực hiện vào ban đêm hoặc khi công nhân tạm ngừng sản xuất trong 2 giờ. Ưu điểm của thiết bị là quá trình phun khử trùng khử khuẩn chỉ trong 2 giờ nên ngắn hơn rất nhiều so với việc khử trùng bằng các loại hóa chất khác. Vì thế, các phòng phẫu thuật trong cơ sở y tế hoặc lớp học sẽ nhanh chóng được đưa vào tái sử dụng sau khi hoàn thành quy trình khử khuẩn. Thiết bị cũng phù hợp để để khử khuẩn, khử trùng nhanh nhà vệ sinh ở các khu cách ly để phòng ngừa lây nhiễm chéo.

HIS-COVID 2021 là Chương trình tìm kiếm các giải pháp đổi mới sáng tạo hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tại TP.HCM ứng phó dịch bệnh Covid-19 năm 2021, từ đó truyền thông và giới thiệu các giải pháp đổi mới sáng tạo đã có sản phẩm hoàn thiện và sẵn sàng chuyển giao cho Chính quyền Thành phố, Sở ban ngành và các hiệp hội doanh nghiệp của TP.HCM, góp phần giúp Thành phố ứng phó với dịch COVID-19. Đồng thời, hỗ trợ hình thành và phát triển nền tảng dữ liệu về các công nghệ và giải pháp đổi mới sáng tạo hỗ trợ ứng phó đại dịch Covid-19 của cộng đồng doanh nghiệp đóng góp cho TP. Hồ Chí Minh. Sau 3 tháng triển khai, HIS-COVID 2021 đã chọn được 20 giải pháp tốt nhất, đã có sản phẩm hoàn thiện và sẵn sàng đưa vào ứng dụng thực tế cho nhiều nhóm đối tượng.

Hoàng Kim (CESTI)

Sau hai ngày diễn ra, Techmart Công nghệ sau thu hoạch trực tuyến 2021 do Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ (CESTI) tổ chức đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình và đạt được những kết quả ấn tượng.

Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 diễn ra theo hình thức trực tuyến (tại địa chỉ www.techmart.techport.vn) trong hai ngày 28 & 29/10, đảm bảo 3 hoạt động chính của Techmart truyền thống là trưng bày, giới thiệu công nghệ và thiết bị (CN&TB); hội thảo trình diễn công nghệ và tư vấn chuyên gia.

Qua hai ngày tổ chức, Techmart đã thu hút hàng ngàn lượt khách tham quan, tham dự và tương tác với các hoạt động nêu trên. Trong đó, khu vực tư vấn chuyên gia gồm 8 phòng tư vấn online với 8 chuyên gia của Techmart đã tư vấn, giải đáp cho các yêu cầu được ban tổ chức kết nối ngay tại sự kiện. Các nội dung tư vấn đáng chú ý như công nghệ bảo quản nông sản; phương án làm tinh dầu tỏi; công nghệ sản xuất tinh dầu (xả, bưởi, tràm gió); công nghệ sấy thăng hoa (vải, xoài) và thiết bị cô đặc khóm; công nghệ sản xuất trà túi lọc và cao tía tô; công nghệ quản lý nông trại; công nghệ sấy dẻo; công nghệ chế biến hàu nuôi; xử lý nước thải cho chế biến thực phẩm; quy trình trồng và chăm sóc các loại nấm (linh chi, bào ngư, đông trùng hạ thảo); công nghệ chế biến tỏi;…

02HDKHLVtongkettechmarth3.jpg

Hình ảnh tại một phòng tư vấn chuyên gia online.

Với nội dung yêu cầu về công nghệ sản xuất tinh dầu (xả, bưởi, tràm gió), chuyên gia tư vấn phương pháp phù hợp nhất là chưng cất hơi nước. Trong đó cần làm rõ hiệu suất trích ly (liên quan đến công nghệ, thiết bị). Theo chuyên gia, hiện nay đã có những thiết bị hoàn chỉnh, có thể trích ly được 100% lượng tinh dầu. Khi áp dụng công nghệ này cần xem xét xử lý nguồn vật liệu sau trích ly. Sau Techmart, chuyên gia sẽ tiếp tục trao đổi kết nối tư vấn để đơn vị có nhu cầu triển khai ứng dụng.

