SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chương trình chú trọng đến hoạt động huấn luyện, mentoring dựa trên xu hướng phát triển thực tế tại các doanh nghiệp lớn, kết nối với các startups công nghệ theo mô hình “Open Innovation”. Qua đó, góp phần định hướng, thúc đẩy và đem lại hỗ trợ thiết thực cho cộng đồng các nhà phát triển dựa trên ứng dụng công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo).

Chương trình AI HackBootcamp 2021 với chủ đề “Giải pháp ứng dụng AI trong E-commerce” được công bố ngày 01/10 bằng hình thức trực tuyến, do SHTP-IC (Vườn ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao) phối hợp cùng Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Ban Quản lý Khu Công nghệ cao và Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM.

Đây là chương trình được tổ chức hàng năm với sự đồng hành đến từ nhiều tổ chức chính trị - xã hội, tập đoàn, doanh nghiệp... có chuyên môn về lĩnh vực ứng dụng AI, cũng như các hoạt động hỗ trợ phát triển công nghệ và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Với sự bùng nổ trong những năm gần đây, thương mại điện tử (TMĐT) đang là hình thức kinh doanh tiềm năng được nhiều doanh nghiệp, nhà bán lẻ hướng tới. Dịch Covid-19 khiến mọi người phải hạn chế đi lại, nhiều khu vực bị phong tỏa trong thời gian dài. Mặc dù có nhiều bất lợi nhưng đây lại là cơ hội để TMĐT “trỗi dậy” hơn bao giờ hết. Người dân ở trong nhà chỉ cần cầm chiếc smartphone lên là đã có thể mua sắm, đi chợ.

Tại buổi lễ công bố chương trình AI HackBootcamp 2021, ông Nguyễn Ngọc Dũng (Phó Chủ tịch VECOM) nhận định, TMĐT đã phát triển mạnh trong thời gian vừa qua, sau đại dịch sẽ bùng nổ ở trạng thái mới, với số lượng lớn người tham gia. Dự báo sẽ có khoảng 500 ngàn đến 1 triệu người thuộc các hiệp hội thanh niên, phụ nữ sẽ tham gia ứng dụng TMĐT. Các địa phương và nhiều ngành nghề, lĩnh vực đã bắt đầu phát triển TMĐT bền vững. Có thể thấy, các hoạt động họp, hội thảo trực tuyến online đã không còn xa lạ; các mô hình livestream được áp dụng hiệu quả để bán hàng. Vì vậy, cần tiếp tục cập nhật hình thức này cho thanh niên, hội phụ nữ. Ví dụ, có thể mở ra tạp hóa số, từ đó lan tỏa ứng dụng hình thức kinh doanh này cho các đối tượng phụ nữ bị ảnh hưởng công việc, mất việc. Việc lưu thông, thanh toán hàng hóa, đóng tiền cũng chuyển sang hình thức online.

Ngoài ra, Việt Nam hiện đã sẵn sàng cho các hoạt động ứng dụng blockchain, nên có thể áp dụng blockchain trong kinh doanh TMĐT. Ông Dũng “đặt hàng” phát triển các sản phẩm TMĐT ứng dụng blockchain như số hóa tác phẩm nghệ thuật, điện ảnh, làm phim, game, bất động sản, sản phẩm du lịch trực tuyến, chợ phiên online, các sản phẩm/dự án lợi ích cho môi trường, cộng đồng, sản phẩm sáng tạo… Đồng thời, các nhà nghiên cứu AI cần cung cấp cho TMĐT những ứng dụng tiện lợi, dễ dàng và hiệu quả.

hackboot

Bà Phan Thị Thùy Ly giới thiệu về chương trình AI HackBootcamp 2021.

Bà Phan Thị Thùy Ly (Phó Giám đốc SHTP-IC) cho biết, AI HackBootcamp là chương trình thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển các giải pháp/sản phẩm ứng dụng AI dành cho các bạn trẻ tài năng ở Việt Nam nhằm thu hút các dự án tiềm năng và hình thành cộng đồng các nhà phát triển AI trẻ có năng lực chuyên môn cao. Các đối tượng tham gia chương trình sẽ được kết nối, hỗ trợ về chuyên gia, doanh nghiệp đồng hành, nguồn lực tài chính, công nghệ và truyền thông để có thể hình thành các sản phẩm và thương mại hóa sản phẩm. Cụ thể, đối tượng tham gia là các nhóm/tổ chức/cá nhân đang xây dựng doanh nghiệp sử dụng AI hoặc giải quyết một vấn đề trong hệ sinh thái AI; đang ở giai đoạn ý tưởng và có thể làm việc tối thiểu 15 giờ/tuần với sản phẩm của mình; các giải pháp/sản phẩm ứng dụng AI trong e-commerce.

Chương trình có 2 giai đoạn chính, gồm 8 tuần coaching chuyên sâu và 1 – 3 năm ươm tạo. Ở giai đoạn 8 tuần, các hoạt động chính là huấn luyện mentoring online về cách thức chuẩn hóa dữ liệu và xây dựng mô hình mẫu, tư vấn về tính khả thi trong thương mại của giải pháp, chú trọng cập nhật kiến thức công nghệ mới và nhu cầu thực tế từ thị trường thương mại điện tử trong nước và quốc tế. Giai đoạn này với sự đồng hành của các chuyên gia đến từ các doanh nghiệp lớn, các công ty trong lĩnh vực e-commerce và công nghệ sẽ giúp các dự án xác định được ý tưởng khả thi, chạy thử mô hình mẫu và hoàn thiện demo giải pháp.

Giai đoạn ươm tạo sẽ chọn 5 - 7 dự án đưa vào chương trình ươm tạo chuyên sâu 1 - 3 năm để kết nối và hỗ trợ thêm các nguồn lực cho dự án. Cụ thể, giai đoạn này tập trung hỗ trợ hiệu quả hoạt động chuẩn hóa dữ liệu, hoàn thiện giải pháp để sẵn sàng thương mại hóa hoặc chuyển giao công nghệ; hỗ trợ về pháp lý, tư vấn xác lập quyền sở hữu trí tuệ; kết nối trực tiếp đến các chương trình hỗ trợ vốn dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chương trình SpeedUp của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM.

Chương trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký đến hết ngày 16/10/2021. Chương trình huấn luyện – mentoring chuyên sâu sẽ bắt đầu từ 23/10 - 12/12/2021. Sau đó là buổi pitching day (ngày 18/12) để lựa chọn 5 – 7 dự án tham gia chương trình ươm tạo.

Tại lễ công bố chương trình, các đơn vị đồng hành, hỗ trợ từ các doanh nghiệp và các chuyên gia đến từ các tập đoàn/tổ chức như Intel Products Việt Nam, Amazon Web Services, TMA Innovation, HTGSOFT, ANSCENTER, ARI Technology,… cũng đã chia sẻ, cung cấp các thông tin về xu hướng ứng dụng AI trong TMĐT; những kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường, nhu cầu của thị trường, bài toán nghiệp vụ; kinh nghiệm triển khai sản phẩm từ ý tưởng đến thực tế, kinh nghiệm xây dựng hệ thống TMĐT; mô hình kinh doanh B2B2C, cơ hội phát triển cho những ý tưởng đề tài mới về hành vi mua hàng trong giai đoạn bình thường mới…

Lam Vân (CESTI) 

Từ việc xác định các biến thể trên các gene ở người mắc bệnh cơ tim giãn nở, thực hiện xét nghiệm di truyền là giải pháp giúp tầm soát sớm ở thân nhân, giúp phòng ngừa, làm chậm diễn tiến bệnh, ngăn các triệu chứng suy tim và kéo dài thời gian sống.

Tìm biến thể gây bệnh DCM trên gene

Bệnh cơ tim giãn nở (dilated cardiomyopathy - DCM) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây suy tim, tác động chủ yếu ở người trẻ tuổi và liên quan nhiều nhất đến chỉ định ghép tim ở bệnh nhân tim mạch. DCM là một bệnh có nguyên nhân phức tạp, tần suất DCM thay đổi theo phân bố địa lý và chủng tộc. Sự kết hợp của yếu tố di truyền và môi trường sẽ thúc đẩy quá trình khởi phát cũng như quyết định các hậu quả lâm sàng của bệnh. Đối với yếu tố di truyền, DCM chủ yếu được di truyền theo kiểu sinh dưỡng trội, nghĩa là khi bố hoặc mẹ mang đột biến thì ở thế hệ con cái của họ có 50% sẽ thừa hưởng đột biến này.

Bệnh cơ tim giãn nở tuy không gây ra các triệu chứng, nhưng có thể gây đe dọa tử vong. Bệnh có thể gây suy tim, loạn nhịp, máu đông và tử vong đột ngột.

tim

Bệnh cơ tim giãn nở là bệnh lý của cơ tim, trong đó thất trái căng và mỏng (dãn). Tim có dạng hình cầu thay vì hình nón như bình thường. Thành thất mỏng hơn và bị yếu nên không thể co như tim bình thường. Điều này làm các nhát bóp của tim kém hiệu quả và gây ra tình trạng suy tim. Trong bệnh cơ tim giãn nở, thất phải có thể bị ảnh hưởng.

