Từ nguồn nguyên liệu là quả dứa dại Bắc bộ sẵn có và dễ canh tác, các nhà khoa học đã nghiên cứu và hoàn thiện quy trình chiết xuất cao toàn phần có tác dụng kháng viêm và bảo vệ gan hiệu quả.
Thực tế cho thấy, trái dứa dại tại Việt Nam có nhiều loài khác nhau như Pandanus tectorius, Pandanus odoratissimus, Pandanus kaida Kurz, Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone)...; và Pandanus tectorius, Pandanus odoratissimus, Pandanus kaida Kurz đã được nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý.
Một số dòng dứa dại thông dụng tại Việt Nam
Trong khi đó, Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) là loài đặc hữu Việt Nam, thường được gọi dứa dại Bắc bộ, mọc tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, cũng như mọc rải rác tới tỉnh Khánh Hòa. Quả, lá, đọt non và rễ được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa viêm đường tiết niệu, viêm gan,...
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào tại Việt Nam hay trên thế giới công bố về thành phần hóa học cũng như các tác dụng dược lý của loại quả dứa dại bắc bộ.
Với những giá trị phân tích kể trên đã cho thấy loài Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) có tiềm năng rất lớn trong khoa học y dược. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu thành phần hóa học của loài dứa dại bắc bộ một cách đầy đủ, bài bản có hệ thống, cũng như việc nghiên cứu tiềm năng sinh học, đặc biệt là tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan của loại quả này là rất cần thiết, đáng được quan tâm thực hiện ngay trong giai đoạn hiện nay.
Trên tinh thần đó, nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG Hà Nội) từ sự hỗ trợ của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu quy trình chiết xuất cao toàn phần có tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan từ quả dứa dại (Pandanus tonkinensis)".
Chủ nhiệm nhiệm vụ là GS. TS Phạm Hùng Việt cho biết, mục tiêu tổng quát của nhiệm vụ là: Xây dựng được cơ sở khoa học (gồm: thông tin về thành phần hóa học, chất đối chiếu cho dược liệu, quy trình chiết xuất cao toàn phần, tiêu chuẩn cơ sở cho cao, hoạt tính kháng viêm, bảo vệ gan của cao toàn phần) để sử dụng dược liệu - quả dứa dại làm nguyên liệu bào chế thực phẩm chức năng bảo vệ gan.
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ vừa được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức hồi trung tuần tháng 6/2023, GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, những mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ đã đạt được là:
- Xác định được thành phần hóa học của quả dứa dại Pandanus tonkinensis (Mart. ex B. Stone) bằng các phương pháp phân tích hiện đại.
- Xây dựng được quy trình chiết xuất, tinh chế một số hợp chất chính làm chất đối chiếu cho kiểm nghiệm dược liệu và chế phẩm. Xây dựng được bộ dữ liệu nhận biết chất đối chiếu. Độ tinh khiết của chất đối chiếu đã chiết xuất, tinh chế được xác nhận.
- Xây dựng được quy trình chiết xuất cao toàn phần từ quả Pandanus tonkinensis Mart. ex B. Stone theo định hướng hiệu suất chiết và thành phần chất đối chiếu.
- Xây dựng được tiêu chuẩn cơ sở cho cao toàn phần và kiểm nghiệm các lô cao đã sản xuất.
- Đánh giá được tác dụng kháng viêm, bảo vệ gan, độc tính cấp, độc tính bán trường diễn, độ ổn định của cao toàn phần đã sản xuất.
Cao chiết là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Nhiệm vụ đã thành công trong việc chiết xuất và tinh chế 2 chất đối chiếu cho dược liệu với độ tinh khiết 98%, cung cấp bộ dữ liệu phổ cho chất đối chiếu, và đây là cơ sở quan trọng cho việc kiểm nghiệm chất lượng dược liệu, chế phẩm và nghiên cứu tiếp theo về hóa dược.
Sau đó nhiệm vụ đã xây dựng quy trình và bào chế được chế phẩm cao toàn phần ở quy mô phòng thí nghiệm. Cao toàn phần có phạm vi an toàn khá rộng, không thể hiện độc tính cấp và độc tính bán trường diễn, thể hiện hoạt tính kháng viêm trên mô hình in vitro, có thấy hoạt tính bảo vệ gan trên mô hình gây độc gan cấp tính ở mức nồng độ nghiên cứu, thể hiện tác dụng bảo vệ sự sống và cải thiện chức năng gan trên mô hình chuột bị gây xơ gan bằng CCl4.
Đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ báo cáo kết quả thực hiện nghiên cứu
"Cao toàn phần đã được kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn cơ sở, và tiêu chuẩn cơ sở này cũng đã được được đánh giá bởi Viện kiểm nghiệm thuốc TP.HCM", GS. TS Phạm Hùng Việt nhấn mạnh.
Ngoài ra, mẫu cao sản xuất có tính ổn định, đạt tiêu chuẩn cơ sở sau 6 tháng bảo quản trong cả hai điều kiện lão hóa cấp tốc và dài hạn.
GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, kết quả của nhiệm vụ là tiền đề để có thể định hướng sản phẩm mới có nguồn gốc là dược liệu dứa dại phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân; góp phần khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giúp phát triển sinh kế cho người dân tại những vùng nguyên liệu trong tương lai.
Đánh giá về hiệu quả khoa học - công nghệ của công trình nghiên cứu nói trên, GS.TS Phạm Hùng Việt khẳng định, nhiệm vụ đã xác định được thành phần hóa học của loài dứa dại Pandanus tonkinensis - một loài đặc hữu tại Việt Nam. Ngoài ra, kết quả sàng lọc hoạt tính sinh học của các thành phần này cho thấy khả năng chống ôxy hóa và khả năng kháng viêm, có thể đóng góp vào tác dụng của dược liệu. Đây chính là những cơ sở khoa học làm sáng tỏ kho tri thức bản địa về dược liệu dứa dại của Việt Nam.
Nhận định về nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình chiết xuất cao, PGS. TS Nguyễn Việt Hùng cho biết, qua thu thập thông tin trực tiếp từ các vùng phân bố tự nhiên và quá trình phỏng vấn những một số người chuyên kinh doanh quả dứa dại Pandanus tonkinensis ở các tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy loài này được khai thác thường xuyên ở các vùng rừng núi từ khoảng cuối mùa hè đến mùa đông, khi quả đã già.
PGS.TS Nguyễn Việt Hùng phát biểu tiếp thu các ý kiến, đóng góp từ các thành viên hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Từ các thông tin thu thập được của những người khai thác và kinh doanh dược liệu, có thể ước tính được số lượng quả Pandanus tonkinensis được khai thác hằng năm vào khoảng 50 - 100 tấn quả tươi, tương đương 20 - 50 tấn dược liệu quả khô. Ngoài ra, lá và rễ cũng được sử dụng làm thuốc nhưng với số lượng ít hơn, do thường lấy quả để dễ bảo quản, bán cho khách du lịch và nếu lấy rễ thì cây sẽ không ra quả. Tuy nhiên, nếu có nhu cầu lấy nguyên liệu từ rễ và lá, hằng năm các hộ khai thác vẫn có thể cung cấp hàng trăm tấn dược liệu này cho sản xuất hoặc cho các cơ sở thuốc y học cổ truyền.
Cũng theo lời đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ, để tiến tới sản phẩm thương mại hóa, cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu bào chế các chế phẩm thích hợp cho việc sử dụng trên cơ sở nguyên liệu cao hoặc dược liệu đã được tiêu chuẩn hóa, định hướng cho việc phát triển vùng nguyên liệu, từ đó góp phần nâng cao sinh kế của người dân và chuyển giao quy trình cho đơn vị sản xuất có nhu cầu.
Với vùng phân bố tự nhiên tương đối rộng, có ở vùng núi ở hầu hết các tỉnh phía Bắc đến Khánh Hòa, nguồn dược liệu dứa dại Pandanus tonkinensis hiện tại chủ yếu được khai thác từ nguồn tự nhiên. Tuy nhiên, loài này cũng như một số loại dứa dại khác thi thoảng vẫn được trồng ở một số địa phương một cách dễ dàng. Việc trồng cây dứa dại (Pandanus) có nhiều mục đích sử dụng khác nhau, điều này phụ thuộc một phần vào từng loài và địa phương. Một số loài Pandanus được trồng để là nguồn thực phẩm, trong khi những loài khác được trồng để lấy nguyên liệu thô cho quần áo, đan giỏ và làm nơi trú ẩn. |
Thông tin liên hệ: E-mail: vietph@vnu.edu.vn Website: hus.vnu.edu.vn |
Các hoạt động “cốt lõi” này được các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá là nhiệm vụ quan trọng của trường đại học đi theo định hướng đại học khởi nghiệp. Do đó, để thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cần phát huy vai trò của trường đại học và các trường đại học cũng cần nhận được sự quan tâm đúng đắn để phát huy vai trò của mình.
Sáng 14/7/2023, tại trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã diễn ra Hội thảo "Đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo trong trường đại học khởi nghiệp". Chương trình do Sở khoa học và Công nghệ TP.HCM, Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ - trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), Công ty Cổ phần Tập đoàn Green+ phối hợp với Viện Kinh tế Việt Nam và Swiss EP cùng tổ chức với hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Tham dự Hội thảo về phía Ban tổ chức có bà Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng quản lý công nghệ và thị trường công nghệ (Sở khoa học và Công nghệ TP.HCM); PGS.TS. Lê Văn Thăng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM); ông Đặng Đức Thành - Chủ nhiệm Câu lạc bộ các nhà kinh tế, Chủ tịch Học viện Khởi nghiệp thành công, Chủ tịch Tập đoàn đầu tư tài chính Green+. Về phía đơn vị phối hợp có TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh (Viên Kinh tế Việt Nam); bà Nguyễn Quỳnh Anh - Giám đốc Swiss Entrepreneurship Program (Swiss EP) tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Về phía khách mời có PGS.TS. Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp TP.HCM; TS.KTS. Nguyễn Anh Tuấn - Trưởng phòng Phòng Quản lý Quy hoạch chung (Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM); TS. Huỳnh Kỳ Trân - Người sáng lập, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Hóa - Mỹ phẩm Thorakao; ông Anthony Nahas - Giám đốc AN Consulting, thành viên đại diện liên danh đổi mới sáng tạo MSGC Paris; Th.S Huỳnh Hồng Mai - Phó Giám đốc Trung tâm Sáng tạo và Ươm tạo khởi nghiệp (trường Đại học Nguyễn Tất Thành); TS. Đỗ Xuân Hồng - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ (trường Đại học Nông Lâm TP.HCM) cùng gần 100 đại biểu là đại diện các Phòng, Ban thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM; các Phòng, Khoa, Trung tâm của trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), sinh viên trường; đại diện các trường đại học, viện nghiên cứu, các trung tâm ươm tạo và doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố.
Hội thảo đã thu hút được gần 100 đại diện của nhiều viện, trường, doanh nghiệp và giảng viên, sinh viên, chuyên gia trong và ngoài nước cùng tham gia
Tại buổi Hội thảo, 3 phần trình bày tham luận với các chủ đề gồm:
- “Vì sao chưa phát triển được nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo từ các trường đại học?” của ông Đặng Đức Thành - Chủ nhiệm Câu lạc bộ các nhà kinh tế, Chủ tịch Học viện Khởi nghiệp thành công, Chủ tịch Tập đoàn đầu tư tài chính Green+.
- “Phát triển công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp trong các trường đại học khởi nghiệp” của ông Martin Webber - Co-Owner, J.E. Austin Associates McLean, Virginia, United States (chương trình Swiss EP).
- “Giải pháp thúc đẩy phát triển đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo theo mô hình đại học khởi nghiệp” của PGS.TS. Phạm Đình Anh Khôi - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ - trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM).
Cũng trong Hội thảo này, các chuyên gia, nhà khoa học, giảng viên, sinh viên và đại diện các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đã có phần thảo luận với nội dung: “Lộ trình phát triển đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo của các trường đại học Việt Nam để phát triển theo định hướng trường đại học khởi nghiệp.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, bà Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng quản lý công nghệ và thị trường công nghệ (Sở khoa học và Công nghệ TP.HCM) nhận định, trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia cũng như hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam, trường đại học là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng. Ngoài đào tạo con người, vai trò của trường đại học còn được thể hiện ở hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đồng thời hợp tác với doanh nghiệp để thương mại hóa, ứng dụng các kết quả nghiên cứu ra ngoài xã hội.