Với nội dung yêu cầu về công nghệ chế biến tỏi, doanh nghiệp muốn chế biến tỏi thành các dạng nước ép, rượu tỏi, tinh dầu tỏi. Chuyên gia tư vấn quy trình thực hiện nước ép tỏi gồm các bước nghiền tỏi lấy bột mịn, dùng dung môi chiết tách, đóng chai thanh trùng. Để điều chế tinh dầu tỏi, các bước thực hiện như sau: tỏi sau khi thu hoạch tiến hành nghiền và trích ly lấy tinh dầu, sau đó thu hồi được nước dùng để điều chế nước uống tỏi. Tương tự, có thể chế biến bột tỏi bằng cách nghiền ra rồi tiến hành rang. Tuy nhiên, các sản phẩm này cần được nghiên cứu thử nghiệm để đánh giá các thành phần hoạt chất có lợi cho sức khỏe. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể chế biến sốt tỏi (tương tự sốt mayonnaise).

Với nội dung yêu cầu về công nghệ quản lý nông trại, Hợp tác xã công nghệ cao Củ Chi có nhu cầu ứng dụng quản lý quá trình sản xuất một nông hộ. Chuyên gia tư vấn, để phục vụ tốt quá trình quản lý nông trại, cần lưu giữ các tài liệu đầu vào như giấy chứng minh nguồn gốc (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm, giấy chứng minh nguyên liệu đầu vào. Đồng thời cần ghi nhận, quản lý, theo dõi thời gian gieo hạt, bón phân để hệ thống có thể tính thời gian thu hoạch, chăm sóc, tưới nước phù hợp.

Với nội dung yêu cầu về công nghệ sản xuất trà túi lọc và cao tía tô, chuyên gia tư vấn các loại túi lọc phổ biến hiện nay là sử dụng túi kẹp dây. Về cao tía tô, theo chuyên gia, lá tía tô có các thành phần dinh dưỡng và hoạt tính chống viêm nhiễm, trị bệnh gout, trị ho, kích thích tiêu hóa. Lá tía tô có thể dùng làm trà uống hoặc ứng dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm. Trên thị trường hiện chưa có nhiều thương hiệu sản phẩm cao lá tía tô nên các doanh nghiệp có thể nghiên cứu các giải pháp công nghệ và sản xuất các sản phẩm từ dịch chiết, cao chiết lá tía tô góp phần đa dạng hóa sản phẩm chăm sóc sức khỏe từ thảo dược thiên nhiên.

Những yêu cầu về tư vấn công nghệ sẽ tiếp tục được kết nối giải đáp sau Techmart, đồng thời đã có các nhà cung ứng công nghệ giải pháp sẵn sàng chuyển giao thông qua sự kết nối của Sàn Giao dịch công nghệ TP.HCM và Cổng thông tin Techport.vn.

02HDKHLVtongkettechmarth1.jpg

Một gian hàng tại khu trưng bày/triển lãm online.