Việc phát hiện đột biến gây bệnh ở người mắc DCM không có nhiều ý nghĩa tiên lượng hay điều trị cho bản thân người bệnh; thay vào đó ý nghĩa chủ yếu nằm ở khả năng sàng lọc đối với thân nhân của họ. Tuy nhiên, nguyên nhân di truyền của DCM hiện nay vẫn là thách thức lớn cho các nghiên cứu trên thế giới do tính phức tạp của bệnh khiến các hiểu biết về cơ chế di truyền cũng như vai trò các gene trong bệnh sinh còn hạn chế.

Được biết, trước đây, chưa từng có công bố dữ liệu tại Việt Nam về bệnh DCM và sự di truyền của bệnh lý này.

Cho đến tháng 5/2021, nhóm nghiên cứu ở Khoa Y tại ĐHQG TP.HCM do PGS.TS. Hồ Huỳnh Thùy Dương cùng các cộng sự tiến hành đã hoàn thành việc thu mẫu và phân tích 56 thân nhân thuộc 26 gia đình bệnh nhân. Trong số 29 thân nhân được xác định mang biến thể gây bệnh và có thể gây bệnh, có 26 người chưa được chẩn đoán DCM trước khi có kết quả xét nghiệm di truyền. Những người này đã được nhóm nghiên cứu tư vấn, khuyến cáo theo dõi lâm sàng để giúp phòng ngừa, làm chậm diễn tiến bệnh, ngăn các triệu chứng suy tim và kéo dài thời gian sống. Ba thân nhân còn lại đã được chẩn đoán mắc DCM. Kết quả tầm soát biến thể cho phép xác định nguyên nhân di truyền của bệnh.

tim1

Kết quả sàng lọc biến thể trên thân nhân người bệnh

Xác nhận biến thể trên thân nhân người bệnh chính kết quả có ý nghĩa thiết thực nhất ở nhiệm vụ. Nhờ đó, cộng đồng có thể nhận diện ngày càng nhiều gene và biến thể gây DCM, hiểu ngày càng rõ hơn căn nguyên di truyền của bệnh, từ đó tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân – đặc biệt là lực lượng lao động trẻ.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhóm nghiên cứu đã có một bài báo khoa học Genetic Determinants and Genotype-Phenotype Correlations in Vietnamese Patients With Dilated Cardiomyopathy đăng trên tạp chí quốc tế chuyên về tim mạch Circulation Journal, cũng như hoàn thành đào tạo một thạc sỹ ngành Di truyền học với luận văn Xây dựng quy trình tầm soát các đột biến liên quan đến bệnh cơ tim giãn bằng kỹ thuật giải trình tự DNA thế hệ mới.

Ứng dụng tiến bộ công nghệ trong nghiên cứu khoa học

Như đã nêu, ở Việt Nam chưa hề có công bố dữ liệu về DCM di truyền. Điều này đã thôi thúc PGS.TS. Hồ Huỳnh Thùy Dương cùng các cộng sự thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ “Xác định các biến thể trên các gene liên quan đến bệnh cơ tim giãn nở ở bệnh nhân Việt Nam bằng kỹ thuật giải trình tự DNA thế hệ mới”, dựa trên kỹ thuật giải trình tự DNA thế hệ mới (next-generation sequencing – NGS), nhằm phân tích và xử lý dữ liệu về tần suất DCM di truyền, cũng như tần suất các biến thể gây bệnh ở bệnh nhân Việt Nam.

Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập 280 mẫu máu ngoại vi của 280 bệnh nhân được chẩn đoán mắc DCM (có đầy đủ thông tin lâm sàng và cận lâm sàng, giấy đồng ý tham gia nghiên cứu, giấy chấp thuận của Hội đồng Y đức), sau đó xây dựng quy trình NGS dựa trên mẫu DNA tham chiếu NA12878 do Viện Corriell (Mỹ) cung cấp trên hệ thống MiSeq (Illumina), xác định biến thể trên 57 gene liên quan đến DCM bằng công cụ tin sinh học.

Việc áp dụng quy trình NGS đã xây dựng cho phép thu nhận và phân loại các biến thể trên 280 bệnh nhân DCM. Dữ liệu phân loại các biến thể của 280 bệnh nhân theo 5 loại: gây bệnh (pathogenic), có thể gây bệnh (likely pathogenic), chưa rõ chức năng (variant of uncertain significance, VUS), có thể lành tính (likely benign), và lành tính (benign). Cơ sở dữ liệu các biến thể trên 57 gene của 280 bệnh nhân có thể truy cập tại địa chỉ http://ktdcm.vnbiology.com. Có 5 biến thể gây bệnh ở 4 bệnh nhân DCM đã từng được báo cáo ở các bệnh cơ tim khác, bao gồm cả một công trình về bệnh lý DCM ở Việt Nam.

tim2

Giao diện trang web tra cứu cơ sở dữ liệu các biến thể

Dữ liệu thu nhận trên 280 bệnh nhân DCM đã cung cấp những số liệu bước đầu về tần suất DCM di truyền ở những bệnh nhân được chẩn đoán DCM vô căn, cũng như tần suất các biến thể, nhất là biến thể gây bệnh ở bệnh nhân Việt Nam. Khi kỹ thuật nghiên cứu được mở rộng số lượng bệnh nhân DCM, thì cơ sở dữ liệu về DCM nói riêng và bệnh tim mạch nói chung sẽ ngày càng nhiều, từ đó sẽ hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng các chính sách chăm sóc bệnh nhân và thân nhân, giảm chi phí theo dõi và điều trị cho người bệnh.

tim3

Minh họa phác đồ tầm soát một bệnh nhân có gene di truyền mắc chứng bệnh cơ tim giãn nở.

Một ý nghĩa không kém phần quan trọng khác, đó chính là về giá thực hiện xét nghiệm di truyền. Thực tế, dịch vụ xét nghiệm di truyền cho các bệnh tim mạch như DCM không phải là chưa có. Tuy nhiên, do chi phí cao (khoảng 900-2.200 USD/lần), thực hiện ở nước ngoài, nên rất ít người có điều kiện thực hiện xét nghiệm.

Theo nhận định của PGS.TS. Hồ Huỳnh Thùy Dương, kỹ thuật tiến hành trong nhiệm vụ có thể được triển khai đại trà ở các cơ sở xét nghiệm di truyền, với chi phí thấp hơn rất nhiều lần, lại đảm bảo loại trừ trường hợp thất lạc hoặc bị hỏng mẫu khi gửi ra nước ngoài. "Do đó, đây là cơ sở để tiến hành đầu tư dịch vụ xét nghiệm ở Việt Nam, mở rộng tầm soát ở thân nhân người bệnh ngay trong nước", TS. Hồ Huỳnh Thùy Dương thông tin thêm.

Thêm một thành quả khác từ nhiệm vụ, là hai bộ tài liệu thông tin về DCM (1 dành cho bác sĩ, 1 dành cho bệnh nhân) cùng một bộ tài liệu tư vấn cho bệnh nhân trước, và sau xét nghiệm. Các tài liệu này được biên soạn dựa trên tài liệu chính thức của các tổ chức tim mạch thế giới có uy tín như ACCF (The American College of Cardiology Foundation), AHA (The American Heart Association), ESC (The European Society of Cardiology) và các tài liệu của các phòng xét nghiệm di truyền có uy tín trên thế giới.

tim4

Các bộ tài liệu về xét nghiệm di truyền bệnh cơ tim giãn nở

Có thể khẳng định rằng, cả 3 bộ tài liệu nêu trên đã góp phần hỗ trợ cho hoạt động tư vấn trước và sau xét nghiệm nhằm cung cấp đầy đủ thông tin giúp người bệnh đưa ra quyết định về việc thực hiện xét nghiệm, giúp người bệnh hiểu kết quả và tránh các trạng thái tâm lý tiêu cực, hướng dẫn người bệnh thực hiện các hành động tiếp theo để tận dụng được tối đa lợi ích của xét nghiệm di truyền. Ngoài ra, tư vấn sau xét nghiệm đối với bệnh nhân có mang biến thể gây bệnh/có thể gây bệnh còn giúp sàng lọc thân nhân, nếu thân nhân đồng ý, để có biện pháp phòng ngừa và can thiệp sớm.

Căn cứ Công văn số 1175/BCĐ3004 ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Ban Chỉ đạo 3004 - Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc triển khai Cuộc thi tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng trên địa bàn Thành phố.

Thực hiện Quyết định số 450/QĐ-TTCP ngày 20 tháng 8 năm 2021 của Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành Kế hoạch tổ chức Cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Ngày 23 tháng 8 năm 2021, Thanh tra Chính phủ ban hành Văn bản số 1464/TTCP-PC về triển khai Cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Theo đó, việc tổ chức Cuộc thi nhằm phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thúc đẩy sự quan tâm, phối hợp của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tạo sức lan tỏa, hình thành ý thức tự giác thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Để cuộc thi được triển khai hiệu quả, đáp ứng các mục tiêu, chất lượng và thời gian đề ra, Sở Khoa học và Công nghệ đề nghị các phòng chức năng và đơn vị trực thuộc Sở tích cực triển khai, tuyên truyền, phổ biến Cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng” đến tất cả công chức, viên chức và người lao động; mỗi phòng và đơn vị thực hiện ít nhất 01 bài dự thi.