“Trường đại học mạnh sẽ tạo ra nguồn cung cấp tri thức cũng như công nghệ cho xã hội. Đây cũng là nơi để phát triển dồi dào những ý tưởng về đổi mới sáng tạo giúp nâng cao tài sản cho doanh nghiệp cũng như nâng cao tài năng trí tuệ trong hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình phát triển của doanh nghiệp sẽ có 3 giai đoạn: hình thành ý tưởng, phát triển sản phẩm và tăng trưởng, tương ứng với 3 hoạt động tại trường đại học là đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo”, bà Trúc nói.
Cũng theo bà Phan Thị Quý Trúc, trong giai đoạn đầu, nhà trường và giảng viên đóng vai trò là người truyền cảm hứng, cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản, hình thành những đội nhóm, các hoạt động liên kết sinh viên liên ngành đó là nền tảng giúp sinh viên hình thành ý tưởng về đổi mới sáng tạo. Đến giai đoạn thứ hai, cũng chính thầy cô là người dẫn dắt để những ý tưởng đó được nghiên cứu một cách bài bản và cho ra sản phẩm cụ thể, bước đầu quá trình thương mại hóa. Ở giai đoạn thứ ba, tức giai đoạn tăng trưởng, khi sản phẩm đã được hiệu chỉnh theo phản hồi của thị trường, các đội nhóm sinh viên sẽ nghĩ đến việc hình thành doanh nghiệp để có thể kinh doanh những sản phẩm và dịch vụ này. Lúc này nhà trường có vai trò tạo ra môi trường để cung cấp cho sinh viên kiến thức liên quan đến kinh doanh như pháp luật, thuế, kế toán... Rõ ràng, trong tất cả giai đoạn phát triển của doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp hình thành trong trường đại học vai trò của trường đại học là vô cùng quan trọng và trường đại học cũng là thành tố rất quan trọng trong trong hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đồng thời đó là nền tảng để tạo ra giá trị cốt lõi cho hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Tuy nhiên, “đào tạo, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo” đang gặp phải “điểm nghẽn”.
Bà Phan Thị Quý Trúc - Phó Trưởng phòng Phòng quản lý công nghệ và thị trường công nghệ (Sở khoa học và Công nghệ TP.HCM) phát biểu khai mạc Hội thảo
Đồng quan điểm với bà Phan Thị Quý Trúc về “điểm nghẽn" của mô hình đại học khởi nghiệp, ông Đặng Đức Thành - Chủ nhiệm Câu lạc bộ các nhà kinh tế, Chủ tịch Học viện Khởi nghiệp thành công, Chủ tịch Tập đoàn đầu tư tài chính Green+, đưa ra phép so sánh: Ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Singapore, Israel… 80% các doanh nghiệp khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo được phát triển từ các trường đại học. Nhưng ở Việt Nam lại xuất hiện nghịch lý là có tới 90% doanh nghiệp khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo nằm ngoài trường đại học.
“Nguyên nhân là việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học tại các trường đại học trong nước hiện nay chưa thực sự hiệu quả và chất lượng. Các trường chưa chú trọng đến ứng dụng và chuyển giao công nghệ, do đó làm nhiều, đúng quy trình nhưng mọi thứ chưa khả quan. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên, nghiên cứu sinh tại một số trường đại học hiện chưa thể gắn kết với thị trường và nhu cầu của xã hội, nghĩa là không làm theo đặt hàng nên tính đáp ứng không cao”, ông Thành chia sẻ.
Ông Đặng Đức Thành - Chủ nhiệm Câu lạc bộ các nhà kinh tế, Chủ tịch Học viện Khởi nghiệp thành công, Chủ tịch Tập đoàn đầu tư tài chính Green+ thẳng thắn chia sẻ về vấn đề khởi nghiệp trong trường đại học hiện nay
Cũng theo ông Thành cho rằng, thực tế nhiều trường đại học trong nước vẫn chưa xây dựng được đầy đủ các thành tố của hệ sinh thái khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo. Do đó, không khai thác được nguồn lực cho hoạt động quan trọng này. Nhiều trường đại học có vườn ươm, trung tâm đổi mới sáng tạo nhưng lại thiếu những thành tố khác như quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp hay các quỹ đầu tư về khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo ngay trong trường… Bên cạnh đó, quá trình thương mại hóa các sản phẩm khoa học công nghệ của không ít trường đại học vẫn đang gặp khó vì nhiều quy chuẩn, giấy tờ. Trong khi đó nhiều trường lại chưa có được những tổ chức trung gian hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo. Hiện nay, đa phần các trường vẫn chưa có riêng một tổ chức chuyển giao công nghệ chuyên nghiệp, hầu hết toàn nhân sự kiêm nhiệm. Điều này tạo ra rất nhiều rào cản để phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo bên trong trường đại học.
Không những thế, một vấn đề mà nhiều trường đại học hiện nay đang gặp phải đó là "khát vốn" khởi nghiệp dẫn đến tình trạng có nhiều ý tưởng rất hay nhưng không được đầu tư đến nơi đến chốn để phát triển thành đề án kinh doanh khả thi. Thậm chí, nhiều ý tưởng tham gia các cuộc thi khởi nghiệp xong rồi ngậm ngùi… đem bỏ tủ.
“Chính việc chưa có sự đầu tư thỏa đáng trong công tác nghiên cứu khoa học đã làm tổn thất nhiều ý tưởng sáng tạo có thể phát triển thành dự án khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp. Và tâm lý đặt nặng vấn đề khởi nghiệp lên vai sinh viên cũng khiến nhiều trường đã trật nhịp trên hành trình đẩy mạnh sự phát triển mô hình đại học khởi nghiệp. Cho nên điều các trường đại học cần làm là tạo ra hệ sinh thái nuôi dưỡng các ý tưởng khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng phát triển. Ngoài ra, cần giảm tính hình thức trong sự kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường, tập trung nguồn lực hiện thực hóa các ý tưởng tốt thành sản phẩm sáng tạo mà thị trường cần”, Ông Thành chia sẻ thêm.
Theo ông Martin Webber - Co-Owner, J.E. Austin Associates McLean, Virginia, United States (chương trình Swiss EP), các trường đại học có vai trò rất lớn trong kết nối 3 nhà “nhà nước, doanh nghiệp và cả cộng đồng xã hội” để có thể tăng tốc đổi mới sáng tạo. Do các trường đại học đóng vai trò cung cấp kiến thức khoa học cơ bản, công nghệ cũng như quy trình kỹ thuật. Khi các trường đại học tạo ra tài sản trí tuệ mới doanh nghiệp có thể áp dụng các đổi mới sáng tạo này để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
“Các trường đại học và startup hoàn toàn có thể thương mại hóa tài sản trí tuệ, tạo ra nguồn thu từ chính hoạt động này, như phí bản quyền thương mại hóa các phát minh. Nguồn thu này sau đó có thể được tiếp tục tái đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) giúp tạo nên một chu kỳ đổi mới lẫn giá trị kinh tế. Thế nên, có thể xem trường đại học là thành tố quan trọng trong hoạt động khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo và cần nhận được sự quan tâm đúng đắn để phát huy vai trò của mình”, ông Webber chia sẻ.
Ông Martin Webber - Co-Owner, J.E. Austin Associates McLean, Virginia, United States (chương trình Swiss EP) chia sẻ tham luận thông qua nền tảng Google Meet
Cũng theo ông Webber, để từng bước giải quyết các yếu tố trên cần hoạt động kiến tạo văn hóa khởi nghiệp thông qua khung hướng dẫn cụ thể. Khung hướng dẫn này có 10 bước bao gồm: tư vấn về ngành, xác định chuẩn kỹ năng, thực tập và học việc, trung tâm khởi nghiệp, đánh giá nhu cầu thường xuyên, đào tạo tại chỗ, nghiên cứu do doanh nghiệp tài trợ, đào tạo chuyển đổi giữa sự nghiệp, chương trình cựu sinh viên và chương trình thực tập.
PGS.TS Phạm Đình Anh Khôi - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ - trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM) cho rằng, nếu một trường đại học theo định hướng “đại học khởi nghiệp” thì 3 nhiệm vụ chính là đào tạo - nghiên cứu khoa học - đổi mới sáng tạo cần có vai trò ngang nhau.
“Trường đại học cũng phải có những hoạt động hướng tới thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, bao gồm chuyển giao công nghệ, đào tạo cơ cấu, sàng lọc những doanh nghiệp có khả năng. Nhưng tiêu chuẩn quan trọng nhất vẫn là đổi mới sáng tạo và tác động của nó. Tiếp theo đó, trường đại học phải liên tục đổi mới sáng tạo, liên tục cải tiến, phát triển và tạo ra tác động tích cực trong xã hội. Như vậy mới thể hiện rõ vai trò của đại học khởi nghiệp”, PGS, TS Phạm Đình Anh Khôi nói.
Cũng theo PGS.TS Phạm Đình Anh Khôi, dựa trên cách đánh giá của Tổ chức Kiểm định đại học khởi nghiệp tại châu Âu khi tập trung phân tích 5 tiêu chuẩn quan trọng với một trường đại học khởi nghiệp.
Với tiêu chuẩn đầu tiên là "Định hướng và chiến lược", thì trường đại học khởi nghiệp cần có những cam kết, định hướng về chiến lược khởi nghiệp trong nhiệm vụ đề ra. Đồng thời, nhà trường phải có mục tiêu chia sẻ về khởi nghiệp để tất cả thành viên đều biết. Bên cạnh đó, là một kế hoạch tài chính ổn định để có thể thực thi những hoạt động khởi nghiệp.
Với tiêu chuẩn "Bộ máy quản trị con người", thì hoạt động, sứ mệnh, tiêu chí và những bộ máy quản trị của trường đại học cần tạo điều kiện, thúc đẩy cho hoạt động đổi mới sáng tạo như chia sẻ, chấp nhận rủi ro cũng như đưa ra chế độ khen thưởng, động viên phù hợp.
PGS.TS Phạm Đình Anh Khôi - Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ - trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM) chia sẻ tham luận tại Hội thảo
Với tiêu chuẩn "Nguồn lực", trường đại học cần xây dựng văn hóa khuyến khích giảng viên, sinh viên có thể suy nghĩ và hành động như là người khởi nghiệp. Đồng thời, định hướng những chính sách, dự án, đề tài để hỗ trợ…
Với tiêu chuẩn "Đào tạo - Nghiên cứu khoa học" nhà trường phải cho sinh viên cơ hội cải tiến kiến thức, kỹ năng, hành động liên quan đến khởi nghiệp. Hướng tới mục tiêu hỗ trợ việc tạo ra những trí tuệ có thể khai thác trong tương lai.
Chia sẻ về những khó khăn của trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), PGS.TS. Lê Văn Thăng - Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, dù là một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu khu vực phía Nam, nhà trường cũng đã xây dựng được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tương đối hoàn chỉnh hoạt động từ năm 2010. Bên cạnh đó, liên quan đến các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp cũng đã có một truyền thống lâu dài và có nhiều thành quả. Tuy nhiên, cũng có nhiều hoạt động khởi nghiệp phải trả giá khá nhiều.
PGS.TS. Lê Văn Thăng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM) trao đổi tại Hội thảo
Theo PGS.TS. Lê Văn Thăng, đối với chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học thì có lẽ các trường đại học nói chung đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Riêng, chức năng chuyển giao công nghệ, chức năng đổi mới sáng tạo và chức năng khởi nghiệp thì rõ ràng còn khá nhiều vướng mắc, trở ngại có những cái thì do nội tại, do cơ chế và có thể do bài toán tạm gọi là 4 nhà “nhà trường, nhà nước, doanh nghiệp, xã hội”.
“Do đó, thông qua Hội thảo cũng như chuỗi Hội thảo Đại học khởi nghiệp, rất mong muốn nhận được những chia sẻ, góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp, các đơn vị quản lý nhà nước, của cộng đồng xã hội để từ đó hoàn thiện hơn mô hình hoạt động của một trường đại học và đại học khởi nghiệp, mà đối với trường Đại học Bách khoa xác định phương châm và tiêu chí lớn nhất của nhà trường là đại học nghiên cứu là đại học khởi nghiệp”, PGS.TS. Lê Văn Thăng nói thêm.
Theo TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh (Viên Kinh tế Việt Nam) chia sẻ, trong thời gian qua, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng đã chứng tỏ được những tiềm năng phát triển rất lớn. Mỗi đối tượng trong hệ sinh thái từ dự án khởi nghiệp đến các trường đại học, tổ chức ươm tạo… đều đã có những bước phát triển vượt bậc, số lượng và chất lượng ngày một nâng cao qua từng năm.