Khu trưng bày/triển lãm online đã giới thiệu hơn 150 CN&TB trong và ngoài nước sẵn sàng cung cấp chuyển giao. Khu vực này được bố trí thành các khu tham quan theo chủ đề như: CN&TB chế biến nông sản, thực phẩm; CN&TB bảo quản nông sản, thực phẩm; chuyển đổi số trong nông nghiệp; CN&TB kiểm soát chất lượng nông sản, thực phẩm; CN&TB đóng gói; dịch vụ chuyển giao công nghệ. Một số gian hàng thu hút được lượng lớn lượt tham quan có thể kể đến như: Hệ thống giám sát nhiệt độ độ ẩm kho lạnh qua Smartphone; Nền tảng IoT Platform giám sát và đồng bộ dữ liệu hoạt động sản xuất nông nghiệp trên đám mây (Cloud); Công nghệ bảo quản thực phẩm đông lạnh CAS (Cells Alive System); Giải pháp quản lý hệ thống sản xuất, phân phối và truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Công nghệ bảo quản thực phẩm sử dụng Nano bạc, bao bì đa lớp, màng sinh học; Công nghệ sơ chế và ức chế quá trình chín nhanh bằng túi hút khí Ethylene; Giải pháp kiểm soát không khí và giám sát hành trình trong quá trình vận chuyển; Công nghệ sản xuất các loại tinh dầu; Công nghệ sản xuất thực phẩm đóng hộp, thực phẩm chế biến; Công nghệ và thiết bị phòng sạch nuối cấy đông trùng hạ thảo; Máy tách tạp chất; Hệ thống máy rửa, phân cỡ, cắt gọt rau củ quả; Máy chiết xuất và thu hồi cồn; Máy tách hạt thanh long; Máy cô đặc mật ong siêu tốc; Máy phân tích độc tố nấm, dư lượng thuốc trừ sâu, chất kháng sinh và chỉ số nhiễm vi sinh vật trong thực phẩm; Máy quang phổ cận hồng ngoại phân tích độ ẩm, chất đạm, chất béo; Các thiết bị phân tích mẫu thực phẩm trong phòng thí nghiệm;…

02HDKHLVtongkettechmarth2.jpg

Hình ảnh tại hội thảo Techmart trực tuyến.

Hội thảo trình diễn công nghệ là một trong những hoạt động chính đóng góp vào thành công của Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021. Trong đó, hội thảo công nghệ được tổ chức trực tuyến và được phát livestream trực tiếp đã trở thành “thương hiệu” của CESTI. Chuỗi hội thảo Techmart diễn ra xuyên suốt trong hai ngày đều được phát livestream trực tiếp, tạo thuận lợi cho khách tham gia, tiếp cận tìm kiếm thông tin, quan tâm theo dõi và tương tác. Với hình thức này, khách mời cũng có thể xem lại bất kỳ hội thảo nào đã diễn ra mà mình quan tâm. Các hội thảo nổi bật, thu hút sự quan tâm có thể kể đến như: Ứng dung một số quy trình và công nghệ trong làm sạch, xử lý và bảo quản để đảm bảo chất lượng và kéo dài thời gian tiêu thụ cho các loại trái cây ở các tỉnh phía Nam; Công nghệ sấy phun tạo hạt vi nang chứa hoạt chất sinh học và lợi khuẩn ứng dụng trong sản xuất thực phẩm; Công nghệ chiết xuất thực vật thảo mộc và tiềm năng ứng dụng trong chế biến thực phẩm; Ứng dụng phương pháp phổ hồng ngoại để xác thực nhanh chất lượng nông sản (phân biệt thật giả các loại sản phẩm gạo ST25, mật ong, nước mắm,...); Ứng dụng công nghệ men vi sinh trong chế biến và bảo quản ớt tươi;…

Sau Techmart, các doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu tiếp nhận công nghệ, kết nối với chuyên gia, tư vấn chuyển giao công nghệ vẫn có thể liên hệ với CESTI tại 79 Trương Định, phường Bến Thành, Quận 1, TP.HCM hoặc trên Cổng thông tin Đổi mới sáng tạo & Chuyển giao công nghệ www.techport.vn.

Với những kết quả đạt được của Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021, ban tổ chức hy vọng sẽ thúc đẩy hoạt động ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo cũng như thúc đẩy quá trình mua bán, chuyển giao công nghệ và thu hút hơn nữa đầu tư vào lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch. Trong điều kiện Thành phố tích cực chống dịch Covid-19, Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 được tổ thành công chức theo hình thức trực tuyến đã góp phần phục vụ cộng đồng kết nối, chuyển giao công nghệ và thiết bị, thích ứng với giai đoạn dịch bệnh và xu thế chung về chuyển đổi số. Qua đó khẳng định vai trò kết nối, hỗ trợ, đồng hành nhằm đưa sản phẩm từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ ra thị trường phục vụ nhu cầu ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Lam Vân (CESTI)

Đây là một trong những nội dung của chuỗi hội thảo trực tuyến “Chuyển đổi để thích ứng an toàn, linh hoạt với Covid-19” do Hội Tin học TP.HCM (HCA) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, các đơn vị đối tác, hiệp hội, doanh nghiệp công nghệ thông tin tổ chức.