Các phòng và đơn vị gửi bài dự thi về Sở Khoa học và Công nghệ (qua Thanh tra Sở) chậm nhất vào ngày 04 tháng 10 năm 2021

Đây đều là những dự án đổi mới sáng tạo hết sức nổi trội, thể hiện tinh thần vì cộng đồng, sẵn sàng chung tay cùng TP.HCM chiến đấu với đại dịch.

Ngày 17/9/2021, Hội đồng chuyên gia Chương trình “Tìm kiếm và kết nối các giải pháp đổi mới sáng tạo ứng phó dịch COVID-19 tại TP. HCM năm 2021” (HIS-COVID 2021) đã thẩm định, phản biện để chọn ra Top 10 giải pháp sáng tạo, công nghệ.

Theo Ban tổ chức, 10 dự án được vinh danh trong danh sách Top 10 HIS-COVID 2021 bao gồm:

  • Dự án 1: WeShare.asia. Tác giả: Trần Như Trí
  • Dự án 2: Giải pháp quản lý đô thị CyHome. Tác giả: Phạm Hùng Phong      
  • Dự án 3: Sàng lọc vi khuẩn đường ruột kháng kháng sinh carbapenem. Tác giả: Trần Chí Thành
  • Dự án 4: Bản đồ Covidmaps hỗ trợ phòng chống dịch bệnh COVID-19. Tác giả: Lê Yên Thanh
  • Dự án 5: COVIDPASS.VN - Chứng nhận số xét nghiệm COVID-19 trên nền tảng công nghệ Blockchain. Tác giả: Đỗ Văn Long          
  • Dự án 6: Công nghệ nano và tinh chế hoạt chất từ dược liệu ứng dụng trong các sản phẩm phòng chống SARS-COV-2. Tác giả: Lưu Xuân Cường           
  • Dự án 7: Ứng dụng phác đồ Đông y xử trí sớm Covid-19. Tác giả: Lê Minh Luật
  • Dự án 8: Tủ sát khuẩn tự động đa năng PPS - TSK01. Tác giả: Nguyễn Văn Hải
  • Dự án 9: Giải pháp kiểm soát covid qua nước thải bảo vệ vùng xanh, nhà máy sản xuất sử dụng hố ga Thuận Thiên và dụng cụ xét nghiệm cầm tay. Tác giả: Phan Minh Trí
  • Dự án 10: T-Check: Thiết bị khai báo y tế và kiểm soát ra vào. Tác giả: Hoàng Minh Thắng

Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM sẽ hỗ trợ, kết nối sâu Top 10 HIS-COVID 2021 với các Sở, Ban ngành của Thành phố để triển khai ngay các giải pháp vào thực tế công tác phòng, chống dịch bám sát phương châm lấy “công nghệ là pháo đài”, phối hợp chặt chẽ với hai mũi nhọn chiến lược: phủ vaccine toàn thành phố và thực hiện nghiêm 5K, TP. HCM sẽ sớm đẩy lùi được dịch bệnh.

top10 hiscovid

Tất cả dự án đổi mới sáng tạo của startup tham dự vòng Chung kết nếu có nhu cầu sẽ được tạo điều kiện đăng ký tham Chương trình Speedup của Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM với kinh phí hỗ trợ lên đến 2 tỷ đồng. Riêng những doanh nghiệp có giải pháp xuất sắc sẽ được ưu tiên xem xét để được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Chương trình “Tìm kiếm và kết nối giải pháp đổi mới sáng tạo ứng phó dịch COVID-19 tại TP.HCM năm 2021 - HCMC Innovative Solution - COVID 2021 (HIS-COVID 2021) được Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM khởi xướng và tổ chức, triển khai thực hiện bởi Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp (BSSC) – là đơn vị uy tín hàng đầu trong lĩnh vực hỗ trợ khởi nghiệp trên cả nước với nhiều hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp chuyên sâu với mong muốn trở thành nơi giao thoa và chuyển giao mọi kinh nghiệm, kiến thức và nguồn lực hữu ích từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài phạm quy quốc gia để tạo nền tảng bền vững cho quá trình khởi nghiệp của Startup Việt Nam. Chương trình đã nhận được 99 dự án tham gia, thể hiện tinh thần vì cộng đồng, sẵn sàng chung tay cùng TP.HCM chiến đấu với đại dịch.

HIS-COVID 2021 tìm kiếm các giải pháp đổi mới sáng tạo hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tại TP.HCM ứng phó dịch bệnh COVID-19 năm 2021, từ đó truyền thông và giới thiệu các giải pháp đổi mới sáng tạo đã có sản phẩm hoàn thiện và sẵn sàng chuyển giao cho Chính quyền Thành phố, Sở ban ngành và các hiệp hội doanh nghiệp của TP.HCM, góp phần giúp thành phố ứng phó với dịch COVID-19. Đồng thời, hỗ trợ hình thành và phát triển nền tảng dữ liệu về các công nghệ và giải pháp đổi mới sáng tạo hỗ trợ ứng phó đại dịch COVID-19 của cộng đồng doanh nghiệp đóng góp cho TP.HCM.

Xem thông tin chi tiết về các giải pháp HIS-COVID 2021 tại: https://his.doimoisangtao.vn.

Hoàng Kim (CESTI)

Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 sắp diễn ra bằng hình thức trực tuyến. Việc tổ chức triển lãm trực tuyến trở thành một xu hướng tất yếu nhằm thích ứng với giai đoạn giãn cách xã hội do tác động của dịch bệnh Covid-19.

Techmart Công nghệ sau thu hoạch trực tuyến năm 2021 gồm 3 hoạt động chính: trưng bày, giới thiệu công nghệ và thiết bị (CN&TB); hội thảo trình diễn công nghệ và tư vấn chuyên gia về công nghệ. Dự kiến Techmart sẽ được tổ chức trong tháng 10/2021. Sự kiện thu hút sự tham gia của 50 đơn vị đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ và các nhóm khởi nghiệp tại TP.HCM trưng bày, giới thiệu hơn 150 CN&TB trong và ngoài nước sẵn sàng cung cấp chuyển giao.

Đây là sự kiện thường niên do Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ (CESTI) tổ chức nhằm hỗ trợ đưa sản phẩm từ các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ ra thị trường phục nhu cầu ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Techmart còn là cơ hội để các doanh nghiệp khởi nghiệp tìm kiếm đối tác đầu tư, hợp tác để phát triển sản phẩm, ý tưởng sáng tạo và phát triển kinh doanh. Bên cạnh đó, Techmart có vai trò thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ TP.HCM, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ KH&CN, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.

Năm 2020, Techmart đã thu hút hơn 100 công nghệ của 50 đơn vị, doanh nghiệp; tiếp đón hơn 500 lượt khách đến tham quan sự kiện, trong đó có 109 lượt giao dịch trực tiếp tại gian hàng. Tại sự kiện, 8 chuyên gia tư vấn chuyên sâu về công nghệ sau thu hoạch đã tư vấn 48 lượt cho các tổ chức và cá nhân; 205 yêu cầu tư vấn công nghệ và thiết bị đã được kết nối trực tiếp.

tmsauthuhoach

Hình ảnh tại Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2020.

Với hoạt động trưng bày, giới thiệu CN&TB trực tuyến, Techmart Công nghệ sau thu hoạch 2021 sẽ tập trung giới thiệu các công nghệ bảo quản và chế biến nông sản sau thu hoạch, tạo ra thực phẩm có chất lượng, giá trị dinh dưỡng cao, không tồn dư các hóa chất độc hại và an toàn cho người sử dụng. Một số công nghệ nổi bật có thể kể đến như: Giải pháp chuyển đổi số ứng dụng trong công nghệ sau thu hoạch (hệ thống giám sát nhiệt độ độ ẩm kho lạnh qua smartphone); Nền tảng IoT platform giám sát và đồng bộ dữ liệu hoạt động sản xuất nông nghiệp trên đám mây (Cloud); Giải pháp quản lý hệ thống sản xuất, phân phối và truy xuất nguồn gốc sản phẩm;…

Các CN&TB bảo quản nông sản, thực phẩm như: công nghệ bảo quản thực phẩm đông lạnh CAS (Cells Alive System); công nghệ bảo quản thực phẩm sử dụng nano bạc, bao bì đa lớp, màng sinh học; công nghệ sơ chế và ức chế quá trình chín nhanh bằng túi hút khí ethylene; giải pháp kiểm soát không khí và giám sát hành trình trong quá trình vận chuyển; các loại máy hút ẩm, thiết bị hấp thụ khí, thiết bị tiệt trùng,…

CN&TB chế biến nông sản, thực phẩm: công nghệ, thiết bị sản xuất collagen bằng phương pháp HPP (High Pressure Processing); công nghệ sản xuất các loại tinh dầu; công nghệ sản xuất thực phẩm đóng hộp, thực phẩm chế biến; công nghệ và thiết bị phòng sạch nuối cấy đông trùng hạ thảo; máy tách tạp chất; hệ thống máy rửa, phân cỡ, cắt gọt rau củ quả; các loại máy sấy nhiệt, sấy lạnh, sấy thăng hoa, sấy năng lượng mặt trời; máy chiên chân không; máy định lượng, trộn, nghiền bột; máy chiết xuất và thu hồi cồn; máy tách hạt thanh long;…

CN&TB kiểm tra chất lượng nông sản, thực phẩm: hệ thống cân kiểm tra và loại bỏ sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn; máy phân tích độc tố nấm, dư lượng thuốc trừ sâu, chất kháng sinh và chỉ số nhiễm vi sinh vật trong thực phẩm; máy quang phổ cận hồng ngoại phân tích độ ẩm, chất đạm, chất béo; các thiết bị phân tích mẫu thực phẩm trong phòng thí nghiệm;…

Ngoài ra còn có các CN&TB đóng gói, các dịch vụ hỗ trợ (dịch vụ tư vấn đăng ký, bảo hộ sở hữu trí tuệ, tư vấn thành lập doanh nghiệp, dịch vụ kiểm nghiệm chất dinh dưỡng và độc tố trong thực phẩm,…).