“Với những lợi thế sẵn có và sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách cần thiết, đặc thù cho hoạt động khởi nghiệp sẽ là đòn bẩy cho hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam phát triển, từ đó thúc đẩy các dự án khởi nghiệp phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh đó, khi tôi tham gia Hội thảo Đại học khởi nghiệp ở 8 trường đại học khác nhau thì rất ít nghe về các cơ chế, chính sách của trường đại học để giảng viên, sinh viên có thể tự tin nghiên cứu và khởi nghiệp. Cụ thể, yếu tố nhỏ nhất là hệ thống đánh giá của trường nếu giảng viên, sinh viên trước đây gắn liền với công tác giảng dạy, học tập và thi cử thì giờ đây tham gia nhiều hơn vào hoạt động nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp... thành công thì không nói gì như nếu thất bại sẽ đánh giá như thế nào, tốt nghiệp như thế nào. Nên rất hy vọng, dù là cái nhỏ nhất nhưng chúng ta cũng phải rõ ràng”, TS. Thành nói.
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh (Viên Kinh tế Việt Nam) chia sẻ tại Hội thảo
Theo PGS.TS. Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp TP.HCM chia sẻ, sinh viên trường Đại học Công nghiệp TP.HCM cũng tham gia nhiều giải thưởng, có giải Nhất, có doanh nghiệp đầu tư, ở trường cũng tạo điều kiện... nhưng thật sự nếu như đúng nghĩa trở thành một startup thì không hề đơn giản.
PGS.TS. Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp TP.HCM chia sẻ ý kiến tại Hội thảo
Ví dụ, về phía nhà trường nếu muốn hỗ trợ vốn cho sinh viên thì dự án đó phải có giảng viên đứng ra “đở đầu” nhưng cơ chế đó vẫn rất khó. Hay ví như kêu gọi để chuyển giao và bán công nghệ cũng không hề dễ, bởi vì muốn bán một công nghệ thì phải là chìa khóa trao tay chứ không phải là một ý tưởng bình thường, trừ khi đó là công nghệ lõi. Do đó, ở trong trường chúng ta phải dạy được cho sinh viên tinh thần khởi nghiệp, tinh thần dám nghĩ dám làm, dẫu chúng ta và sinh viên đều biết hình trình đó sẽ gặp phải những khó khăn, trắc trở. Không những thế, sinh viên cũng cần phải lăn lộn ở doanh nghiệp để hiểu được luật lệ trong kinh doanh. Hơn hết, các trường đại học cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp cũng như chúng ta cần xây dựng hệ sinh thái trong trường đại học và giữa các trường đại học với nhau và gắn kết chặt chẽ thêm với nhà nước, doanh nghiệp và cả cộng đồng xã hội để cùng chắp cánh khởi nghiệp.
Đại diện Ban tổ chức, diễn giả khách mời, sinh viên trường, đại diện các trường đại học, viện nghiên cứu, các trung tâm ươm tạo và doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố cùng chụp hình lưu niệm
Được biết, trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp, trường đại học là thành tố rất quan trọng. Bên cạnh chức năng đào tạo con người, vai trò của các trường đại học ngày càng trở nên quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và hợp tác với khu vực doanh nghiệp để thương mại hóa, ứng dụng các kết quả khoa học và công nghệ. Những năm gần đây, Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Điều này được thể hiện trong các nội dung Đề án 844 “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” và Đề án 1665 “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” của Chính phủ, từ đó góp phần thúc đẩy tinh thần học tập, tư duy sáng tạo, khả năng tự đổi mới, sáng tạo của học sinh, sinh viên.
Cũng trong khuôn khổ của Hội thảo, ông Anthony Nahas - Giám đốc AN Consulting, thành viên đại diện liên danh đổi mới sáng tạo MSGC Paris đã chia sẻ thêm cho cộng đồng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo về các dự án "xanh" mà TP.HCM đang phối hợp cùng Pháp đang triển khai thực hiện
Việc xây dựng và triển khai chuỗi Hội thảo “Đại học khởi nghiệp” nhằm chia sẻ những thông tin liên quan đến vai trò của trường đại học trong hoạt động đổi mới sáng tạo và kinh nghiệm xây dựng mô hình hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong trường đại học. Đồng thời, chia sẻ các mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong trường đại học.
Nhật Linh (CESTI)
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ tiếp tục phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ các chủ thể tham gia Đề án Chương trình OCOP ứng dụng các giải pháp công nghệ nhằm đổi mới, hoàn thiện công nghệ sản xuất, chế biến theo quy mô phù hợp, tăng cường nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm OCOP.
Ngày 27/6/2023, Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới TP.HCM (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) tổ chức hội thảo “Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm OCOP trên địa bàn TP.HCM năm 2023”.
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Đinh Minh Hiệp (Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) cho biết hiện nay TP.HCM có tổng cộng 67 sản phẩm OCOP. Trong số này, có 66 sản phẩm được công nhận 27 sản phẩm 3-4 sao và 1 sản phẩm được đề xuất đánh giá 5 sao.
Đầu năm 2019, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 385/QĐ-UBND phê duyệt Đề án Chương trình mỗi xã một dự án trên địa bàn vùng nông thôn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 với định hướng tập trung phát triển 6 sản phẩm nông nghiệp chủ lực (rau, hoa cây cảnh, bò sữa, heo, tôm nước lợ, cá cảnh), 6 sản phẩm thuộc 6 làng nghề truyền thống (làng nghề đan lát Thái Mỹ, làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông, làng nghề mành trúc Tân Thông Hội, làng nghề đan giỏ trạc Xuân Thới Sơn, làng nghề se nhang Lê Minh Xuân, làng nghề muối Lý Nhơn), cùng 4 sản phẩm ngành nghề nông thôn đặc trưng của huyện ngoại thành (khô cá dứa một nắng Cần Giờ, khô cá đù một nắng Cần Giờ, khô cá sặc một nắng Củ Chi, tổ yến Cần Giờ) và 1 sản phẩm nông nghiệp mang đậm nét vùng miền (xoài Long Hòa – Cần Giờ).
Thực hiện triển khai cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chương trình OCOP, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM đã phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị trên địa bàn Thành phố hỗ trợ chuyển giao kết quả ứng dụng khoa học và công nghệ nâng cao giá trị sản phẩm OCOP. Bình quân mỗi năm có 150 mô hình được hỗ trợ xây dựng và chuyển giao như: các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng, mô hình trồng rau thủy canh, mô hình trồng hoa lan theo hướng công nghệ cao… Bên cạnh đó, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM còn hỗ trợ các hợp tác xã, tổ hợp sản xuất kinh doanh sản phẩm OCOP xây dựng website – logo, xây dựng thương hiệu, thiết kế bao bì - ấn phẩm quảng bá sản phẩm... Nhờ vậy, Đề án Chương trình OCOP đã góp phần khơi gợi và thúc đẩy phát triển ý tưởng của chủ thể sản xuất, tăng cường sự chủ động, cải tiến công nghệ - thiết bị để sản xuất nhiều sản phẩm mới mang tính độc, lạ, đạt chất lượng tốt phục vụ nhu cầu của thị trường.
Với vai trò thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong ứng dụng khoa học và công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ tiếp tục phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM hỗ trợ các chủ thể tham gia Đề án Chương trình OCOP ứng dụng các giải pháp công nghệ trong phát triển sản xuất sản phẩm OCOP nhằm đổi mới, hoàn thiện công nghệ sản xuất, chế biến theo quy mô phù hợp, tăng cường nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm OCOP. Thêm vào đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cũng có vai trò tập huấn, hướng dẫn các chủ thể và địa phương tham gia Đề án Chương trình OCOP tạo lập, quản lý và khai thác tài sản trí tuệ (nhãn hiệu, giống cây trồng mới…), đăng ký bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến các sản phẩm OCOP.
Theo ông Nguyễn Thanh Bảo (Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới TP.HCM), trong giai đoạn 2023-2025, sản phẩm OCOP được phân thành 6 nhóm gồm: thực phẩm; đồ uống; dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu; hàng thủ công mỹ nghệ; sinh vật cảnh; dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và điểm bán hàng.
Văn Kiệt - Hoàng Kim (CESTI)
Buổi giới thiệu đã thu hút được hơn 150 đại biểu là đại diện các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và các tiểu thương chợ truyền thống, đoàn viên thanh niên, hội viên hội Liên hiệp phụ nữ, hội viên hội Doanh nghiệp trên địa bàn quận Gò Vấp tham dự trực tiếp. Cũng như, sự quan tâm và chia sẻ của hàng ngàn lượt theo dõi trực tuyến thông qua các trang Fanpage, Zalo của Hội Doanh nghiệp, Hội Liên hiệp Phụ nữ và Quận đoàn Gò Vấp.
Hội nghị Tập huấn Thương mại điện tử với chủ đề “Bán hàng trực tuyến" do Uỷ ban nhân dân quận Gò Vấp tổ chức
Ngày 29/6/2023, nằm trong khuôn khổ Hội nghị Tập huấn Thương mại điện tử với chủ đề “Bán hàng trực tuyến" do Uỷ ban nhân dân quận Gò Vấp tổ chức, Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (I-Star 2023) đã được giới thiệu đến các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và các tiểu thương chợ truyền thống, đoàn viên thanh niên, hội viên hội Liên hiệp phụ nữ, hội viên hội Doanh nghiệp trên địa bàn quận Gò Vấp với mục tiêu khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo ở giới trẻ, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong cộng đồng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở quận Gò Vấp nói riêng và của TP.HCM nói chung.
Buổi giới thiệu đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm và chia sẻ của hàng ngàn lượt theo dõi trực tuyến thông qua các trang Fanpage, Zalo của Hội Doanh nghiệp, Hội Liên hiệp Phụ nữ và Quận đoàn Gò Vấp và trực tiếp tại Hội trường Uỷ ban nhân dân quận Gò Vấp
Tại Hội nghị Tập huấn ông Đào Tuấn Anh - Chuyên viên Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ (Thành viên Ban Thư ký Giải thưởng I-Star 2023) đã giới thiệu Giải thưởng I-Star 2023 đến các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và các tiểu thương chợ truyền thống, đoàn viên thanh niên, hội viên hội Liên hiệp phụ nữ, hội viên hội Doanh nghiệp quận Gò Vấp, ở 3 nhóm chính gồm: Doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo (doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập trên địa bàn TP.HCM để thực hiện ý tưởng kinh doanh trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh); Giải pháp đổi mới sáng tạo (tổ chức, cá nhân có cách thức mới, có tính sáng tạo đã được áp dụng có hiệu quả trên địa bàn TP.HCM nhằm giải quyết những vấn đề của cộng đồng); Cá nhân - tổ chức khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo có đóng góp tích cực cho cộng đồng (các tổ chức ươm tạo, tổ chức hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo, nhà đầu tư thiên thần, các chuyên gia tư vấn,... có đóng góp tích cực cho hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trên địa bàn TP.HCM).
Ông Đào Tuấn Anh - Chuyên viên Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ (Thành viên Ban Thư ký Giải thưởng I-Star 2023) giới thiệu Tổng quan về Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Cũng trong buổi giới thiệu này, ngoài cách thức đăng ký tham dự Giải thưởng I-Star 2023, ông Đào Tuấn Anh còn hướng dẫn các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và các tiểu thương chợ truyền thống, đoàn viên thanh niên, hội viên hội Liên hiệp phụ nữ, hội viên hội Doanh nghiệp trên địa bàn quận Gò Vấp cách thức tìm kiếm và tham khảo các giải pháp sáng tạo, chuyển đổi số để ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giao thương, mua bán, vào nơi làm việc và trong cuộc sống thường nhật.
Giải thưởng I-Star được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức thường niên dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố nhằm tôn vinh tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong cộng đồng. Qua 5 năm tổ chức (2018 - 2022), I-Star đã có gần 1.500 hồ sơ của 4 nhóm đối tượng tham gia, trong đó 53 hồ sơ đã được trao giải. Đây là Giải thưởng uy tín nhất trong cộng đồng đổi mới sáng tạo trên địa bàn Thành phố.
Năm 2023, Giải thưởng I-Star tiếp tục được tổ chức với 4 nhóm đối tượng tham gia: (1) Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; (2) Giải pháp đổi mới sáng tạo; (3) Các tác phẩm truyền thông; (4) Các tổ chức, cá nhân hỗ trợ.
Hồ sơ tham dự Giải thưởng I-Star 2023 được tiếp nhận đến hết ngày 31/8/2023. Tất cả hồ sơ tham gia dự thi và thông tin chi tiết về Giải thưởng được đăng tại: http://istar.doimoisangtao.vn/
Thông tin liên hệ: Ban Tổ chức Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 2023
Địa chỉ: 244 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại và Email: ông Đào Tuấn Anh (028.39320122 - dtanh.skhcn@tphcm.gov.vn) - bà Nguyễn Vũ Anh Phương (028.38258857 - anhphuong@cesti.gov.vn).