Hội thảo chuyên đề thứ nhất “Quản trị doanh nghiệp thông minh, việc cần làm khi doanh nghiệp trở lại hoạt động” diễn ra ngày 28/10/2021 nhằm tư vấn, giới thiệu các giải pháp, ứng dụng, mô hình công nghệ, mô hình kinh doanh số trước xu thế thích ứng an toàn, linh hoạt với Covid-19.

Ông Vũ Anh Tuấn (Tổng Thư ký HCA) chia sẻ, hiện nay không thể phủ nhận vai trò của công nghệ thông tin trong vận hành, quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là giai đoạn “thích ứng an toàn, linh hoạt với COVID-19”. Chuỗi hội thảo trực tuyến “Chuyển đổi để thích ứng an toàn, linh hoạt với Covid-19” hứa hẹn mang đến nhiều góc nhìn thực tiễn từ các đối tác, doanh nghiệp công nghệ thông tin triển khai thành công cũng như am hiểu về công nghệ mới thúc đẩy năng suất, giảm chi phí vận hành và tối ưu hóa lợi nhuận. Ứng dụng công nghệ, triển khai cách làm mới, phương thức tiếp cận mới sẽ giúp doanh nghiệp linh hoạt đưa ra các phân tích, dự báo chính xác dựa trên dữ liệu thực, từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn trên các khía cạnh quản trị, tài chính, bán hàng, nhân sự…

Tại hội thảo, các nội dung đã được trình bày gồm: Chuyển đổi mô hình kinh doanh số để thích nghi thời kỳ bình thường mới; WEONE - Công cụ hỗ trợ quản trị trên không gian số; Môi trường làm việc số “bình thường mới” với giải pháp VDI “văn phòng trên mây”; Giải pháp quản lý tổng thể doanh nghiệp - Oracle Netsuite ERP. Hội thảo có sự tham gia chia sẻ của các diễn giả, chuyên gia như ông Cao Hoàng Anh (Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư Thương mại và Phát triển Công nghệ FSI); ông Lê Văn Trung (Giám đốc Giải pháp ERP, Công ty BTM Global Consulting Việt Nam); ông Lâm Bảo Vương (Chuyên gia kỹ thuật, Công ty CP Tập đoàn HiPT); ông Trần Anh Tuấn (Giám đốc Công ty The Pathfinder).

Theo ông Trần Anh Tuấn, công nghệ là chìa khóa quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển kinh doanh, gia tăng khác biệt và tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Mô hình kinh doanh số chính là nền tảng giúp doanh nghiệp chuyển đổi số thành công. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong mô hình kinh doanh là xu hướng tất yếu để giúp doanh nghiệp cải tiến hoạt động hậu Covid-19.

01HDKHLVhtHCAh1.jpg

Ông Trần Anh Tuấn trình bày nội dung "Chuyển đổi mô hình kinh doanh số để thích nghi thời kỳ bình thường mới".