Hoạt động hội thảo trình diễn công nghệ trực tuyến tại Techmart 2021 gồm 14 chuyên đề hội thảo. Cụ thể như: Ứng dung một số quy trình và công nghệ trong làm sạch, xử lý và bảo quản để đảm bảo chất lượng và kéo dài thời gian tiêu thụ cho các loại trái cây ở các tỉnh phía Nam; Giải pháp số hóa quy trình quản lý, truy xuất nguồn gốc nông sản – cơ hội đổi mới phương thức kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm; Ứng dụng công nghệ mã vạch RFID trong quản lý chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn nông sản sau thu hoạch; Công nghệ chiết xuất màu tự nhiên từ hoa đậu biếc, củ dền, lá dứa, nghệ… ứng dụng làm màu tự nhiên trong chế biến thực phẩm; Giải pháp xử lý nông sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ để sản xuất thực phẩm oranic phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; Công nghệ sấy phun tạo hạt vi nang chứa hoạt chất sinh học và lợi khuẩn ứng dụng trong sản xuất thực phẩm; Thiết bị sấy bằng năng lượng mặt trời và các ứng dụng trong chế biến nông sản sau thu hoạch;…

Hoạt động tư vấn chuyên gia về công nghệ trực tuyến của Techmart được tổ chức nhằm thúc đẩy quá trình kết nối, giao dịch giữa nhà cung cấp công nghệ và khách hàng. Đội ngũ 8 chuyên gia của Techmart bên cạnh khả năng tư vấn về công nghệ sẽ tư vấn miễn phí về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và giúp khách hàng giải đáp những vướng mắc trong quá trình tìm hiểu, mua bán, chuyển giao các công nghệ thuộc lĩnh vực bảo quản và chế biến nông sản sau thu hoạch. Đến nay có hàng chục đơn vị/cá nhân đã gửi yêu cầu tư vấn về cho Ban tổ chức và được xếp lịch tư vấn trực tiếp ngay tại sự kiện. Các đơn vị/cá nhân có nhu cầu tư vấn có thể tiếp tục đăng ký trực tiếp với Ban tổ chức tại triển lãm Techmart.

Thông tin chi tiết về Techmart Công nghệ sau thu hoạch vui lòng liên hệ tại:

Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN (CESTI)

Phòng Giao dịch công nghệ

Địa chỉ: 79 Trương Định, Phường Bến Thành, Quận 1, TP. HCM

Điện thoại: (028) 3521 0735 – 3822 1635

Fax: (028) 3829 1957.

Email: duykhanh@cesti.gov.vn

Mobile: 079 652 3381 (gặp anh Khanh).

Lam Vân (CESTI)

Các sản phẩm - dự án được lập trình thông qua ứng dụng Scratch, dựa trên ý tưởng sáng tạo của thí sinh, để tuyên truyền về chủ đề phòng chống Covid-19.
Ngày 19/9/2021, 20 thí sinh ở cấp Tiểu học và THCS đã tham dự vòng Chung kết cuộc thi lập trình sáng tạo “Việt Nam Quyết thắng Đại dịch Covid-19” theo hình thức trực tuyến. Các thí sinh đã thuyết trình về sản phẩm - dự án mà mình đã thực hiện và trả lời vấn đáp trực tiếp với Ban giám khảo.

210919hk2.jpg

Đại diện Ban tổ chức - ông Võ Hưng Sơn (Trưởng phòng Quản lý khoa học và công nghệ cơ sở - Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết: "Ban tổ chức đánh giá rất cao mức độ hoàn thiện của các dự án lập trình ở cuộc thi năm nay. Sản phẩm của các em không chỉ hướng đến yếu tố thẩm mỹ và trải nghiệm của người sử dụng, chứng tỏ được năng lực sáng tạo qua quá trình học STEM, mà còn truyền đạt những thông điệp ý nghĩa về phòng chống dịch Covid-19”.

Kết quả chung cuộc, Ban tổ chức đã chấm giải ở 2 bảng thi như sau:

Bảng A:

210919hka1.jpg

Giải Nhất: Đặng Khang Minh (trường Tiểu học An Phong, Q.8)

210919hka2.jpg

Giải Nhì: Trần Vũ Quốc Huy (trường Tiểu học Nguyễn Thị Định, Q.12)

210919hka3.jpg

Giải Ba: Đoàn Minh Khôi (trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm, Q.4)

Bảng B:

210919hkb1.jpg

Giải Nhất: Nguyễn Ngọc Hà (trường THCS Hai Bà Trưng, Q.3)

210920hkb2.jpg

Giải Nhì: Nguyễn Lê Đăng Khoa - Trường THCS Nam Sài Gòn, Q.7

210919hkb31.jpg

210919hkb32.jpg

Đồng giải Ba: Vũ Đức Duy (trường THCS Nguyễn Văn Tố, Q.10) và Ngô Trần Nam Khánh (Trường PTLC Newton, Hà Nội)

“Việt Nam quyết thắng đại dịch Covid-19” là cuộc thi lập trình sáng tạo do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng KDI Education phát động. Cuộc thi đã thu hút gần 400 thí sinh tham dự Bảng A (Tiểu học) và Bảng B (THCS). Đây là sân chơi đổi mới sáng tạo ý nghĩa dành cho học sinh, nâng cao tinh thần phòng chống dịch bệnh Covid-19, đồng thời rèn luyện các kiến thức và kỹ năng liên quan đến lập trình.

Cuộc thi khép lại với những ý tưởng sáng tạo độc đáo được tôn vinh và những tài năng lập trình “nhí” được phát hiện. Hy vọng với những suất học bổng sau cuộc thi, các em sẽ tiếp tục nuôi dưỡng đam mê và tiếp tục gặt hái nhiều thành tựu hơn trong tương lai.

Hoàng Kim (CESTI)

Giống dê lai Saanen - Bách Thảo với năng suất sữa cao, ổn định, cùng khả năng sinh trưởng phù hợp với điều kiện nuôi và khí hậu vùng ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh được kỳ vọng giúp nhiều hộ nông dân cũng như hợp tác xã nông nghiệp mở rộng sản xuất, góp phần phát triển kinh tế.

Thực tế cho thấy, so với các tỉnh và thành phố khác thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện có nhu cầu tiêu thụ sữa dê làm thực phẩm hằng ngày rất lớn do sữa dê mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Trong khi đó nguồn cung ứng luôn trong tình trạng khan hiếm vì Thành phố có số lượng đàn dê nuôi lấy sữa hiện ở mức rất ít.

Qua khảo sát, các nông hộ ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nuôi các giống dê lai cho sản lượng sữa rất thấp khoảng 1,4 kg/con/ngày, tương ứng tổng sản lượng sữa 287 kg/chu kỳ. Tuy nhiên, các hộ nuôi về cơ bản không rõ về nguồn gốc của dê là đã lai như thế nào? Có bao nhiêu máu từ giống dê sữa thuần, nên rất khó trong việc đánh giá tiềm năng về năng suất sữa. Trong khi đó, các huyện ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh như Hóc Môn, Cần Giờ, Củ Chi có nhiều nguồn phụ phẩm thải ra từ quá trình chế biến nông nghiệp như hèm bia, bã mì, bã dầu dừa, bã đậu nành,… và tất cả hoàn toàn đáp ứng tốt nhu cầu làm thức ăn cho dê, giúp giảm đáng kể chi phí sản xuất, và đồng thời góp phần bảo vệ môi trường.hực tế cho thấy, so với các tỉnh và thành phố khác thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện có nhu cầu tiêu thụ sữa dê làm thực phẩm hằng ngày rất lớn do sữa dê mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Trong khi đó nguồn cung ứng luôn trong tình trạng khan hiếm vì Thành phố có số lượng đàn dê nuôi lấy sữa hiện ở mức rất ít.