Nhật Linh (CESTI)
Ngoài tác dụng làm chậm tốc độ ăn mòn, các loại màng phủ CCCs được tạo ra có màu sắc tương đối đa dạng, đáp ứng nhu cầu của từng loại chi tiết vật liệu trong mỗi ứng dụng khác nhau.
Hiện tượng ăn mòn kim loại là vấn đề thường thấy khi kim loại tiếp xúc trực tiếp với môi trường, đặc biệt là môi trường ăn mòn. Một trong các biện pháp khắc phục ăn mòn hiệu quả nhất đó là tạo ra các lớp phủ có khả năng bảo vệ chống ăn mòn cao và có độ chịu mài mòn lớn, điển hình là lớp phủ hợp kim Zn-Ni (đơn lớp) được ứng dụng bảo vệ chống ăn mòn trong điều kiện môi trường khắc nghiệt. Hiện nay, các lớp phủ đa lớp điều chỉnh thành phần (composition modulated multilayer - CMM) đang trở nên hấp dẫn hơn do cải thiện nhiều lần về bảo vệ chống ăn mòn. Bản chất chống ăn mòn được tăng cường của lớp phủ đa lớp so với các lớp phủ đơn lớp được quy cho là sự hình thành các bề mặt mới, cho phép sự lan rộng của chất ăn mòn sang bên cạnh thay vì xâm nhập trực tiếp vào nền. Sự lan rộng môi trường ăn mòn sang bên cạnh dẫn đến làm chậm tốc độ ăn mòn trong lớp phủ đa lớp, trong khi nó có thể xâm nhập trực tiếp tới nền trong lớp phủ đơn lớp. Theo đó, thời gian cần thiết để môi trường ăn mòn chạm tới nền bằng cách xuyên qua các lớp phủ đơn lớp (ít thời gian hơn) và đa lớp (nhiều thời gian hơn yêu cầu đối với đơn lớp) là khác nhau, và do đó hiệu quả chống ăn mòn cũng vậy.
Sơ đồ cơ chế ăn mòn trong các lớp phủ hợp kim đa lớp và đơn lớp
Để nâng cao hơn nữa độ bền ăn mòn của lớp phủ bảo vệ chống ăn mòn cho kim loại, việc nghiên cứu kết hợp các lớp mạ đơn lớp xen kẽ nhau tăng độ bền ăn mòn cho hệ phủ đa lớp là rất cần thiết. Vì vậy, các nhà khoa học tại Viện Kỹ thuật nhiệt đới đã triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu công nghệ mạ đa lớp (3 lớp) nền kẽm và hợp kim có độ bền chống ăn mòn cao ứng dụng cho các chi tiết cơ khí”.
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu do Sở KH&CN TP.HCM tổ chức, TS. Nguyễn Thị Thanh Hương (chủ nhiệm nhiệm vụ) cho biết nhóm thực hiện đã chế tạo thành công màng phủ màu đen (CCCs black/ZnNiSi/ZnNi), màng phủ màu trắng xanh (CCCs blue/Zn/ZnNiSi/ZnNi), màng phủ màu cầu vồng (CCCs ingride/Zn/ZnNi/SiZnNi). Đây là 3 loại màng phủ CCCs bảo vệ chống ăn mòn cho hệ bảo vệ đa lớp phủ kẽm niken nanosilica (ZnNiSi)/hợp kim kẽm niken (ZnNi), kích thước mỗi mẫu là 100x50x1 mm. Trong hệ mạ đa lớp, thép được bao phủ bởi lớp mạ 1 là ZnNi, tiếp theo lớp mạ thứ 2 là ZnNiSi, sau đó đến lớp mạ thứ 3 là lớp mạ Zn, tạo màu sắc cho hệ mạ Zn/ZnNiSi/ZnNi bằng màng phủ CCCs, vừa tăng tính thẩm mỹ vừa tăng độ bền ăn mòn cho hệ phủ đa lớp.
Hệ phủ 3 lớp ZnNi/ZnNiSi/CCCs có độ bám dính tốt và độ bền màu đạt theo tiêu chuẩn HES D6001. Thêm vào đó, các loại màng phủ CCCs được tạo ra có màu sắc tương đối đa dạng, đáp ứng nhu cầu của từng loại chi tiết vật liệu trong mỗi ứng dụng khác nhau.
Nhóm thực hiện đã tiến hành kiểm tra độ bền ăn mòn của các hệ phủ đa lớp bằng phương pháp thử nghiệm gia tốc phun muối trung tính. Kết quả cho thấy sau 48 giờ phun muối các mẫu chưa xuất hiện gỉ trắng hoặc tỷ lệ gỉ trắng thấp hơn 5%, sau 360 giờ phun muối - các mẫu có gỉ trắng, sau 1.000 giờ mẫu xuất hiện gỉ đỏ - thậm chí không xuất hiện gỉ đỏ trên bề mặt mẫu màng phủ màu cầu vồng. Độ bền ăn mòn theo thứ tự mẫu màng phủ màu đen < màng phủ màu trắng xanh < màng phủ màu cầu vồng.
TS. Nguyễn Thị Thanh Hương cho biết thêm, hình ảnh SEM bề mặt của các mẫu sau thử nghiệm gia tốc phun muối cho thấy sản phẩm ăn mòn bám nhiều trên bề mặt các mẫu màng phủ màu đen và màng phủ màu trắng xanh. Trong khi đó, ở mẫu màng phủ màu cầu vồng thì sản phẩm ăn mòn là ít nhất.
Gỉ đỏ xuất hiện trên mẫu màng phủ màu đen sau 1.000 giờ thử nghiệm gia tốc phun muối
Khi tiến hành xác định tốc độ ăn mòn của các hệ phủ đa lớp ngâm trong dung dịch NaCl 3% bằng phương pháp xác định tổn hao khối lượng, nhóm thực hiện nhận thấy, sau thời gian ngâm mẫu, khối lượng các mẫu màng phủ màu đen tăng trung bình 0,13g; các mẫu màng phủ màu trắng xanh tăng trung bình 0,2g; các mẫu màng phủ màu cầu vồng tăng trung bình 0,218g. Nhìn chung, khối lượng các mẫu đều tăng do có sản phẩm ăn mòn.
Trước thử nghiệm độ bám dính và độ bền màu, bề mặt mẫu đồng đều, không nếp gấp, không bong tróc, không phồng rộp, không rỗ, không bị châm kim, không vết nứt. Sau 3 chu kỳ sốc nhiệt bề mặt mẫu đồng đều, không bong tróc, không phồng rộp, không vết nứt. Độ bền màu được kiểm tra và đánh giá theo tiêu chuẩn HES D6001 mục 4.5, mẫu được để trong tủ sấy ở nhiệt 80 độ C trong 30 phút. Kết quả không thấy sự biến đổi màu của mẫu sau thời gian thử nghiệm.
Nhóm thực hiện đã xác lập 3 sơ đồ công nghệ. Sơ đồ công nghệ thứ nhất quy mô phòng thí nghiệm 10 dm2/mẻ chế tạo màng phủ CCCs có màu đen cho hệ bảo vệ đa lớp phủ ZnNiSi/ZnNi đạt các chỉ tiêu kỹ thuật: chiều dày 10 ÷ 18 µm, 10-15% Ni, đạt chuẩn RoHS, độ bền phun muối trung tính 48 giờ (≤ 5 % gỉ trắng) và 1.000 giờ xuất hiện gỉ đỏ. Sơ đồ công nghệ thứ hai quy mô phòng thí nghiệm 10 dm2/mẻ chế tạo màng phủ CCCs có màu trắng xanh cho hệ bảo vệ đa lớp phủ Zn/ZnNiSi/ZnNi đạt các chỉ tiêu kỹ thuật: chiều dày 10 ÷ 18 µm, 5-15% Ni; đạt chuẩn RoHS, độ bền phun muối trung tính 48 giờ (≤ 5 % gỉ trắng) và 1.000 giờ xuất hiện gỉ đỏ. Sơ đồ công nghệ thứ ba quy mô phòng thí nghiệm 10 dm2/mẻ chế tạo màng phủ CCCs có màu cầu vồng cho hệ bảo vệ đa lớp phủ Zn/ZnNiSi/ZnNi đạt các chỉ tiêu kỹ thuật: chiều dày 15 µm; 5-15% Ni, đạt chuẩn RoHS, độ bền phun muối trung tính 72 giờ (gỉ trắng 0%) và 1.000 giờ (gỉ trắng 30%) không xuất hiện gỉ đỏ.
Các bể mạ trong phòng thí nghiệm
Ngoài ra, nhóm thực hiện còn xây dựng quy trình phân tích các dung dịch tạo hệ đa lớp và bổ sung tổn hao dung dịch. Quy trình này được áp dụng để phân tích và bổ sung cho các bể mạ Zn và hợp kim kẽm niken và bể thụ động của các quá trình tạo chế tạo màng phủ CCCs có màu đen, màu trắng xanh và màu cầu vồng.
Thao tác trong phòng thí nghiệm
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp chuyên gia công cơ khí và mạ tại TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung đang có nhiều đơn đặt hàng yêu cầu mạ sản phẩm chất lượng cao. Đặc biệt, có doanh nghiệp (phối hợp triển khai nhiệm vụ) chủ yếu phục vụ xuất khẩu (90-95%) với mức sản lượng trung bình 1.000-3.000 kg/tháng (sản phẩm trung bình 1.000-10.000 chi tiết/tháng), còn sản phẩm sử dụng trong nước chỉ chiếm 5-10% với mức sản lượng trung bình hàng tháng 500 kg/tháng (sản phẩm trung bình 200-1.000 chi tiết/tháng). Vì thế, việc nghiên cứu triển khai ứng dụng kết quả của nhiệm vụ vào thực tiễn sản xuất quy mô công nghiệp là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất các sản phẩm cơ khí và linh kiện được mạ từ công nghệ mạ thân thiện môi trường cả trong và ngoài nước, hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu hàng phụ trợ.
Thông tin liên hệ: Viện Kỹ thuật Nhiệt đới (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) Địa chỉ: 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: 0835559888 Email: tdlam@itt.vast.vn |
Tấm tế bào cho phép “vá” tạm thời thành tim bị mỏng, tế bào được đưa vào đúng vị trí cần thiết, ít bị trôi đi và nhờ đó có thể phát huy khả năng sửa chữa, tái tạo của chúng trong cơ thể bệnh nhân tốt hơn, hướng đến ứng dụng điều trị bệnh tim mạch.
Hằng năm, thế giới có khoảng 18 triệu người tử vong vì bệnh tim mạch. Trong số này, 85% là do nhồi máu cơ tim (MI) và đột quỵ. Sự tiến triển của nhồi máu cơ tim bao gồm các quá trình viêm và sửa chữa để đáp ứng với tổn thương cơ tim và thiếu máu cục bộ. Trong đó, thiếu máu cục bộ kéo dài dẫn đến cái chết của các tế bào cơ tim và giải phóng nội bào vào chất nền ngoại bào (ECM).
Việc giải phóng các thành phần tế bào vào ECM làm kích hoạt phản ứng viêm do bạch cầu trung tính chi phối. Cuối cùng, các mảnh vụn tế bào hoại tử được loại bỏ. Đồng thời diễn ra sự lắng đọng collagen và hình thành sẹo. Quá trình lành thương đòi hỏi sự cân bằng giữa quá trình viêm và sửa chữa mô. Khi các quá trình này mất cân bằng, quá trình tái cấu trúc bất lợi có thể dẫn đến suy tim, rối loạn nhịp tim và các biến chứng khác. Với sự phát triển y học, bác sĩ có thể giúp bệnh nhân giảm các cơn đau và làm chậm tiến trình của bệnh nhưng vẫn chưa thể giúp bệnh nhân phục hồi các phần mô bị tổn thương do thiếu máu hay nhồi máu cơ tim.
Sự ra đời của công nghệ tế bào gốc đã mang đến những hy vọng lớn trong làm lành vết thương, giúp phục hồi các mô hay cơ quan bị tổn thương, qua đó hỗ trợ điều trị nhiều bệnh, trong đó đặc biệt là bệnh tim mạch. Trong đó, tế bào gốc trung mô MSCs (Mesenchymal Stem Cells) là dòng tế bào đa năng trưởng thành được tìm thấy trong các mô khác nhau như tủy xương, mô cuống rốn, mô mỡ. Là tế bào gốc đa năng, MSCs có khả năng tăng sinh trong môi trường nuôi cấy, khả năng tự làm mới và biệt hóa thành nhiều tế bào có chức năng khác.