Trên thế giới, việc chuyển đổi mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình số rất phổ biến. Tại Việt Nam, trong thời kỳ ảnh hưởng của dịch Covid-19, mô hình làm việc ảo tại nhà trở nên rất phổ biến. Vì vậy doanh nghiệp cần có những phương thức làm việc, công cụ, hệ thống kiểm soát làm việc tại nhà. Để thích ứng với thời kỳ số và thời kỳ Covid, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh tại nhà, xuất hiện nhiều ngành nghề và mô hình kinh doanh mới. Nhiều doanh nghiệp mới năng động xâm nhập thành công và dẫn dắt thị trường, đặc biệt là đội ngũ startup với tư duy sáng tạo và linh hoạt đang vươn lên tạo ra những ngành hàng mới và dẫn đầu thị trường ngách của họ. Từ đó dẫn tới nhu cầu trong tương lai sẽ hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp mới mà ở đó các startup và các doanh nghiệp hiện hữu là hai đối tượng chính sẽ kết hợp, hợp tác với nhau để làm sao cùng khai thác hiệu quả mô hình kinh doanh hiện hữu và khám phá kinh doanh trong tương lai.

Ông Tuấn cho rằng, hiện nay, chuyển đổi số mô hình kinh doanh suy cho cùng nằm ở tư duy thiết kế kinh doanh. Có 4 khía cạnh khi tư duy thiết kế kinh doanh là đổi mới tầm nhìn chiến lược, đánh giá lại chuỗi giá trị, tái cấu trúc tổ chức nội bộ, tái kết nối khách hàng. Ngoài ra cần quan tâm đổi mới phạm vi kinh doanh, đầu tư đổi mới mô hình kinh doanh, đổi mới hệ sinh thái sản phẩm, đổi mới hệ sinh thái kinh doanh và mô hình doanh thu. Trong đó, quan trọng của đổi mới mô hình kinh doanh là tư duy làm thế nào để chuyển đổi văn hóa của doanh nghiệp phù hợp với văn hóa số; cải tiến quy trình để gắn kết mọi người và làm việc hiệu quả. Quản trị mô hình kinh doanh mới chính là quá trình quản trị sự thay đổi và bản chất của chuyển đổi số chính là sự chuyển đổi mô hình kinh doanh dựa trên các yếu tố cộng hưởng khác nhau. Một mô hình kinh doanh thành công phải dựa trên hai yếu tố là sản phẩm dịch vụ có giá trị cho khách hàng, được khách hàng thừa nhận; mô hình kinh doanh mang lại nhiều nguồn thu, lợi nhuận tốt để phát triển bền vững. Đó chính là kết quả của đổi mới sáng tạo thành công.

Ông Cao Hoàng Anh cho biết, giải pháp WEONE là hệ thống tự động hóa doanh nghiệp, số hóa quy trình công việc và quản lý giám sát trên không gian số, không giới hạn không gian và thời gian, giúp nhà quản trị nắm bắt thông tin điều hành công việc hiệu quả. Phần mềm quản lý công việc WEONE được sử dụng để quản lý công việc cá nhân và doanh nghiệp.

Theo ông Lâm Bảo Vương, trong bối cảnh Covid diễn ra phức tạp, nhu cầu làm việc từ xa trở thành xu hướng mới. Giải pháp “Cloud Virtual Desktop - VDI” sẽ là một cuộc cách mạng hóa cách làm việc từ xa dành cho doanh nghiệp. Giải pháp này mang điện toán đám mây đến với mọi người, người dùng có thể làm việc mọi lúc mọi nơi; nâng cao trải nghiệm người dùng và tăng năng suất lao động. Bên cạnh đó, giải pháp giúp giảm được chi phí đầu tư các trang thiết bị, đơn giản hoá đội ngũ vận hành và tăng giá trị của doanh nghiệp; đảm bảo sức khỏe, đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt.

Ông Lê Văn Trung cho biết, giải pháp Oracle Netsuite ERP cung cấp quy trình tổng thể và các chức năng để tổng hợp và đồng bộ dữ liệu từ nhiều nguồn thông tin vào một hệ thống duy nhất, phục vụ nhu cầu riêng lẻ và đa dạng của các phòng ban khác nhau như nhân sự, tài chính, nhà kho, cung ứng, mua hàng, R&D… Giải pháp này phù hợp hầu hết các loại hình doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác nhau như sản xuất, bán sỉ, bán lẻ, dịch vụ…