Từ đó đã thôi thúc TS. Lê Thụy Bình Phương cùng nhóm cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ (Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh) tiến hành lai tạo đàn dê sữa lai F1 từ con đực Saanen và con cái Bách Thảo với sự hỗ trợ từ Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

Theo đó, ban đầu nhóm nghiên cứu tạo đàn từ 62 con (với 2 con đực giống thuần Saanen và 30 con cái thuần Saanen, 30 con cái Bách Thảo), kết quả đã thu 168 con các loại; và sau đó chuyển giao chuyển giao kỹ thuật nuôi và giống dê lai F1 lứa 1 cho 6 nông hộ nuôi thí điểm tại huyện Bình Chánh (4 hộ) và huyện Cần Giờ (2 hộ). Mỗi hộ nhận 1 con đực F1 và 10 con cái F1, và được Trung tâm trực tiếp hướng dẫn cách nuôi, tạo đàn bằng các phương thức kỹ thuật, khẩu phần ăn đã được hoàn thiện trước đó. Tính đến nay, tổng số đàn dê lai F1 Saanen - Bách Thảo đã đạt tổng cộng 250 con cả đực và cái.

delai

Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo có chiếc tai cụp dài đặc trưng được di truyền từ dê mẹ Bách Thảo

Năng suất sữa vượt trội

Năng suất sữa ở nhóm dê lai F1 lứa 1 sinh trưởng trong mùa khô đã thể hiện mức cải tiến di truyền so với nhóm dê Bách Thảo thuần khi đạt trung bình sản lượng sữa ở mức 2 kg/con/ngày so với mức 1,2 kg/con/ngày của Bách Thảo thuần. Số ngày cho sữa cũng cao hơn, ở mức 189 ngày so với 149 ngày. Tổng sản lượng sữa ở nhóm dê lai F1 là 382 kg/chu kỳ, cao hơn nhóm dê Bách thảo thuần là 177kg/chu kỳ, nhưng thấp hơn nhóm dê Saanen thuần là 453 kg/chu kỳ.

Giống

Saanen (n=20)

Bách Thảo (n=20)

F1 (n=20)

Năng suất sữa, kg/con/ngày

Lứa 1

2,2 ± 0,09

1,19 ± 0,13

2,00 ± 0,05

Lứa 2

1,98 ± 0,09

1,21 ± 0,13

2,1 ± 0,11

Số ngày cho sữa, ngày

Lứa 1

209 ± 5,23

149 ± 5,78

189 ± 3,30

Lứa 2

191 ± 2.92

149 ± 5,75

209 ± 2.00

Tổng sản lượng sữa, kg

Lứa 1

453 ± 24,8

177 ± 20,7

382 ± 12,0

Lứa 2

378 ± 21,2

179 ± 19,5

430 ± 20,5

Năng suất sữa của dê lai F1 (Saanen - Bách Thảo) đạt mức cao và ổn định, được đánh giá là lựa chọn hợp lý cho phát triển sản xuất ở khu vực ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh.

Tỷ lệ nuôi sống dê lai F1 tại mô hình của nông hộ đạt 100% ở giai đoạn 3 đến 7,5 tháng tuổi. Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo lứa 1 nuôi tại nông hộ cho năng suất sữa trung bình đạt 2,15 kg/con/ngày, số ngày cho sữa là 191 ngày, tổng sản lượng sữa đạt đến 396 kg/chu kỳ. Hai chỉ tiêu này tốt hơn kết quả ghi nhận được đối với cùng lứa nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh.

Quận/huyện

Bình Chánh (n=29)

Cần Giờ (n=16)

Trung bình chung

Năng suất sữa, kg/con/ngày

2,25 ± 0,31

2,05 ± 0.24

2,15 ± 0,26

Số ngày cho sữa, ngày

190 ± 8,67

191±10

191 ± 9,69

Sản lượng sữa/chu kỳ, kg

400 ± 61,9

391 ± 49

396 ± 53.8

Năng suất sữa gần như không khác biệt ở Bình Chánh và Cần Giờ

Trước đó, chu kỳ cho sữa ở lứa 2 trong mùa mưa nuôi tại Trung tâm, theo ghi nhận, giống Bách Thảo thuần chỉ giảm nhẹ về năng suất sữa so với mùa khô, thì giống dê lai F1 vẫn duy trì năng suất sữa tốt, đạt trung bình là 2,1 kg/con/ngày, số ngày cho sữa là 209 ngày. Trong lúc đó, giống Saanen thuần thì giảm, chỉ đạt trung bình là 1,98 kg/con/ngày và số ngày cho sữa là 191 ngày. Tổng sản lượng sữa ở nhóm dê lai F1 tăng lên 430 kg/chu kỳ, còn nhóm dê Saanen thuần lại giảm còn 378 kg/chu kỳ.

Ngoài ra, một số chỉ tiêu khác của dê nuôi lấy sữa giống lai F1 Saanen – Bách thảo cũng cho thấy ở mức cao, ổn định qua các giai đoạn nuôi và thu hoạch.

Chỉ tiêu đo lường

Tháng 1

Tháng 3

Tháng 7

Bình Chánh

Cần Giờ

Bình Chánh

Cần Giờ

Bình Chánh

Cần Giờ

Vật chất khô, %

14,8

14,2

11,3

11,5

15

14,8

Chất béo, g/kg

40

38,7

30

32

40

40

Protein, g/kg

38

39

30

32

38

39

Các chỉ tiêu về dinh dưỡng của sữa thu từ dê lai F1 Saanen - Bách Thảo

Mô hình cần nhân rộng cho Thành phố Hồ Chí Minh

Theo nhóm nghiên cứu, thời tiết ẩm ướt là không thích hợp và có ảnh hưởng ít nhiều đến năng suất cho sữa của dê. Cụ thể, nhóm dê Saanen thuần gặp vấn đề về sức khỏe như ho, sổ mũi, đau mắt… nhiều hơn so với Bách Thảo thuần và dê lai F1. Điều này cho thấy dê lai F1 có thể đã nhận được những ưu thế di truyền từ mẹ (Bách Thảo thuần) để thích nghi với những điều kiện thời tiết tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, nói chính xác là các huyện ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh.

delai1

Đại diện Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, ĐH Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra dê nuôi trong điều kiện chuồng mái lá tại huyện Cần Giờ

Đáng chú ý, dê lai F1 lấy sữa được nuôi tập trung theo phương thức bán thâm canh trong thời gian 10 ngày đầu, chăn thả từ 4 - 6 giờ/ngày. Sau khi thích nghi, dê sẽ được nuôi nhốt hoàn toàn. Và hơn thế, dê được cho ăn theo khẩu phần được phối trộn hoàn chỉnh cũng là một trong những kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học được TS. Lê Thụy Bình Phương và các cộng sự hoàn thành hồi cuối tháng 8/2021 vừa qua.

Về khẩu phần ăn, hiện nay chăn nuôi dê tại nông hộ, người nông dân vẫn chưa biết tận dụng phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp để phối hợp vào khẩu phần, họ chủ yếu sử dụng các loại cây cỏ để cung cấp chất xơ. Việc tận dụng các phụ phẩm như bã bia, bã mì, bánh dầu nành là rất hữu ích cho khẩu phần phối trộn hoàn chỉnh và rất hiệu quả vì thành phần chất xơ và đạm thô của phụ phẩm hoàn toàn thỏa mãn cho chu cầu nuôi dê sữa, bên cạnh đó còn tận dụng được nguồn phụ phẩm khác sẵn có trong chăn nuôi dê sữa lai để giảm diện tích trồng cỏ.

Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất khẩu phần trộn hỗn hợp, bổ sung bã mì khô như nguồn cung năng lượng, than sinh hoạt tính như là môi trường đệm nhằm giúp thúc đẩy sự hình thành cấu trúc cộng sinh có lợi của các vi sinh vật lên men ở dạ cỏ. Những tiến bộ kỹ thuật này sẽ được chuyển giao công nghệ cho nông dân trong thời gian tới.

Chưa dừng lại ở đó, trong quá trình nuôi thí điểm ở huyện Bình Chánh và Cần Giờ, nhóm nghiên cứu đã đồng hành cùng các hộ dân trong cải tạo chuồng nuôi, hướng dẫn quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng dê sữa lai F1, hỗ trợ vật tư và thuốc thú y.

delai2

Dê lai F1 Saanen - Bách Thảo sinh trường tốt, không bệnh, cho sữa ổn định

Theo TS. Lê Thụy Bình Phương, để tiếp nhận mô hình chăn nuôi dê sữa, nông hộ nên xây dựng chuồng sàn với khoảng cách giữa các thanh sàn là 1,5 cm, phân ô chuồng cho các giai đoạn tuổi khác nhau của dê (hậu bị, mang thai, tiết sữa, đực giống...). Ngoài ra nông hộ nên làm mái che cao hoặc thiết kế quạt hút ở 2 đầu dãy chuồng để tăng độ thông thoáng.

Trong quá trình hỗ trợ các nông hộ triển khai mô hình, ngoài việc hướng dẫn kỹ thuật cần cho việc đảm bảo nguồn thức ăn, nước uống và vệ sinh chuồng như tạo nền dốc tốt để thoát phân và nước tiểu vào hầm xử lý biogas phía sau chuồng nuôi; nhóm nghiên cứu còn hướng dẫn và hổ trợ các kỹ thuật về thú y như lịch chủng ngừa, chăm sóc và điều trị một số bệnh trên đàn dê. Kết quả là nhóm nghiên cứu đã không ghi nhận được vấn đề nào về các bệnh xãy ra tại các mô hình nuôi thử nghiệm này.