Trong những năm gần đây, MSCs được xem là nguồn tế bào tiềm năng trong liệu pháp điều trị bệnh tim mạch, cải thiện chức năng tim và làm giảm tái tạo thất bất lợi của cơ tim do thiếu máu cục bộ thông qua các hiệu ứng nội tiết và điều hòa miễn dịch. Nhờ vào công nghệ tấm tế bào mà phương pháp ghép tế bào vào vùng thiếu máu cục bộ trở nên dễ dàng hơn, trong một số bài báo nghiên cứu đã chứng minh khả năng duy trì của của MSCs trong vùng tổn thương và đạt hiệu quả cao trong điều trị.
Nhóm chuyên gia Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM đã triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu tạo và ghép tấm tế bào từ tế bào gốc trung mô mô cuống rốn người và giá thể LunaGel trên mô hình chuột sau nhồi máu cơ tim”. Mục tiêu chính là nghiên cứu tạo tấm tế bào từ tế bào gốc trung mô mô dây rốn và giá thể LunaGel. Tấm tế bào cho phép “vá” tạm thời thành tim bị mỏng, tế bào được đưa vào đúng vị trí cần thiết, ít bị trôi đi và nhờ đó có thể phát huy khả năng sửa chữa, tái tạo của chúng trong cơ thể bệnh nhân tốt hơn, hướng đến ứng dụng điều trị bệnh tim mạch.
Nhiệm vụ do TS. Phạm Lê Bửu Trúc làm chủ nhiệm nhiệm vụ.
TS. Phạm Lê Bửu Trúc trình bày kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ vừa được Sở KH&CN TP.HCM tổ chức hồi quý II/2023, TS. Phạm Lê Bửu Trúc cho biết Lunagel là một ma trận ngoại bào liên kết ngang (ECM) trên nền gelatin đã được biến đổi hóa học. Các thành phần chính của Lunagel bao gồm các protein ECM như collagen loại I, III, IV và V, cũng như glycoprotein mô liên kết và proteoglycan. Lunagel duy trì hoạt động sinh học, tạo điều kiện cho sự gắn kết tế bào, tăng sinh, biệt hóa, và di cư của tế bào.
Công nghệ liên kết quang độc đáo của Lunagel cho phép kiểm soát độ xốp và độ cứng của ma trận, cho phép các nhà nghiên cứu tái tạo các đặc tính hóa lý của nhiều loại mô khỏe mạnh và mô bệnh trong các ứng dụng nuôi cấy tế bào 3D.
Nhóm thực hiện đã tạo được các tấm giá thể Lunagel bằng phương pháp trộn Lunagel vô trùng trong PBS (dung dịch muối đệm Phosphate Buffer Saline), đổ vào khuôn, tạo hydrogel 3D bằng cách chiếu ánh sáng xanh từ thiết bị Luna Crosslinker.
Các tấm giá thể Lunagel
Sau đó, nhóm thực hiện sử dụng các tấm giá thể Lunagel này cùng tế bào gốc trung mô mô cuống rốn (hUC-MSCs) để tạo tấm tế bào SCgel. Các tấm tế bào có thể được tạo hình theo dạng đĩa dẹt hay dạng tấm tròn tuỳ theo khuôn. Các mẫu tấm tế bào tạo thành ở các nhóm không có sự khác biệt rõ khi quan sát bằng mắt thường.
Các tấm tế bào SCgel
Hình chụp bề mặt của tấm tế bào bằng hệ thống SEM cho thấy các tế bào hUC-MSC đã được bao bọc trong lớp Lunagel (B), khác với bề mặt gel không chứa tế bào (A).
Bề mặt tấm giá thể (A) và bề mặt tấm tế bào (B) ở độ phóng đại 600X được ghi nhận bằng hệ thống SEM
Về đặc tính cơ học của tấm tế bào, TS. Phạm Lê Bửu Trúc nhận xét lực liên kết giữa giá thể Lunagel và mô tim được đánh giá bằng kính hiển vi lực nguyên tử. Lực liên kết giữa giá thể với mô tim là 25,9 nN, nhỏ hơn lực liên kết giữa tấm tế bào và mô tim là 46,4 nN. Điều này có thể do tấm tế bào có thêm thành phần ECM do các tế bào tiết ra làm tăng thêm tính bám dính cho vật liệu. Theo đó, quá trình kết mạch không gây hại đến sự sống và tăng sinh của tế bào dù có sự khác nhau giữa các tấm tế bào với các mức nồng độ Lunagel khác nhau. Việc này có thể là do có sự thay đổi về độ xốp và các lỗ liên kết của giá thể (giá thể phải có các lỗ liên kết với nhau để tạo điều kiện cho tế bào phát triển, di chuyển và trao đổi chất dinh dưỡng).
Mặt khác, do tim có bề mặt ẩm ướt trơn trượt cùng với chuyển động đập của tim khiến cho việc dán “tấm vá” tim trở thành một trong những công việc khó khăn nhất, đòi hỏi độ bám dính chắc chắn. Kết quả thử nghiệm cho thấy cả tấm giá thể Lunagel lẫn tấm tế bào SCgel đều có khả năng bám lên mô cơ tim, tấm tế bào SCgel không gây độc tế bào và đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế về độ vô khuẩn, tấm tế bào SCgel không gây độc và an toàn khi ghép in vivo. Tất cả khẳng định tấm tế bào SCgel phù hợp để ứng dụng hỗ trợ điều trị phục hồi cơ tim.
Kết quả thử nghiệm cho thấy việc cấy ghép giá thể Lunagel và tấm tế bào SCgel (dưới da) ở chuột nhân hóa hệ miễn dịch (Humanized immune mice)và chuột BALB/c không ảnh hưởng đến sức khỏe của chuột. Cụ thể, ở chuột nhân hoá hệ miễn dịch, tất cả chuột đều sống sót sau khi cấy ghép giá thể Lunagel và tấm tế bào SCgel (dưới da), khỏe mạnh và hoạt động bình thường. Các vết thương bắt đầu khô dần từ ngày 3 sau khi cấy ghép, có thể quan sát thấy rõ vào ngày thứ 7. Ngoài ra, vùng da tại vị trí ghép không đỏ/sưng, vết thương lành hoàn toàn và bắt đầu mọc lông sau 14 ngày. Tại ngày thứ 21 vùng da chuột tại vị trí ghép lành hoàn toàn và lông mọc dày tương tự như nhóm đối chứng. Cân nặng không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm đối chứng. Tương tự, ở chuột BALB/c, tất cả chuột đều sống sót sau quá trình phẫu thuật ghép giá thể Lunagel và tấm tế bào Scgel, khỏe mạnh và hoạt động bình thường. Các vết thương được ghi nhận là khô hoàn toàn và bắt đầu mọc lông từ ngày 9. Vết thương tại vùng da ghép vật liệu lành hoàn toàn và lông mọc bình thường sau 14 ngày. So với nhóm đối chứng, chuột BALB/c sau phẫu thuật có sự thay đổi cân nặng không đáng kể.
Nhìn chung, giá thể Lunagel và tấm tế bào SCgel không bị thải loại trong suốt quá trình cấy ghép cho đến khi thu mẫu, không xuất hiện phản ứng viêm nghiêm trọng. Ngoài ra, các tế bào gốc trung mô mô cuống rốn tiếp tục tồn tại trong giá thể sau khi cấy ghép và có xu hướng di chuyển ra các mô xung quanh vị trí ghép, cho thấy tiềm năng to lớn trong ứng dụng y học tái tạo.
Sơ đồ tổng thể thí nghiệm đánh giá tính tương thích của tấm tế bào khi được ghép dưới da chuột
Nhóm thử nghiệm tiến hành tạo mô hình chuột nhồi máu cơ tim (thiếu máu tim cục bộ) để nghiên cứu cấy ghép điều trị để đánh giá hiệu quả điều trị của giá thể Lunagel và tấm tế bào SCgel trong cấy ghép điều trị bệnh tim sau nhồi máu trên mô hình chuột. Kết quả, các lô thí nghiệm cấy ghép có sự thay đổi về mặt tích cực, trong đó lô ghép giá thể Lunagel có khả năng hình thành cơ tim chậm hơn so với lô ghép tế bào SCgel. Kết quả sau 14 ngày điều trị cho thấy được khả năng phục hồi chức năng cơ tim của các tấm tế bào SCgel và giá thể Lunagel thông qua việc cải thiện được nhịp tim đạt đến ngưỡng ổn định. Sau 14 ngày điều trị cấy ghép giá thể và tấm tế bào quan sát thấy, chuột đối chứng biểu hiện ăn uống bình thường, lông mượt bình thường, vận động bình thường. So với mẫu đối chứng, chuột được thắt mạch vành và không được cấy ghép có biểu hiện kén ăn, lông xù nhiều không được cải thiện, mẩn đỏ quanh vùng mắt và tai, vận động chậm.
TS. Phạm Lê Bửu Trúc cho biết thêm, các cá thể được ghép tấm tế bào cho thấy sự cải thiện trong khả năng tống máu tâm thất trái, nhịp tim, khả năng vận động và sức bền. Có thể thấy, việc ghép tấm tế bào thúc đẩy quá trình làm lành cơ tim.
Nhóm thực hiện cũngđã ghi nhận tình trạng xơ hóa nhẹ cũng như tình trạng mất cấu trúc cơ tim ở cả hai mẫu tại vùng nhồi máu không được ghép tấm tế bào, còn tại vùng được che phủ tấm tế bào của cả hai mẫu chỉ ghi nhận tình trạng xơ hóa tại khu vực bị thắt mạch. Điều này cho thấy việc cấy ghép tấm tế bào có thể hỗ trợ việc ngăn chặn sự xơ hóa và mất cấu trúc cơ tim do nhồi máu.
Hơn thế, có thể nhìn thấy sự liên kết giữa tấm tế bào với phần mô tim, và hoàn toàn có thể quan sát thấy sự hiện diện của các tế bào gốc ở vị trí liên kết. Tuy nhiên vì tác động cơ học trong quá trình thao tác nên phần liên kết giữa tấm tế bào và mô bị kéo giãn ra.
Biểu hiện mức độ phiên mã các gen liên quan đến tạo mạch của mô tim chuột
Sau 14 ngày gây tổn thương, mô tim đã hình thành xơ hóa và mô sẹo (quan sát qua mẫu thắt và mẫu giá thể). Tuy nhiên sau khi ghép tấm tế bào thêm 14 ngày thì không ghi nhận tình trạng xơ hóa hay mô sẹo, đồng thời thành tim vẫn giữ cấu trúc cơ tim, không bị mỏng tại vị trí tổn thương đã được cấy ghép. Vì thế, nhóm thực hiện phỏng đoán rằng ngoài bảo vệ các tế bào khỏi quá trình apoptosis do thiếu máu cục bộ, tế bào gốc có thể kích thích hình thành các tế bào cơ tim mới; và con đường thực hiện có thể thông qua kích thích quá trình nhân đôi và tái biệt hóa.
Từ kết quả của nhiệm vụ, nhóm thực hiện kiến nghị Sở KH&CN TP.HCM tiếp tục hỗ trợ thực hiện nghiên cứu các cơ chế sâu hơn trong việc tế bào gốc giúp phục hồi cơ tim sau nhồi máu. Đây là hướng nghiên cứu mới, sáng tạo trong y sinh học tái tạo và đầy tiềm năng để triển khai ứng dụng phục vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Thông tin liên hệ: E-mail: ttcnsh.snn@tphcm.gov.vn Website: https://www.hcmbiotech.com.vn |
Giải thưởng I-Star được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức thường niên dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố nhằm tôn vinh tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong cộng đồng. Qua 5 năm tổ chức (2018 - 2022), I-Star đã có gần 1.500 hồ sơ của 4 nhóm đối tượng tham gia, trong đó 53 hồ sơ đã được trao giải.
Buổi giới thiệu cũng đã thu hút được hơn 120 đại biểu là lãnh đạo các xã, thị trấn, các hợp tác xã, hộ kinh doanh, các bạn đoàn viên thanh niên và doanh nghiệp trên địa bàn huyện Củ Chi tham dự
Ngày 27/6/2023, nằm trong khuôn khổ Chương trình Tập huấn "Kiến thức về khởi nghiệp, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn huyện Củ Chi năm 2023" do Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi tổ chức, Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (I-Star 2023) đã được giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Củ Chi với mục tiêu khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo ở giới trẻ, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Củ Chi nói riêng và của TP.HCM nói chung.