Chuỗi hội thảo trực tuyến “Chuyển đổi để thích ứng an toàn, linh hoạt với Covid-19” diễn ra từ 28/10/2021 – 25/11/2021 với 3 chuyên đề. Sau chuyên đề ngày 28/10, hai chuyên đề còn lại là “Giải pháp nào để doanh nghiệp kinh doanh không gián đoạn” và “Hướng đi nào để doanh nghiệp phục hồi hiệu quả tình hình sản xuất, kinh doanh”. Các nhóm đối tượng chính mà chuỗi hội thảo này muốn hướng đến là các doanh nghiệp đa ngành nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp ứng dụng; doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ thông tin tập trung; doanh nghiệp sản xuất, phân phối, nhà máy, kho xưởng, chuỗi bán lẻ; doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp giải pháp, sản phẩm công nghệ…

Lam Vân (CESTI)

Sự kiện được tổ chức trên nền tảng trực tuyến, thu hút hơn 150 công nghệ của 50 doanh nghiệp, viện trường tham gia quảng bá và xúc tiến thương mại.

Ngày 28/10/2021, Chợ công nghệ và thiết bị chuyên ngành (Techmart) Công nghệ sau thu hoạch 2021 đã chính thức ra mắt trên nền tảng trực tuyến tại địa chỉ www.techmart.techport.vn.

Phát biểu khai mạc Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021, ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM) bày tỏ sự vui mừng khi cộng đồng rất quan tâm, đăng ký triển lãm và tham dự sự kiện: “Trong điều kiện Thành phố tích cực chống dịch Covid-19, Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 được tổ chức theo hình thức trực tuyến nhằm phục vụ cộng đồng kết nối, chuyển giao công nghệ và thiết bị. Ban tổ chức hi vọng Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 sẽ thúc đẩy hoạt động ứng dụng công nghệ, ứng dụng đổi mới sáng tạo cũng như hỗ trợ quá trình mua bán, chuyển giao công nghệ và thu hút hơn nữa đầu tư vào lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch.”.

Techmart công nghệ sau thu hoạch 2021 trực tuyến sẽ giới thiệu đến khách tham quan hơn 150 giải pháp công nghệ - thiết bị trong và ngoài nước sẵn sàng chuyển giao của 53 đơn vị đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ.

211028hk1.jpg

Trong Nghị quyết số 53/NQ-CP của Chính phủ ngày 17/07/2019 về Giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững đã xác định tầm nhìn đến năm 2030: “Ngành nông nghiệp Việt Nam đứng trong số 15 nước phát triển nhất thế giới, trong đó ngành chế biến nông sản đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới. Việt Nam là một trung tâm chế biến sâu của nông nghiệp thế giới, trung tâm logistics của thương mại nông sản toàn cầu”. Để tăng sản lượng và giá trị nông sản, cần đẩy mạnh khâu chế biến sau thu hoạch bởi vì đây là khâu quan trọng để hình thành và khép kín chuỗi sản xuất trong nông nghiệp. Góp phần thực hiện mục tiêu chung của cả nước, Sở KH&CN Thành phố Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực tổ chức các kỳ Chợ công nghệ và thiết bị chuyên ngành nhằm trưng bày, giới thiệu công nghệ trên tất cả các lĩnh vực đến cộng đồng xã hội, trong đó trên 50% các công nghệ được giới thiệu thuộc lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch. Hàng năm đều có ít nhất 01 kỳ Techmart thuộc lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch được tổ chức tại Sàn giao dịch công nghệ TP.HCM.