Hiệu quả kinh tế cao

Nhóm nghiên cứu cho biết, lợi nhuận từ sữa khi nuôi dê lai F1 cao hơn nhiều so với nuôi dê thuần ở cả hai giống Saanen và Bách Thảo. Qua thống kê với đàn F1 ở 6 nông hộ tham gia trong quá trình triển khai thực tế mô hình, tính trên quy mô đàn 10 con, lợi nhuận từ sữa trong năm đầu tiên ở nhóm dê lai F1 Saanen - Bách Thảo là 82,6 triệu đồng, trong khi đó với dê Saanen thuần chỉ ở mức 58,4 triệu đồng.

Có thể khẳng định rằng, chăn nuôi dê lấy sữa rất thích hợp cho các nông hộ mong muốn chuyển đổi hướng sản xuất vì chi phí đầu tư và đòi hỏi diện tích nuôi nhỏ hơn so với bò sữa. Việc xây dựng khẩu phần cho dê nuôi lấy sữa theo hướng tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp là rất thích hợp với mục tiêu kế hoạch chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững, bảo vệ sinh thái môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, mô hình cho thấy thực tế cần đẩy mạnh phát triển phương thức nuôi nhốt để phù hợp với diện tích ngày càng bị thu hẹp ở Thành phố Hồ Chí Minh.

TS Lê Thụy Bình Phương cũng thông tin thêm, trong quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã tổ chức 1 lớp đào tạo trong 6 ngày, nhằm chuyển giao các kỹ thuật chăn nuôi dê sữa cho 20 kỹ thuật viên tại Chi cục Chăn nuôi và Thú y (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM) để duy trì sự hỗ trợ kỹ thuật cho các nông hộ, có thể giải quyết những vấn đề mà nông hộ gặp trong phải trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, nhóm thực hiện đề tài cũng đã tổ chức 6 lớp đào tạo cho 180 người dân chăn nuôi dê tham gia tập huấn kết hợp tham quan mô hình triển khai thực tế về các nội dung lai tạo con giống, chăm sóc và nuôi dưỡng, nguyên nhân gây bệnh, biện pháp phòng trị bệnh. 

delai3

Hội thảo tập huấn kỹ thuật chăn nuôi dê cho cán bộ Chi cục Thú y và Chăn nuôi TPHCM.

Có thể khẳng định rằng, việc duy trì mô hình chăn nuôi dê sữa điển hình, mà cụ thể là dòng lai F1 giữa Saanen và Bách Thảo sẽ tạo điều kiện phát triển và mở rộng quy mô chăn nuôi ở Thành phố Hồ Chí Minh, thúc đẩy hình thành vùng chăn nuôi dê sữa phù hợp, đáp ứng đủ nhu cầu sữa dê, tạo sinh kế tốt hơn cho người nông dân từ sản lượng sữa cao. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đã quan tâm và đề xuất nghiên cứu chuyển giao ứng dụng về việc tối ưu hóa sử dụng nguồn thức ăn sẵn có tại chổ của địa phương để phát triển chăn nuôi dê sữa lai bền vững tại nông hộ trong thời gian tới dưới sự chỉ đạo của địa phương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành phố Hồ Chí Minh.

Cây bá bệnh (Eurycoma logifolia Jack) còn được biết với tên gọi khác trong dân gian như cây bách bệnh, mật nhân hay tongkat ali của Malaysia, phổ biến rộng rãi hơn trong khu vực và trên thế giới, được xác định là một loại dược liệu quý dùng trong cải thiện chức năng sinh lý, sinh sản ở nam giới, chữa trị sốt rét, tiểu đường, kháng viêm, giảm stress, tăng cường miễn dịch, phòng loãng xương và ngăn ngừa khối u.

Hiện nay, cá thể cây bá bệnh sinh trưởng tự nhiên là có hạn, mọc chủ yếu ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, và tỉnh Tây Ninh, nhưng phải đối mặt tình trạng khai thác ồ ạt, chủ yếu bằng hình thức đào lấy rễ, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng và khan hiếm nguồn dược liệu.

Nhằm góp phần giải quyết sự cấp thiết về nguồn cung cho loại dược liệu quý này, với sự hỗ trợ từ phía Sở KH&CN TP.HCM, từ tháng giữa năm 2019, Viện Sinh học Nhiệt đới đã bắt đầu triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu nhân sinh khối rễ tơ cây bá bệnh (Eurycoma Longifolia) bằng lò phản ứng sinh học (bioreactor) hướng đến sản xuất quy mô lớn”.

Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu quy trình tạo được rễ tơ cây bá bệnh trong phòng thí nghiệm, từ đó xây dựng công nghệ nhân sinh khối rễ trong hệ thống nuôi cấy bioreactor 20 lít, giúp hỗ trợ chuyển giao công nghệ để đi đến sản xuất quy mô lớn, phục vụ cho nghiên cứu và tiêu dùng. Từ rễ tơ thu được, một nhiệm vụ khác cũng được đặt ra cho nhóm nghiên cứu là thực hiện chiết xuất cao thành phẩm.

Đến tháng 5/2021, nhóm nghiên cứu đã thành công trong việc khảo sát các điều kiện chuyển gen thích hợp từ cây in vitro và tạo, chọn được 2 dòng rễ tơ tăng trưởng tốt, tích lũy hàm lượng hoạt chất eurycomanone tương đương với rễ tự nhiên. Từ đó cũng đã nghiên cứu xác lập được quy trình nuôi nhân rễ tơ thu sinh khối trong bioreactor 20 lít, thực hiện chiết cao từ rễ tơ thành phẩm, ghi nhận những kết quả tích cực cho lĩnh vực sản xuất dược liệu.

Nhân giống trong môi trường phòng thí nghiệm

Báo cáo tại buổi nghiệm thu đề tài, TS. Phan Tường Lộc cho biết, vật liệu rễ tơ bá bệnh có tốc độ sinh trưởng nhanh, liên tục sản sinh ra hoạt chất ở mức cao, đồng thời thích hợp nuôi cấy tùy chọn.

recay

Rễ tơ nuôi trong hệ thống nuôi Bioreactor 20 lít.

Thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu sử dụng hạt từ cây bá bệnh 6 năm tuổi có nguồn gốc từ Vườn quốc gia Bái Tử Long được trồng trong nhà màng tại Viện Sinh học nhiệt đới, chủng vi khuẩn Agrobacterium rhizogens 43057 (ATCC), Eurycomanone tinh khiết 95% dùng cho HPLC (ASB-00005393-005) và các môi trường nuôi thực vật (MS, 1/2 MS, SH, WP).

Cụ thể, hạt cây bá bệnh được làm sạch, khử trùng bằng dung dịch cồn 70%, sau đó vô trùng bằng dung dịch Javel (6% NaClO) trong vòng 20 phút, đảm bảo cho 100% hạt sạch nhiễm nấm, khuẩn và 80,3% nảy mầm. Phần phôi hạt sau đó được bóc tách và cấy trên môi trường MS được bổ sung 0,5 mg/l GA3 để tạo cây in vitro, sau 35-42 ngày sẽ thu các lá chét làm vật liệu thì nghiệm.

Đối với A. rhizogenes, dịch vi khuẩn này được nuôi trong 50 ml môi trường NB lỏng trong thời gian 42-48 giờ. Sau đó ly tâm thu sinh khối, rồi hòa lại trong môi trường ½ MS, bổ sung thêm acetosyringone và tiếp tục nuôi ở điều kiện như trên khoảng 30 phút trước khi thực hiện gây nhiễm mô lá.

Trong khi đó, các lá chét được cắt thẳng góc với gân chính bỏ phần đầu lá và cuống lá khoảng 1mm, ngâm trong dung dịch vi khuẩn đã chuẩn bị trong 20 phút, sau đó được thấm khô dịch và cấy lên môi trường 1/2 MS bổ sung acetosyringone cùng nồng độ với dịch vi khuẩn để đồng nuôi cấy.

Quy trình chuyển gen tạo rễ tơ

Theo TS. Phan Tường Lộc, quy trình xử lý cảm ứng tạo rễ tơ với vi khuẩn A. rhizogens trên mẫu lá được tối ưu ở giai đoạn gây nhiễm với nồng độ acetosyringone là 0,1 mM, mật độ vi khuẩn ở OD600 là 0,8, trong thời gian đồng nuôi cấy tốt nhất là 3 ngày trên môi trường ½ MS lỏng với 3% đường sucrose. Sau dó, mẫu được loại bỏ vi khuẩn và nuôi tiếp trên môi trường rắn cùng loại và rễ hình thành trong thời gian từ 10 đến 20 ngày. Sau 35 ngày, các dòng rễ được chọn, tách dòng và tiếp tục đánh giá sự sinh trường trong 30 ngày  tiếp theo và định lượng mức tăng sinh khối trên môi trường SH lỏng với 3% sucrose cũng như kiểm tra sự tích lũy eurycomanone của sinh khối. Hai dòng rễ tơ R1, R2 được chọn có khả năng tăng trưởng tốt nhất, dựa trên chỉ tiêu sinh khối (có độ dài tốt và phân nhánh liên tục) và tích lũy hoạt chất eurycomanone tương đương với cây tự nhiên, khi phân tích bằng sắc ký lỏng áp suất cao (HPLC).

recay1

Sự hình thành rễ tơ trên mẫu lá bá bệnh sau 12 ngày (a) và 28 ngày (b).