Ông Đào Tuấn Anh - Chuyên viên Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ (Thành viên Ban Thư ký Giải thưởng I-Star 2023)
Ông Đào Tuấn Anh - Chuyên viên Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ (Thành viên Ban Thư ký Giải thưởng I-Star 2023) đã giới thiệu Giải thưởng I-Star 2023 đến các bạn đoàn viên thanh niên, doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh ở huyện Củ Chi, ở 3 nhóm chính gồm: Doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo (doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập trên địa bàn TP.HCM để thực hiện ý tưởng kinh doanh trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh); Giải pháp đổi mới sáng tạo ( tổ chức, cá nhân có cách thức mới, có tính sáng tạo đã được áp dụng có hiệu quả trên địa bàn TP.HCM nhằm giải quyết những vấn đề của cộng đồng); Cá nhân - tổ chức khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo có đóng góp tích cực cho cộng đồng (các tổ chức ươm tạo, tổ chức hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo, nhà đầu tư thiên thần, các chuyên gia tư vấn,... có đóng góp tích cực cho hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trên địa bàn TP.HCM).
Ông Đào Tuấn Anh hướng dẫn doanh nghiệp đăng ký tham gia Giải thưởng
Cũng trong buổi giới thiệu này, các hợp tác xã, hộ kinh doanh, các bạn đoàn viên thanh niên và doanh nghiệp ở huyện Củ Chi đã cùng trao đổi về hành trình từ ý tưởng đến sản phẩm, giải pháp thương mại hóa, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp nhằm động viên, khích lệ, khuyến khích và tôn vinh những giá trị sáng tạo mà mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đang ngày đêm miệt mài sáng tạo để cống hiến cho xã hội.
Ngoài cách thức đăng ký tham dự Giải thưởng I-Star 2023, ông Đào Tuấn Anh còn hướng dẫn cách thức cho các bạn đoàn viên thanh niên, doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh ở huyện Củ Chi tìm kiếm và tham khảo các giải pháp sáng tạo để ứng dụng vào nơi làm việc, địa điểm kinh doanh, hợp tác xã sản xuất và trong cuộc sống hàng ngày.
Giao diện websize Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (I-Star 2023) trên máy tính
Giải thưởng I-Star chính thức trở thành giải thưởng thường niên của TP.HCM từ năm 2018, nhằm tôn vinh các tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trên địa bàn Thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Năm 2023, Giải thưởng I-Star tiếp tục được tổ chức với 4 nhóm đối tượng tham gia: (1) Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; (2) Giải pháp đổi mới sáng tạo; (3) Các tác phẩm truyền thông; (4) Các tổ chức, cá nhân hỗ trợ. Hồ sơ tham dự Giải thưởng I-Star 2023 được tiếp nhận đến hết ngày 31/8/2023.
Tất cả hồ sơ tham gia dự thi và thông tin chi tiết về Giải thưởng được đăng tại: http://istar.doimoisangtao.vn/
Thông tin liên hệ: Ban Tổ chức Giải thưởng Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 2023
Địa chỉ: 244 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: 028.39320122 (ông Đào Tuấn Anh) - 028.38258857 (bà Nguyễn Vũ Anh Phương)
Email: dtanh.skhcn@tphcm.gov.vn; anhphuong@cesti.gov.vn
Nhật Linh (CESTI)
Việc hình thành một mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển nhân tạo tại các cơ sở đào tạo nghiên cứu là cần thiết nhằm tạo ra nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong 8 lĩnh vực mà TP.HCM đang ưu tiên phát triển, trong đó có lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.
Sở KH&CN TP.HCM vừa tổ chức hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu đề xuất phương án xây dựng mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo".
Nhiệm vụ do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TP.HCM) làm cơ quan chủ trì thực hiện, và PGS.TS Trần Minh Triết là chủ nhiệm triển khai nhiệm vụ.
Tham gia vào mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu về TTNT trong các cơ sở nghiên cứu đào tạo mang lại lợi ích cho các bên liên quan, bao gồm các cơ sở nghiên cứu đào tạo, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và xã hội nói chung.
Báo cáo trước hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ, PGS.TS Trần Minh Triết khẳng định: Dựa trên các mô hình đã khảo sát, dựa trên nhận định về tình hình thực tiễn tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất 8 nguyên tắc mang tính định hướng chung cho việc đề xuất mô hình mạng lưới viện viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo.
Trong 8 nguyên tắc này đặt trọng tâm chính là “lấy con người làm trung tâm” và “đảm bảo quyền lợi các bên liên quan” là nền tảng. Sáu nguyên tắc còn lại chia làm 3 nhóm: (1) sự kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu với đào tạo và sự kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản với ứng dụng; (2) yếu tố nền tàng kết nối, hỗ trợ và sự tham vấn của các chuyên gia; (3) sự kết hợp với doanh nghiệp và sự hợp tác liên ngành, liên viện - trường.
Nguyên tắc định hướng chung xây dựng mạng lưới trường, viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo
Nhằm đảm bảo các nghiên cứu có tính ứng dụng cao, các mạng lưới đẩy mạnh việc mời các doanh nghiệp và đối tác công nghiệp, đặc biệt là những đối tác có tầm ảnh hưởng lớn về mặt công nghệ, tham gia vào mạng lưới trong nhiều vai trò khác nhau, từ cố vấn đến nhà đầu tư cũng như đối tác nghiên cứu trong các dự án trong mạng lưới. Trong vai trò là những nhà đầu tư hoặc đối tác nghiên cứu trong mạng lưới, các đối tác công nghiệp có cơ hội cung cấp các nền tảng kỹ thuật công nghệ cũng như những ngữ cảnh, vấn đề thực tế nhằm đặt ra các thách thức về mặt nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu. Ngoài ra việc các doanh nghiệp tham gia vào các dự án nghiên cứu hợp tác cũng giúp cho quá trình chuyển giao tri thức và kết quả nghiên cứu từ học thuật sang thực tiễn được diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Trong vai trò cố vấn, các đối tác công nghiệp có cơ hội đưa ra những tham vấn phù hợp cho hội đồng quản lý mạng lưới nhằm có những điều chỉnh chiến lược ở tầm lãnh đạo nhằm giúp cho mạng lưới hoạt động hiệu quả, và đem tới những giá trị thực tiễn cho xã hội.
Thúc đẩy hợp tác - nghiên cứu liên ngành, viện - trường
Trong các tầm nhìn chung của các mạng lưới, việc tạo ra những giá trị và ảnh hưởng khoa học công nghệ cho xã hội và người dân trong xã hội luôn là một trong những mục tiêu lớn. Để làm được điều này, các nghiên cứu riêng rẽ theo những hướng khác nhau khó phát huy tác dụng rõ ràng. Vì vậy các mạng lưới luôn khuyến khích và thúc đẩy hợp tác, nghiên cứu đa ngành nhằm tận dụng kiến thức, kỹ năng đa dạng từ nhiều lĩnh vực khác nhau vào các dự án nghiên cứu có tầm ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều ngành nghề, nhiều đối tượng người dân trong xã hội. Ví dụ nhân lực nghiên cứu về khoa học xã hội kết hợp với nhân lực về công nghệ thông tin để phát triển những giải pháp công nghệ cho nhằm bảo lưu và phát triển văn hóa. Hay kết hợp các nhà nghiên cứu về tâm lý học và các nhà công nghệ để phát triển các công cụ liên quan đến sức khỏe tinh thần của người dân. Việc kết hợp này giúp kỹ năng, kiến thức các ngành nghề có thể bổ trợ lẫn nhau, giúp thành viên các dự án có góc nhìn đa chiều, bổ trợ nhau. Ngoài ra việc làm việc, hợp tác liên ngành cho phép các thành viên mở rộng góc nhìn, tư duy, nhằm tạo ra đội ngũ nhân lực không chỉ chuyên và còn có kiến thức rộng, linh hoạt trong việc thích ứng với nhiều hoàn cảnh khác nhau, phù hợp xu thế hiện nay và tương lai.
Việc thúc đẩy nghiên cứu liên ngành hoặc liên viện trường thường được tổ chức thông qua hai mô hình chính.
- Mô hình nhóm nghiên cứu chuyên sâu, tập hợp những nhân sự từ nhiều trường làm nghiên cứu trong cùng lĩnh vực hẹp hay chủ đề liên quan vào một nhóm nghiên cứu nhằm tập hợp nguồn lực tốt nhất, hợp tác cùng nhau thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu tầm quốc tế trong lĩnh vực đó, thể hiện qua các công bố khoa học ở những tạp chí hoặc hội nghị danh giá. Nhân sự này vẫn công tác tại cơ sở viện trường mình thuộc biên chế nhưng sẽ thường xuyên sinh hoạt khoa học và cộng tác trên các dự án nghiên cứu trong lĩnh vực của nhóm mình, dưới sự bảo trợ của mạng lưới.
- Mô hình nhóm nghiên cứu liên ngành: mô hình này nhằm tạo ra những đội ngũ liên ngành để thực hiện các dự án nghiên cứu ứng dụng nhằm giải quyết các vấn đề phức tạp trong thực tiễn xã hội. Tùy vào nhu cầu hiện thời và trong tương lai của xã hội, mạng lưới sẽ tạo ra những nhóm/cộng đồng nghiên cứu ứng dụng cho các nhu cầu xã hội. Các nhân sự từ các ngành khác nhau của trường viên thành viên trong mạng lưới có thể chọn tham gia vào một hay nhiều nhóm này nếu năng lực phù hợp. Các nhóm này sẽ tiến hành các dự án nghiên cứu ứng dụng sử dụng năng lực đa ngành của các thành viên để tạo ra các sản phẩm giải quyết các vấn đề cụ thể trong xã hội, dưới sự hỗ trợ về tài chính, thủ tục cũng như hậu cần của mạng lưới.
Với nhiều mô hình mạng lưới viện trường (ví dụ Insight tại Ireland, Media Futures của Na Uy), việc tiến hành những nghiên cứu có thể ứng dụng được vào thực tế trở thành một trong những tiêu chí tiên quyết của bất kỳ một dự án nghiên cứu nào).
PGS. TS Trần Minh Triết khẳng định, việc đề xuất mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo (TTNT) tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo nhằm tăng cường hiệu quả và tiến bộ trong phát triển TTNT.
"Mô hình mạng lưới này giúp tạo ra một môi trường tương tác giữa các đơn vị nghiên cứu, hỗ trợ cho quá trình trao đổi kiến thức, kinh nghiệm giữa các chuyên gia, giảng viên và sinh viên, và môi trường hợp tác này giúp các bên chia sẻ kiến thức và tài nguyên, thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực chất lượng và đóng góp trực tiếp vào nhiệm vụ giải quyết các thách thức xã hội", đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ cho biết, "Trước khi đề xuất mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tình hình phát triển về đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng TTNT trên thế giới, trong khu vực".
Kết quả khảo sát cho thấy, tại Việt Nam, TTNT cũng đang phát triển và được chú trọng bởi chính phủ và các tổ chức nghiên cứu. Tuy nhiên, các hoạt động nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế và chưa đạt được tiến bộ như mong đợi.
Vì thế, với mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT được nhóm triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ đề xuất, thì các cơ sở nghiên cứu đào tạo có cơ hội tiếp cận và sử dụng tài nguyên chuyên môn của nhau, giúp đẩy mạnh quá trình nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực TTNT. Mô hình mạng lưới này cũng hỗ trợ các nhà quản lý, các chuyên gia nghiên cứu và đào tạo trong việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn về TTNT.
Tuy nhiên, để thành công với mô hình mạng lưới này, cần có sự hợp tác, cam kết từ các đơn vị nghiên cứu, đào tạo và sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý và các tổ chức liên quan. Cần có các chiến lược, kế hoạch, chính sách phù hợp để đảm bảo mô hình mạng lưới được triển khai và hoạt động hiệu quả.
Tóm lại, đề xuất mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo là đóng góp quan trọng để nâng cao khả năng hợp tác và tiến bộ trong phát triển TTNT tại Việt Nam. Việc triển khai mô hình mạng lưới này cần được thực hiện một cách cẩn trọng, có sự hợp tác và đóng góp của nhiều bên để đạt được hiệu quả tối đa.
Cơ cấu tổ chức của mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo được đề xuất
Về kết quả đạt được, nhóm nghiên cứu cũng đã chủ động đề xuất một mô hình mang tính tham khảo để có thể xây dựng và triển khai mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo trên địa bàn TP.HCM.
Về giai đoạn triển khai, tầm nhìn của mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu TTNT tại TP.HCM là xây dựng một môi trường và cộng đồng tiên phong trong lĩnh vực TTNT, từ đó tạo nên sự phát triển và tiến bộ cho đất nước và cộng đồng. Nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) đề xuất việc từng bước xây dựng và phát triển mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu TTNT tại TP.HCM thành 3 giai đoạn như sau: (S1) Hình thành - (S2) Trưởng thành - (S3) Phát triển bền vững. Tùy theo tình hình thực tế cũng như chính sách đầu tư phát triển tại TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung, mỗi giai đoạn có thể kéo dài hơn so với dự kiến.