Trong năm 2021, để đáp ứng tốt yêu cầu giãn cách xã hội do dịch bệnh đồng thời thích ứng với xu thế chung về chuyển đổi số của Thành phố và cả nước, Sở Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM giao Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học & Công nghệ (CESTI) tổ chức “Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021” trên nền tảng trực tuyến vào các ngày 28-29/10/2021. Techmart chuyên ngành là sự kiện thường niên được tổ chức nhằm xúc tiến hoạt động chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đưa sản phẩm từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ ra thị trường, phục vụ nhu cầu ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Nền tảng triển lãm trực tuyến được bày trí sinh động, có tính tương tác cao và đảm bảo 3 chức năng của Techmart truyền thống: trưng bày, giới thiệu công nghệ; hội thảo công nghệ và tư vấn chuyên gia. Đồng thời, chỉ với vài thao tác click chọn đơn giản, khách hàng có thể liên hệ Ban tổ chức, trao đổi với doanh nghiệp tại các gian triển lãm, tải tài liệu sự kiện, xem bản đồ toàn triển lãm, xem video giới thiệu công nghệ… Với nền tảng trực tuyến, doanh nghiệp và khách hàng có thể tương tác bằng các hình thức gọi điện, e-mail, nhắn tin trên nền tảng để thuận tiện trong việc kết nối đầu tư, thương mại hoá.

Bà Bùi Thanh Bằng (Giám đốc CESTI) cho biết, Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 còn tổ chức 12 chuyên đề hội thảo giới thiệu công nghệ trong suốt hai ngày diễn ra Techmart. Đặc biệt, từ kết quả khảo sát các doanh nghiệp tại TP.HCM và các tỉnh phía Nam, Ban tổ chức Techmart bố trí khu vực tư vấn với sự tham gia của 8 chuyên gia nhiều kinh nghiệm hỗ trợ giải đáp yêu cầu công nghệ cho doanh nghiệp ngay tại sự kiện. Các yêu cầu công nghệ sẽ tiếp tục được Sàn giao dịch công nghệ hỗ trợ tư vấn, kết nối sau Techmart để đi đến ký kết thành công các hợp đồng mua bán, chuyển giao công nghệ.

Kính mời quý doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham quan Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 tại: https://techmart.techport.vn/trien-lam/canh-quan/techmart-cong-nghe-sau-thu-hoach-2021.html.

Hoàng Kim (CESTI)

Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã ban hành kế hoạch số 1481/KH-SKHCN về việc hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp thành lập, trích và sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) phục vụ chuyển đổi số giai đoạn 2021 – 2025.

Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố được thành lập theo quy định tại Luật Doanh nghiệp được trích tối đa không quá 10% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ để lập Quỹ phát triển KH&CN (Quỹ) nhằm thực hiện các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp theo quy định tại Thông tư liên tịch số Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC.

Quỹ phát triển KH&CN là nguồn kinh phí do doanh nghiệp xây dựng để thực hiện đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp. Nguồn Quỹ này thuộc sở hữu doanh nghiệp, hình thành chủ yếu từ nguồn lực tài chính của doanh nghiệp và được nhà nước khuyến khích trích lập, sử dụng theo quy định tại Nghị định số 95/2014/NĐ-CP năm 2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN và Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC năm 2016 của liên Bộ KH&CN, Bộ Tài chính hướng dẫn nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, thực tế, nhiều ý kiến cho rằng chính sách này chưa đến được với doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không biết đến quy định về Quỹ phát triển KH&CN, hoặc biết nhưng còn e ngại việc thành lập và sử dụng Quỹ.

Thông tin tại hội thảo “Đề xuất giải pháp giúp các doanh nghiệp sử dụng Quỹ phát triển KH&CN phục vụ chuyển đổi số” do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức (tháng 9/2020) cho thấy, Thành phố có 121 doanh nghiệp thành lập Quỹ với tổng số tiền là 4.146 tỷ đồng, nhưng mới chỉ có 1.123 tỷ đồng (khoảng 27%) được sử dụng. Theo khảo sát mới đây của Sở KH&CN TP.HCM với hơn 900 doanh nghiệp, chỉ có khoảng 1% số doanh nghiệp quan tâm đến việc thành lập Quỹ. Ngoài ra, những khó khăn vướng mắc về thủ tục chi cũng khiến các doanh nghiệp ngần ngại sử dụng Quỹ. Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC hướng dẫn nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp chưa có nội dung hướng dẫn danh mục chi cụ thể để sử dụng Quỹ đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đào tạo nhân lực KH&CN, chuyển đổi số…