Tuy nhiên dòng rễ tơ R2 cho thấy có hiệu quả sản xuất eurycomanone cao nhất, thích hợp để nghiên cứu quy trình phục vụ sản xuất quy mô lớn. Do đó, nhóm nghiên cứu chọn dòng rễ tơ R2 để thực hiện các bước tiếp theo.

Quy trình nuôi rễ tơ trong bioreactor 20 lít

Dòng rễ tơ đủ tiêu chuẩn sẽ được nhân sinh khối làm nguồn mẫu cấy trong điều kiện bình tam giác dung tích 250ml. Cụ thể, mỗi bình tam giác 250ml bao gồm 0,3 gam mẫu, 75ml môi trường SH và được chiếu sáng 12 giờ ở mức 1500 lux trong vòng 21 ngày. Sau thời gian trên, sinh khối rễ sẽ được loại bỏ rễ già hóa nâu, và lựa chọn chính xác 40 gam  để cấy vào hệ thống bioreactor 20 lít được chuẩn bị sẵn.

Môi trường trong bioreactor gồm 10 lít môi trường SH 4% sucrose, chiếu sáng ở cường độ 1500 lux. Quá trình nuôi rễ cây cũng được sục khí 0,2 vvm/2 tuần đầu và 0,4 vvm/2 tuần cuối, kết hợp cảm ứng với MeJA 0,1 mM vào hai ngày cuối của kỳ nuôi 28 ngày. Sau 28 ngày, rễ tơ đã có thể thu hoạch.

TS Phan Tường Lộc cho biết, việc nuôi bioreactor cần được thực hiện và kiểm soát nghiêm ngặt từ đầu để tránh sự nhiễm tạp. Khi bị nhiễm tạp, môi trường sẽ bị đục hoặc xuất hiện các dạng vón cục của nấm thì phải dừng nuôi.

Khi thu hoạch, sinh khối được rửa, loại bỏ hoàn toàn môi trường nuôi bằng nước sạch, rồi mang sấy khô ở nhiệt độ 50-60oC đến khi khối lượng không đổi. Sau đó, rễ được giã nhuyễn, ly trích bằng ngâm dầm trong methanol kết hợp siêu âm ở 50oC (50 ml/lần), ly tâm (5 phút, 5000 vòng/phút) và thu phần dịch ly trích.

Kết quả phân thích mẫu cho thấy, rễ tơ thu hoạch trong bình bioreactor có mức tăng trưởng đạt 42,8 lần.

Bên cạnh đó, chiết cao methanol từ rễ tơ nuôi trong bioreactor 20 lít đạt hiệu suất 30,2%, hàm lượng eurycomanone là 3,37 mg/g. Cao sau khi trích ly có thể chất đặc, cứng, bề mặt mịn, hơi dính, màu nâu đen sẫm, mùi hương đặc trưng của bá bệnh, vị đắng và tan hoàn toàn trong nước.

Bên cạnh đó, các kiểm chứng sinh học độc lập về giới hạn nhiễm kim loại nặng độc, vi sinh vật của cao chiết xuất từ rễ cây bá bệnh cũng ghi nhận đạt tiêu chuẩn trong lĩnh vực thực phẩm, dược liệu và các ngành sản xuất liên quan.

Với thành công từ quy trình nuôi rễ tơ trong hệ thống bioreactor 20 lít, Viện Sinh học nhiệt đới cho biết có thể kết hợp nhiều đơn vị bình 20 lít để bước đầu sản xuất sinh khối cũng như sẽ tiếp tục nghiên cứu cải tiến các giai đoạn sục khí và mở rộng quy mô trên hệ thống nuôi bioreactor 30 lít, đồng thời tiếp tục sử dụng quy trình chuyển gen để tạo ra những dòng rễ có năng lực tốt hơn đối với cây bá bệnh.

Tại hội thảo chuyên đề “Công nghệ phòng chống dịch COVID-19 trong các cơ quan, tổ chức, trường học” do Hội Tin học TPHCM phối hợp với Sở KH&CN TPHCM tổ chức trực tuyến ngày 9/9, nhiều giải pháp công nghệ đã được giới thiệu.

Ông Phan Huỳnh Diễn, Công ty Cổ phần Titkul cho biết, giải pháp TK Smart Vision Edu, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), xử lý hình ảnh gương mặt (FaceID), tổ chức kho dữ liệu (data warehouse), giúp thực hiện các thao tác như báo cáo thống kê, dễ dàng trong công tác quản lý cho nhà trường, cũng như tổ chức và doanh nghiệp. Ngoài ra, giải pháp ứng dụng Internet vạn vật (IoT) giúp các thiết bị được kết nối với nhau thông qua hệ thống một cách chính xác và liên tục nhất.
 
chongdichcongsotruonghoc
Các giải pháp được trình bày tại hội thảo Ảnh: Chụp màn hình
 
TK Smart Vision Edu có 22 chức năng số hóa các nghiệp vụ của nhà trường, hỗ trợ trong công tác vận hành, quản lý đào tạo, giảng dạy như dạy học trực tuyến, hệ thống bài giảng, lịch công tác, thời khóa biểu, điểm danh đo nhiệt độ, quản lý đào tạo, giảng dạy,… Trong đó, TK Smart Kiosk được lắp ở cổng trường, có chức năng như một người máy học với 4 tính năng: nhận diện gương mặt, cảm biến đo nhiệt độ học sinh, rửa tay sát khuẩn tự động, truyền các thông điệp của nhà trường tới phụ huynh, học sinh nhằm nâng cao ý thức phòng tránh dịch. Kiosk chỉ mất 2 giây để nhận diện và đo nhiệt độ một học sinh; và điểm danh nhờ việc nhận diện khuôn mặt và thông tin bao gồm (tên, lớp, thông tin cá nhân). Nếu nhiệt độ cao màn hình sẽ thông báo và báo tới giáo viên, cán bộ y tế tại trường, đồng thời gửi đến phụ huynh.
 
Giải pháp TK Smart Vision Edu đã được kết nối vào trục cơ sở dữ liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM, xác nhận phần mềm đủ điều kiện sử dụng tại trường học. Giải pháp này cũng được Sở KH&CN TPHCM công nhận và tài trợ ngân sách thực hiện mục tiêu số hóa các trường học trên địa bàn Thành phố. Bên cạnh đó, TK Smart Vision Edu đã được một số trường học đã triển khai như Trường Tiểu học Trần Khánh Dư (Q1), Trường THCS Kiến Thiết (Q3), Trường Tiểu học Nguyễn Huệ (Q1), Trường THCS Nguyễn Văn Lương (Q6),…
 
 
Giải pháp SafeID - Chứng nhận an toàn số cho cá nhân với Covid-19 của Công ty Cổ phần Tập đoàn Yeah1. Nhân viên hằng ngày đến làm việc đều phải quẹt mã QR - được đăng nhập bằng thẻ căn cước hoặc số CMTND - để công ty có thể theo dõi toàn bộ thông tin liên quan đến COVID-19 của cán bộ nhân viên. Yeah1 có thể nhận toàn bộ dữ liệu chính thống từ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (HCDC), Sở Y tế liên quan đến nhân viên doanh nghiệp, như có phải là F0, F1, đã điều trị COVID-19 lần nào chưa, lịch sử tiêm vaccine,.. Khi quét, toàn bộ dữ liệu đều được lưu tại SafeID để truy vết và tính được mức độ an toàn tiếp xúc của từng người. Nếu nhân viên không quét mã QR trong 3 ngày liền, nhân viên đó sẽ hiển thị màu đỏ, là đối tượng nguy cơ. Công ty sẽ nhận được cảnh báo ngay khi có bất kỳ nhân viên nào nghi nhiễm hoặc đã tiếp xúc với F0.
 
Giải pháp “Khí sạch - Phòng sạch” do Công ty Cổ phần TechCa đề xuất là một máy lọc không khí, sử dụng diệt khuẩn bằng tia cực tím nên sẽ diệt sạch vi khuẩn, virus trong phòng, ngăn chặn ổ nhiễm khuẩn phát triển, lây lan. TS Huỳnh Trọng Hiền, Công ty Cổ phần TechCa, cho biết, việc lắp đèn UV trong công sở không phải là bóng đèn UV lộ thiên mà là bóng đèn công suất lớn được đưa vào trong khoang kín, sử dụng mô tơ quạt hút không khí từ bên ngoài phòng vào trong buồng máy để lọc, rồi trả lại không khí sạch ra ngoài. Vì vậy, việc sử dụng công nghệ đèn UV diệt khuẩn này an toàn ngay khi nhân viên, giáo viên và học sinh đang hoạt động trong phòng, chứ không phải như các công nghệ khác chỉ mở đèn lúc không có người.
 

Kết quả nghiên cứu khoa học cũa nhóm giảng viên, sinh viên Đại học Bách Khoa TPHCM mở ra hướng tiếp cận mới cho việc phát triển tính hiệu quả của lá trà xanh trong chế biến thực phẩm, cũng như gián tiếp nâng cao giá trị kinh tế của sản xuất nông nghiệp.