Trong đó, giai đoạn Hình thành có trọng tâm tạo ra niềm tin và uy tín ban đầu; giai đoạn Trưởng thành với 2 mục tiêu chính yếu là hướng ra khu vực và quốc tế, hình thành các hạt nhân; và giai đoạn Phát triển bền vững với 2 hoạt động chủ lực là phát triển các cluster, và đẩy mạnh đóng góp cho cộng đồng và quốc tế.
Nhóm triển khai nhiệm vụ cũng đề xuất cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ cho mạng lưới, đồng thời đề xuất 4 nhóm chương trình (A, B, C và D) với 10 chương trình trọng điểm (để tham khảo) cùng với kế hoạch, kinh phí và kết quả dự kiến tương ứng cho hoạt động của mạng lưới.
Nhóm chương trình và chương trình trọng điểm được đề xuất triển khai
Đảm bảo lợi ích các bên tham gia
Đại diện triển khai nhiệm vụ khẳng định, việc đảm bảo lợi ích của các bên liên quan khi tham gia vào mạng lưới các Viện, trung tâm nghiên cứu về TTNT trong cơ sở nghiên cứu đào tạo góp phần quan trọng vào phát triển bền vững của lĩnh vực TTNT và tạo ra giá trị cho xã hội. Bằng cách tập trung vào hợp tác, chia sẻ kiến thức và tài nguyên, cung cấp đào tạo chất lượng và giải quyết các thách thức xã hội, mạng lưới này đảm bảo rằng các bên liên quan đều có lợi ích cụ thể, đó là:
- Cơ sở nghiên cứu đào tạo được nâng cao uy tín, danh tiếng và khả năng hợp tác nghiên cứu với các đối tác khác. Điều này tạo ra một môi trường đa dạng và sáng tạo, thu hút tài năng và nâng cao chất lượng đào tạo.
- Nhà nghiên cứu được tiếp cận các nguồn tài nguyên và kiến thức đa dạng, từ đó tạo ra nghiên cứu chất lượng cao và có thể áp dụng vào thực tiễn. Nhà nghiên cứu cũng có cơ hội hợp tác với các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực, mở rộng mạng lưới kết nối và thúc đẩy sự phát triển cá nhân.
- Doanh nghiệp được tiếp cận đến những tiến bộ và phát triển mới nhất trong lĩnh vực TTNT, giúp cải thiện sản phẩm, quy trình và dịch vụ. Doanh nghiệp cũng có cơ hội hợp tác với các cơ sở nghiên cứu để tạo ra giải pháp sáng tạo và nắm bắt cơ hội thị trường.
- Xã hội nói chung được hưởng lợi từ các ứng dụng TTNT tiên tiến, từ việc cải thiện chất lượng cuộc sống, giải quyết các vấn đề xã hội lớn cho đến tăng cường hiệu suất và bảo vệ môi trường.
Là một phần của kết quả thực hiện, đại diện nhóm triển khai nhiệm vụ đưa ra các kiến nghị cho TP.HCM nhằm xây dựng và triển khai mô hình mạng lưới này, đó là:
- Tăng cường đầu tư vào đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng TTNT: TP.HCM cần có kế hoạch và chính sách đầu tư dài hạn để phát triển lĩnh vực TTNT. Điều này có thể bao gồm cải tiến các chương trình đào tạo và đào tạo lại các chuyên gia trong lĩnh vực này, cải tiến hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng.
- Thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo: TP.HCM cần tạo ra một môi trường tương tác giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo, đẩy mạnh quá trình trao đổi kiến thức, kinh nghiệm giữa các chuyên gia, giảng viên và sinh viên. Các hoạt động hợp tác và liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cần được khuyến khích và đẩy mạnh.
- Tạo ra những chương trình, nhiệm vụ gắn liền với hệ thống mạng lưới nghiên cứu và phát triển TTNT: TP.HCM cần đẩy mạnh việc kết nối các cơ sở nghiên cứu và đào tạo với nhau. Các đơn vị nghiên cứu và đào tạo cần được tạo điều kiện để có thể trao đổi kiến thức, kinh nghiệm và hợp tác trong các dự án nghiên cứu.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nghiên cứu và ứng dụng TTNT: TP.HCM cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nghiên cứu và ứng dụng.
Trong các kiến nghị trên, yếu tố chính sách và cơ chế sandbox đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và triển khai mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo trên địa bàn TP.HCM.
Chính sách và cơ chế sandbox là công cụ quan trọng để khuyến khích sự đổi mới, thử nghiệm các giải pháp mới trong lĩnh vực TTNT. TP.HCM cần xây dựng và áp dụng các chính sách và cơ chế sandbox để hỗ trợ các doanh nghiệp và tổ chức tham gia vào hoạt động nghiên cứu và ứng dụng TTNT. Các cơ chế này cần đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan.
Bên cạnh đó, TP.HCM cần cải thiện cơ chế quản lý và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn về TTNT. Cần tạo ra các chính sách và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực chuyên môn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về chuyên gia và nhân viên có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực này.
Xét ở tổng thể, việc xây dựng và triển khai mô hình mạng lưới viện, trung tâm nghiên cứu phát triển TTNT tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo trên đại bàn TP.HCM là một quá trình phức tạp và đòi hỏi sự hợp tác giữa các bên liên quan. Chính sách và cơ chế sandbox sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới và phát triển lĩnh vực TTNT tại TP.HCM.
Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần XI nhiệm kỳ 2020-2025 đã định hướng việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong 8 lĩnh vực ưu tiên: công nghệ thông tin - truyền thông; cơ khí - tự động hóa; trí tuệ nhân tạo; quản trị doanh nghiệp; tài chính - ngân hàng; y tế; du lịch; quản lý đô thị. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Đảng bộ TP.HCM khóa XI nhiệm kỳ 2020 -2025 cũng một lần nữa khẳng định: TP.HCM tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong 8 lĩnh vực ưu tiên, trong đó có trí tuệ nhân tạo. Ngày 23/2/2021, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 575/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình “Nghiên cứu và phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại TP.HCM giai đoạn 2020-2030” hướng tới mục tiêu xây dựng, phát triển hệ sinh thái nghiên cứu, phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo; đưa trí tuệ nhân tạo trở thành công nghệ then chốt phục vụ chuyển đổi số; cung cấp giải pháp thông minh cho các dịch vụ và sản phẩm thông minh. Đồng thời theo đó, TP.HCM sẽ trở thành một trong những trung tâm của Việt Nam và khu vực về nghiên cứu và triển khai, chuyển giao các ứng dụng trí tuệ nhân tạo; có trình độ phát triển trí tuệ nhân tạo nằm trong nhóm các thành phố dẫn đầu trong khu vực ASEAN. TP.HCM cũng lên kế hoạch xây dựng 9 đề án, dự án để phát triển trí tuệ nhân tạo bao gồm: (1) Đề án xây dựng hạ tầng số; (2) Đề án xây dựng hạ tầng tính toán hiệu năng cao; (3) Dự án xây dựng Cổng thông tin giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo; (4) Tổ chức ngày hội doanh nghiệp công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo TP.HCM; (5) Hạng mục khảo sát nhu cầu ứng dụng và phát triển trí tuệ nhân tạo; (6) Hạng mục xây dựng cơ chế, chính sách về trí tuệ nhân tạo; (7) Đề án thành lập Trung tâm hỗ trợ phát triển và chuyển giao trí tuệ nhân tạo TP.HCM; (8) Đề án xây dựng mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo; (9) Đề án Đào tạo nguồn nhân lực về trí tuệ nhân tạo. |
Thông tin liên hệ: E-mail: information@hcmus.edu.vn - tmtriet@hcmus.edu.vn Website: https://www.hcmus.edu.vn |
Vật liệu tự lành do nhóm các nhà khoa học tại TP.HCM nghiên cứu và phát triển thành công đã mở ra hướng tiếp cận mới cho một số lĩnh vực như in ấn, tráng phủ trên bề mặt vải, gỗ hay nhựa, cũng như sản xuất một số loại vật liệu dùng trong lĩnh vực bao bì, hộp đựng và các lĩnh vực khác có liên quan.
Vật liệu “tự lành” là một khái niệm tương đối mới và phát triển rất nhanh chóng trong khoa học vật liệu trong hơn thập kỷ gần đây. Các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu áp dụng các phương pháp khác nhau để tạo ra vật liệu khi bị hư hỏng có thể tự phục hồi các tính chất như độ bền gãy đứt, tính chống ăn mòn, hoặc tính dẫn điện. Quá trình phục hồi hay còn gọi là quá trình “lành” của vật liệu có thể diễn ra ở điều kiện phòng, hoặc dưới tác động bởi một tác nhân như nhiệt, ánh sáng, hơi ẩm, thay đổi pH...
Đại diện nhóm các nhà khoa học Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ khoa học - công nghệ
Nhiều vật liệu polymer dạng "tự lành" đã và đang được phát triển ứng dụng làm vật liệu composite tự lành, màng phủ chống ăn mòn cho bề mặt kim loại, màng phủ “tự lành” trầy xước cho các sản phẩm composite, nhựa và vải. Vật liệu polymer tự lành có thể được ứng dụng trong lĩnh vực y sinh, chẳng hạn như làm vật liệu bộ phận cấy ghép, da nhân tạo hay keo dán vết thương, hoặc làm màng sơn tự lành vết xước cho xe hơi và điện thoại thông minh, làm màn hình điện thoại thông minh.
Hiện nay nghiên cứu về vật liệu polymer “tự lành” đang là một đề tài mới cấp thiết thu hút sự quan tâm của cộng đồng khoa học trên thế giới. Vật liệu có thể “tự lành” khi xuất hiện vết rạn tế vi giúp cho sản phẩm có tuổi thọ sử dụng cao, nhờ đó giảm thiểu chi phí sửa chữa, đem lại hiệu quả ứng dụng của sản phẩm và hiệu quả kinh tế, đồng thời giúp giảm thiểu năng lượng, tài nguyên và chất thải.
Polymer nhớ hình (shape-memory polymers - SMP) là polymer có khả năng lưu giữ một hình dạng tạm thời và có thể từ một trạng thái bị biến dạng (hình dạng tạm thời) trở về hình dạng ban đầu bởi một tác nhân bên ngoài, chẳng hạn như sự thay đổi nhiệt độ. Ngoài việc thay đổi nhiệt độ, sự thay đổi hình dạng của SMP cũng có thể được kích hoạt bởi điện trường, từ trường, ánh sáng…Đối với polymer nhớ hình kích ứng nhiệt, có thể hiểu là: khi một mẫu polymer có “bộ nhớ” được nung nóng lên, thì nó có thể bị biến dạng để thay đổi hình dạng ban đầu, đến khi nguội đi thì polymer đó vẫn giữ hình dáng tạm thời đó. Nếu sau đó được nung nóng lên trở lại thì loại polymer này “nhớ” hình dạng ban đầu của mình và trở về hình dạng cũ. SMP có thể giữ lại được hai, đôi khi là ba hình dạng và sự chuyển tiếp giữa các hình dạng này được gây ra bởi nhiệt độ. Cũng như polymer nói chung, SMP cũng có nhiều tính chất từ ổn định đến phân hủy sinh học, từ linh động đến cứng tùy thuộc vào đơn vị cấu tạo thành SMP. SMP bao gồm polymer nhiệt rắn và nhiệt dẻo. SMP được xếp vào loại “vật liệu thông minh”, và các báo cáo đầu tiên đề cập đến “hiệu ứng nhớ hình” và "thông minh" của polyme được công bố bởi Vernon vào năm 1941 trong một bằng sáng chế Hoa Kỳ. Mặc dù phát hiện sớm nhưng mãi đến những năm 1960 tầm quan trọng của “hiệu ứng nhớ hình của polymer” mới được ghi nhận, khi liên kết nối mạng - liên kết hóa trị của polyethylene được khai thác ứng dụng trong màng phim. Cuối những năm 1980, hướng nghiên cứu này tiếp tục phát triển thể hiện bởi số lượng các ấn phẩm xuất hiện hằng năm. Cho đến nay, hàng chục polymer khác nhau đã được thiết kế và tổng hợp để chứng minh tính chất nhớ hình cho các ứng dụng đa dạng. Lĩnh vực nghiên cứu này tăng nhanh bắt đầu từ những năm 1990, và điều thú vị là gần 40% những nghiên cứu về polymer nhớ hình được công bố hoặc cấp bằng sáng chế bởi các nhà nghiên cứu Nhật Bản theo khảo sát năm 2006. |
Việc sử dụng các liên kết thuận nghịch là cầu nối mạng cấu trúc phân tử polymer nhằm đưa khả năng “tự lành” vào vật liệu đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới. Khi bị đứt gãy, các liên kết thuận nghịch này có khả năng tái tạo, đem lại khả năng hồi phục cho vật liệu. Ưu điểm của vật liệu tự lành sử dụng cơ chế này là vật liệu có khả năng “tự lành” lặp lại được nhiều lần.