Vì vậy, kế hoạch số 1481/KH-SKHCN được Sở KH&CN TP.HCM xây dựng và ban hành nhằm mục đích hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp thành lập, trích và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN phục vụ chuyển đổi số trên địa bàn Thành phố; tiếp tục phát huy cơ chế đồng đầu tư và huy động nguồn vốn đầu tư từ xã hội thông qua việc trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN để thực hiện các hoạt động KH&CN; triển khai hướng dẫn doanh nghiệp thành lập, sử dụng Quỹ phát triển KH&CN theo trình tự và thủ tục được quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC năm 2016.

Theo đó, các nội dung doanh nghiệp sử dụng Quỹ phát triển KH&CN phục vụ chuyển đổi số gồm các hoạt động chính: thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của doanh nghiệp về chuyển đổi số (nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới, dịch vụ mới, cải tiến công nghệ phục vụ hoạt động chuyển đổi số của doanh nghiệp); hoạt động đào tạo (đào tạo phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào công tác quản lý điều hành và sản xuất kinh doanh, đào tạo nhân lực của doanh nghiệp nghiệp); xây dựng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng (tư vấn, huấn luyện, xây dựng và tổ chức duy trì các hệ thống quản lý chất lượng phục vụ công tác quản lý điều hành và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp); trang bị hạ tầng thông tin (trang bị hạ tầng thông tin, phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu, phục vụ hoạt động chuyển đổi số, công tác quản lý điều hành và sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp); hoạt động hợp tác về chuyển đổi số (chuyển giao công nghệ, tư vấn về đổi mới công nghệ phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý điều hành và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp).

Đối với nội dung doanh nghiệp sử dụng Quỹ phát triển KH&CN được hỗ trợ kinh phí để triển khai, doanh nghiệp có thể sử dụng Quỹ thực hiện đối ứng kinh phí để triển khai các nhiệm vụ KH&CN do Sở KH&CN quản lý như: hỗ trợ tư vấn, huấn luyện nâng cao năng lực; hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ; thực hiện nhiệm vụ KH&CN.

Cụ thể là các hoạt động hỗ trợ tư vấn, huấn luyện nâng cao năng lực của doanh nghiệp về chuyển đổi số, năng suất chất lượng, quản trị tài sản trí tuệ và đổi mới sáng tạo thông qua các hoạt động tư vấn, huấn luyện trực tiếp tại doanh nghiệp; hỗ trợ tham gia các khóa đào tạo trực tuyến về hoạt động KH&CN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Các hoạt động này được hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách KH&CN Thành phố tối đa lên đến 30% tổng kinh phí thực hiện. Về hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ, các hoạt động tư vấn đổi mới công nghệ, huấn luyện, xây dựng quy trình sản xuất thử nghiệm trong quá trình chuyển giao công nghệ phục vụ chuyển đổi số doanh nghiệp… được hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách KH&CN Thành phố tối đa lên đến 30% tổng kinh phí thực hiện. Bên cạnh đó còn có hỗ trợ kết nối chuyên gia, cung cấp thông tin KH&CN liên quan đến hoạt động chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số của doanh nghiệp (trên Cổng thông tin Đổi mới sáng tạo và Chuyển giao công nghệ/Sàn Giao dịch công nghệ trực tuyến).

Về hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN, các nhiệm vụ KH&CN nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới, dịch vụ mới, cải tiến công nghệ phục vụ hoạt động chuyển đổi số của doanh nghiệp được hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách KH&CN Thành phố tối đa lên đến 30% tổng kinh phí thực hiện.

Được biết, Phòng Quản lý công nghệ và Thị trường công nghệ (thuộc Sở KH&CN TP.HCM) là đơn vị chủ trì phối hợp với các phòng, đơn vị khác để triển khai các nội dung của kế hoạch này. Thời gian thực hiện hàng năm, từ 2021 – 2025.

Lam Vân (CESTI)


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537353