Với điều kiện thổ nhưỡng và thời tiết thuận lợi, cây chè (trà) là một trong những thế mạnh của Việt Nam. Phần lớn sản phẩm trà tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu đều dưới dạng trà búp khô, được chế biến từ nguyên liệu là đọt trà tươi thuộc phần non của cây trà. Vì thế, lá già ở thân cây trở thành phụ phẩm (lá trà phụ liệu) tồn dư một lượng lớn. Lá trà phụ liệu có hàm lượng polyphenol tổng (TPC) là 238,26 mgGAE/gck, chỉ số chống oxy hóa (DPPH) là 283,58mg TEAC/gck, EGCG đạt 10,9%. Rõ ràng, tuy chứa rất nhiều chất chống oxy hóa và khoáng có lợi cho sức khỏe cùng nhiều giá trị sinh học khác, nhưng lá trà phụ liệu chưa được tận dụng để sản xuất thành các sản phẩm giá trị gia tăng cao, gây lãng phí.

GS.TS. Đống Thị Anh Đào, chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu sản xuất bột trà xanh giàu polyphenol, caffeine, EGCG từ lá trà xanh Camellia Sinensis và ứng dụng trong thực phẩm, mỹ phẩm” cho biết mục tiêu của nhiệm vụ khoa học công nghệ được Sở KH&CN TPHCM giao thực hiện là tạo ra sản phẩm bột trà từ việc tận dụng những lá trà phụ liệu, từ đó đa dạng hóa sản phẩm từ trà xanh có giá trị kinh tế phục vụ cho cộng đồng và thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị của lá trà.

trax

 Sản phẩm bột trà xanh matcha Haru (trái) và bột trà xanh thực nghiệm (phải)

Từ 2kg cành lá ban đầu, nhóm nghiên cứu phân loại được 800g lá đạt yêu cầu, đưa vào sản xuất và thu được 76g thành phẩm bột trà xanh. Bột trà xanh thu được ở dạng bột hòa tan, có thể khuếch tán trong nước ở nhiệt độ khoảng 60oC, thuận tiện và được ưa thích cao do tạo nên dung dịch huyền phù có màu sắc chlorophyll đẹp, dịch không chứa chất xơ không tan. Bột trà xanh có TPC đạt 336,06 mgGAE/gck, hoạt tính CHống oxy hóa là 360,2 hàm lượng EGCG là 11,4% so với chất khô, hàm lượng caffeine là 2,8 % so với chất khô. Trong quy trình thực hiện, nhóm nghiên cứu tiến hành xử lý lá trà theo hướng kết hợp lạnh đông nguyên liệu và chần lá ở 85oC, trong 45 giây để giữ được màu diệp lục chlorophyll ở thành phẩm bột, nên sản phẩm có màu sắc đẹp tự nhiên, bắt mắt.

Với hàm lượng protein 18-25%, với khoảng 16 loại amino acid và khoảng 27 loại khoáng, tổng lượng khoáng là 0,9-0,95%, thành phẩm bột trà xanh phù hợp để dùng trong chế biến thực phẩm, thực phẩm chức năng, phụ gia thực phẩm, mỹ phẩm, tốt cho sức khỏe, có thể thay thế hàng ngoại nhập. Sản phẩm bột trà xanh giàu polyphenol (≥ 270mg GAE/g chất khô sản phẩm, giá trị chống oxy hóa theo DPPH ≥ 270 mg TEAC/mg chất khô sản phẩm) có thể sử dụng cũng như một số chất phụ gia bảo quản chống vi sinh vật và chống oxy hoa chất béo cho các loại bánh tươi, và xúc xích thanh trùng. Sản phẩm bột trà xanh có hạn sử dụng khoảng 5 tháng (hết hạn sử dụng thì hàm lượng chlorophyll giảm 12,85%, TPC 5,71% so với ngày đầu sau khi sản xuất), dễ dàng bảo quản nhiệt độ thường (khi chưa mở bao bì đóng kín).

trax1

Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm bột trà xanh hòa tan

Nhóm nghiên cứu cũng đã dùng bột trà xanh để làm chất bảo quản chống oxy hóa và chống vi sinh vật cho thực phẩm chế biến như bánh bông lan, xúc xích, cũng như tiến hành phối chế vào mỹ phẩm dạng xà bông tắm.

Cụ thể, đối với sản phẩm bánh bông lan, nhóm nghiên cứu đã bổ sung 1% bột trà xanh để thay cho hàm lượng chất bảo quản sorbat K 0,1%, thì bánh tươi bảo quản được 14 ngày ở nhiệt độ bình thường, đảm bảo tính ổn định của bánh và không có sự xuất hiện của vi sinh vật.

Đối với xúc xích tươi, dùng khoảng 0,5% bột trà xanh (so khối lượng nguyên liệu thịt)  thay cho nitrit K 0,016% hoặc sorbat K 0,1%, thì xúc xích bảo quản được 25 ngày (dùng bao bì hút chân không) hoặc 11 ngày (dùng bao bì không hút chân không) ở 0-4oC. Hàm lượng bổ sung 0,5% không ảnh hưởng đến mùi vị đặc trưng của xúc xích, có hiệu quả đối với vi sinh vật E.Coli, Samonella, tổng vi sinh vật hiếu khí.

Sản phẩm bột trà xanh có thể phối chế vào xà bông tắm với các tỷ lệ 1-4% để tăng tính chống oxy hóa. Theo kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, TPC trong 120 ngày đầu không thay đổi nhiều, nhưng ở ngày thứ 150 thì hàm lượng polyphenol giảm đáng kể. Hoạt tính chống oxy hóa giảm từ ngày thứ 30. Vào ngày thứ 150 của quá trình khảo sát thì hàm lượng hoạt tính chống oxy hóa giảm mạnh.

Theo GS.TS. Đống Thị Anh Đào, quy trình công nghệ sản xuất bột trà xanh hòa tan cơ học không phức tạp, sử dụng các thiết bị thông thường như thiết bị rửa, tủ lạnh đông, thiết bị rã đông (chần), máy nghiền ướt, thiết bị lọc khung bản, thiết bị phối trộn, thiết bị sấy phun. Vì thế, tuy chi phí đầu tư ở mức thấp nhưng hiệu suất cao, đáp ứng yêu cầu sản xuất bột trà xanh hòa tan quy mô công nghiệp để dùng rộng rãi trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, hoặc sản xuất mỹ phẩm.

Để xây dựng quy trình công nghệ, nhóm nghiên cứu đã tiến hành những công đoạn quan trọng như: khảo sát nguồn nguyên liệu và khảo sát quá trình xử lý nguyên liệu; khảo sát quá trình trích ly hoạt chất và chất khô bằng phương pháp siêu âm và enzym; tối ưu hoá quá trình thuỷ phân; khảo sát quá trình sấy phun và sấy lạnh dịch trích ly để tạo sản phẩm bột hoà tan.

Sau khi khảo sát tính ổn định của thành phẩm bột trà xanh và nghiên cứu kỹ các công đoạn trong quy trình công nghệ, nhóm nghiên cứu đã đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ và được chấp nhận đơn hợp lệ cho sáng chế “Phương pháp sản xuất bột trà xanh hòa tan” do Sở KH&CN TPHCM là chủ sở hữu.

Trong quá trình nghiên cứu, GS.TS. Đống Thị Anh Đào cùng các cộng sự đã công bố 04 bài báo khoa học trên các tạp chí nước ngoài như Journal of Chemical Technology & Biotechnology, Natural product communication, Current research in nutrition and food science, Food Science & Nutrition, được giới chuyên môn đánh giá cao, ghi nhận các số liệu, quy trình, thành quả nghiên cứu khoa học là thiết thực, có giá trị tri thức cao để phục vụ các nghiên cứu khoa học tiếp nối.

Sau các giai đoạn triển khai khảo sát và thực nghiệm, nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công bột trà xanh giàu hoạt chất tự nhiên bằng quy trình cơ học không phức tạp, đồng thời xây dựng tiêu chuẩn chất lượng cơ sở của nguyên liệu cùng tiêu chuẩn chất lượng cơ sở của sản phẩm. Đây là cơ sở vững chắc để tiến hành chuyển giao công nghệ, sẵn sàng ứng dụng cho triển khai sản xuất quy mô công nghiệp tạo giá trị gia tăng cao cho ngành nông nghiệp trồng trà, đồng thời mở ra cơ hội xuất khẩu bột trà xanh “Made in Vietnam”.

Bên cạnh việc thiết lập được quy trình công nghệ sản xuất bột trà xanh hòa tan với các thông số kỹ thuật phù hợp điều kiện sản xuất thực tế, tạo sản phẩm dạng bột có chất lượng tương đương và giá thành thấp hơn sản phẩm ngoại nhập, nhóm nghiên cứu còn mở ra phương hướng khai thác, sử dụng hiệu quả lá trà xanh phụ liệu (vốn chưa được sử dụng hiệu quả), tạo thêm giá trị cho cây chè, giúp người trồng chè có thêm thu nhập.


Bản quyền © 2018 Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thiết kế và phát triển bởi HCMGIS
Tổng số truy cập: 11537378