Phản ứng thuận nghịch, đặc biệt là phản ứng Diels-Alder (DA) sử dụng để tạo liên kết ngang trong cấu trúc vật liệu polymer đã được nghiên cứu rộng rãi bởi nhiều nhà khoa học. Đặc biệt, việc nghiên cứu đưa vào cấu trúc polymer mạng lưới dày đặc các liên kết hydro với vai trò liên kết thuận nghịch tạo khả năng tự lành mà không cần tác nhân kích thích bên ngoài thu hút nhiều sự chú ý của nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới trong những năm gần đây.
Trong cấu trúc của polyurethane (PU), liên kết hydro mạnh mẽ của nhóm urethane hình thành “pha cứng” gồm các phân đoạn ngắn chứa nhóm urethane. Pha cứng mang lại cơ tính cao (độ bền và mô-đun) cho vật liệu, nhưng đồng thời sẽ cản trở khả năng tái hợp của các liên kết DA bị đứt gãy do sự hạn chế về độ linh động phân tử.
Việt Nam đã có thể làm chủ công nghệ
PGS. TS Nguyễn Thị Lệ Thu (Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TP.HCM) cho biết, nhiệm vụ khoa học - công nghệ "Nghiên cứu tổng hợp vật liệu tự lành trên cơ sở kết hợp cấu trúc mạng đan xen của polyurethane nhớ hình với liên kết Diels-Alder và mạch linh động" được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu tổng hợp vật liệu tự lành trên cơ sở kết hợp cấu trúc mạng đan xen (interpenetrating network) của polyurethane, kết hợp với liên kết Diels-Alder và các phân đoạn, mạch bên linh động.
Đại diện hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học - công nghệ quan sát một mẫu nhựa dẻo được phủ vật liệu có khả năng tự lành
Cụ thể, PGS. TS Nguyễn Thị Lệ Thu và các cộng sự đã tiến nhành tổng hợp hệ PU mới trên cơ sở liên kết cộng hóa trị thuận nghịch Diels-Alder và kết hợp các yếu tố để tăng hiệu quả tự lành như cấu trúc mạng đan xen, cơ chế khuếch tán - rối mạch của mạch nhánh/mạch bên, sử dụng các phân đoạn có độ linh động cao như polydimethylsiloxane.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành các nội dung gồm tổng hợp polyester/polyether-PDMS (Polydimethylsiloxane) mang nhóm DA-alcohol; tổng hợp hệ polymer 1-polyurethane trên cơ sở liên kết DA gắn kết với mạch PDMS; đánh giá tính chất và khả năng hồi phục vết xước/cắt của vật liệu hệ polymer PU-PDMS-DA; tổng hợp monomer triazine-furan; tổng hợp tiền chất polymer trên cơ sở triazine furan-PDMS-PPG (TF-PDMS-PPG); tổng hợp PCL8000-bisfuran, oligomer bismaleimide; đánh giá quá trình đóng rắn bằng phản ứng DA của mạng đan xen và đánh giá tính chất tự lành của mạng đan xen DA riêng rẽ; nghiên cứu tổng hợp và đánh giá tính chất hệ nền PU với các cấu trúc khác nhau; tổng hợp và đánh giá tính chất của vật liệu cấu trúc đan xen của PU và mạng DA.
Nhiệm vụ đã đạt được mục tiêu đề ra là tổng hợp, đánh giá và so sánh cơ tính và tính chất tự lành của hai hệ polymer trên cơ sở nền polyurethane nhớ hình có chứa liên kết thuận nghịch Diels-Alder, đồng thời kết hợp với cấu trúc mạng đan xen và các phân đoạn, mạch bên linh động.
Hướng nghiên cứu được nhóm triển khai nhiệm vụ triển khai
Cụ thể, nhóm đã chế tạo thành công vật liệu cấu trúc đan xen của PU nhớ hình với cấu trúc mạch nhánh và mạng DA đạt các tính chất như độ bền kéo > 27 MPa (kế hoạch đề ra là 10 MPa), Module Young > 170 MPa, nhiệt độ chuyển pha nhớ hình 50-75 độ C, có thể lành hiệu quả vết rạch xước trên bề mặt khi gia nhiệt ở 60-70 độ C trong vòng 1 giờ, và hiệu quả hồi phục vết xước/vết rạch là trên 90% (xét về độ rộng vết xước). Hiệu quả hồi phục cơ tính của màng có vết xước, rạch là trên 70%. Hiệu quả hồi phục cơ tính của mẫu sau khi cắt đứt và ghép chữa lành là > 50%.
Bên cạnh đó, nhóm cũng chế tạo thành công vật liệu polyurethane PU-PDMS-DA đạt các tinh chất như độ bền kéo > 10 MPa, Module Young 80 MPa, nhiệt độ chuyển pha nhớ hình 50-75 độ C, có thể lành hiệu quả vết rạch xước trên bề mặt khi gia nhiệt ở 60-70 độ C trong vòng 24 giờ.
Hai mẫu sản phẩm được gia công từ vật liệu có khả năng tự lành, chống trầy xước trong quá trình đúc khuôn, gia nhiệt
Với vật liệu polyurethane PU-PDMS-DA, sản phẩm nghiên cứu đạt tiêu chuẩn độ bền kéo 24 MPa, Module Young 187 MPa, nhiệt độ chuyển pha nhớ hình 50-75 độ C, và có thể lành hiệu quả vết rạch xước trên bề mặt khi gia nhiệt ở 70 độ C trong vòng 24 giờ.
Nhiệm vụ cũng đã cũng hoàn thành quy trình chế tạo vật liệu tự lành PU-PDMS-DA, và quy trình chế tạo vật liệu tự lành cấu trúc đan xen của PU nhớ hình với cấu trúc mạch nhánh và mạng DA.
PGS. TS Nguyễn Thị Lệ Thu khẳng định, kết quả của nhiệm vụ đã tạo ra sản phẩm được hiệu quả sản phẩm tương đương với các sản phẩm cùng hệ (PU, Diels-Alder) trên thế giới nếu so ở các tiêu chí độ tinh khiết, cấu trúc hóa học theo yêu cầu thiết kế, đạt được tính nhớ hình và tính thuận nghịch của liên kết nối mạng. Hiệu quả hồi phục cơ tính của màng có vết xước/rạch là trên 80%.
Các mẫu vật liệu tự lành khi quan sát dưới kính hiển vị quang học
Về hiệu quả kinh tế - xã hội, có thể khẳng định rằng, việc chế tạo ra vật liệu mới với tính năng “tự lành” giúp cho sản phẩm có tuổi thọ sử dụng cao, nhờ đó giảm thiểu chi phí sữa chữa, mang lại hiệu quả ứng dụng của sản phẩm và hiệu quả kinh tế, đồng thời giúp giảm thiểu năng lượng, tài nguyên và chất thải.
Được biết, vật liệu tự lành là kết quả của nhiệm vụ khoa học - công nghệ nói trên đã được thử nghiệm trong việc in ấn nội dung quảng cáo trên bề mặt áo thun, vỏ hộp tại một số cơ sở, doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM, ghi nhận những phản hồi tích cực về chất lượng, độ bền và khả năng ứng dụng lâu dài trong thực tiễn.
Có thể khẳng định rằng, thành công của nhiệm vụ đã mở ra hướng tiếp cận mới cho một số lĩnh vực như in ấn gia nhiệt trên bề mặt vải, gỗ hay nhựa và thậm chí bề mặt kính, cũng như sản xuất một số loại vật liệu dùng trong lĩnh vực bao bì, hộp đựng và các lĩnh vực khác có liên quan, đồng thời khẳng định trình độ của đội ngũ các nhà khoa học tại TP.HCM trong nghiên cứu các lĩnh vực về vật liệu mới, vật liệu sinh học và bảo vệ môi trường, gắn ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào phát triển năng lực sản xuất.
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) Điện thoại: 0932605300 Email: nguyenthilethu@hcmut.edu.vn - khcn@hcmut.edu.vn |
Chiều 19/6, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức buổi gặp gỡ báo chí nhân dịp kỷ niệm 98 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2023) nhằm gắn kết và tri ân đội ngũ phóng viên, nhà báo trong công tác truyền thông khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Tham dự buổi họp mặt có đại diện lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ, đại diện lãnh đạo Trung tâm Báo chí TP.HCM và hơn 20 phóng viên, nhà báo đang công tác tại các cơ quan báo chí, đài phát thanh, truyền hình tại TP.HCM.
Tại buổi họp mặt, ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM) gởi lời chúc mừng và tri ân đến đội ngũ phóng viên, nhà báo đã đồng hành cùng các hoạt động của Sở trong suốt thời gian qua. Đồng thời chia sẻ một số định hướng hoạt động của Sở trong thời gian tới, cũng như mong muốn lắng nghe những chia sẻ, trao đổi, hiến kế của đội ngũ phóng viên, nhà báo để thúc đẩy đổi mới công tác truyền thông, qua đó thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM) chúc mừng các nhà báo và chia sẻ, trao đổi một số thông tin tại buổi họp mặt
Theo ông Nguyễn Việt Dũng, TP.HCM đang triển khai đề án lớn “Hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Thành phố giai đoạn 2021 - 2025” (Đề án 672), với quan điểm khoa học và công nghệ có vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đề án nhắm đến các mục tiêu thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Thành phố ngang tầm khu vực; đóng góp của TFP (yếu tố năng suất tổng hợp) vào tăng trưởng GRDP đến năm 2025 đạt từ 45% - 50%; tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh… Đến năm 2025, hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo cho 3.000 doanh nghiệp; hỗ trợ ươm tạo, phát triển 1.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ phát triển 100 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiếp cận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm.
Để thực hiện, thời gian qua Sở KH&CN đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ như nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo; hỗ trợ ươm tạo, phát triển các dự án khởi nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiếp cận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm... Trong giai đoạn năm 2021 - 2023, Thành phố đã triển khai 8 nhóm nhiệm vụ (23 dự án thành phần) của đề án với 76 nội dung cụ thể. Đến nay đã hoàn thành 9 nội dung và đang tiếp tục thực hiện 53 nội dung.
Qua đó, Sở đạt được kết quả tốt liên quan đến 2 chỉ số lớn của đề án. Cụ thể, giai đoạn 2021 - 2023, tỷ lệ đóng góp TFP đạt 45%, riêng trong 4 ngành công nghiệp trọng điểm đạt gần 50%; chi đầu tư cho khoa học và công nghệ của xã hội tại TP.HCM chiếm 0,88%/GRDP, đến năm 2025 hoàn thành chỉ tiêu 1%/GRDP là rất khả thi. Tuy nhiên, con số 1% so với các nước phát triển là chưa đạt kỳ vọng. Thành phố đặt mục tiêu đến năm 2030, chi tiêu xã hội cho khoa học công nghệ đạt 3 - 4% GRDP.
Lãnh đạo Sở KH&CN tặng quà, tri ân các phóng viên nhà báo
Thời gian tới, Thành phố sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp thực hiện đề án 672 như tổ chức triển khai có hiệu quả các chính sách đặc thù trong quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thành lập và triển khai hoạt động Viện Công nghệ tiên tiến và Đổi mới sáng tạo, Trung tâm Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thúc đẩy hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc theo mô hình tiên tiến của thế giới; tập trung nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao và xây dựng các giải pháp, sản phẩm, dịch vụ phục vụ Đề án Đô thị thông minh, chương trình chuyển đổi số và các ngành công nghiệp chủ lực của TP.HCM.
Trong đó, Sở KH&CN đề xuất 4 nhóm chính sách hỗ trợ gồm miễn giảm thuế cho các quỹ đầu tư, doanh nghiệp, tổ chức trung gian, chuyên gia,… tham gia đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; chính sách hỗ trợ không hoàn lại cho các dự án đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học nhằm tháo gỡ một số vướng mắc của các quy định hiện hành về sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ nghiên cứu; nhóm chính sách cơ chế thử nghiệm sản phẩm (sandbox) tập trung một số công nghệ mới tại Khu Công nghệ cao và Khu công viên phần mềm Quang Trung; chính sách về tiền lương, tiền công, thù lao cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
Lam Vân (CESTI)